Tại đại doanh của quân Mông Cổ ở Bắc Khẩu, bên ngoài đại trướng nóc vàng từng hàng Khiếp Thiết Quân đứng nghiêm chỉnh đón khách. Đội nhạc cũng đang tấu lên những nhạc khúc để mừng khách. Hoàn Nhan Thừa Huy được sự hướng dẫn của Nạp Nha A, dẫn hai vị phó tướng cùng bước vào đại trướng, Thành Cát Tư Hãn ngồi ngay ghế giữa, các tướng lãnh Mông Cổ chia nhau đứng hai bên. Hoàn Nhan Thừa Huy quỳ lạy, nói: - Sứ thần Kim Quốc là Đô Nguyên Soái kiêm Bình Chương Chính Sự Hoàn Nhan Thừa Huy xin bái kiến Thành Cát Tư Hãn của nước Mông Cổ! Thành Cát Tư Hãn vội vàng rời chỗ ngồi, đỡ Hoàn Nhan Thừa Huy, nói: - Xin nguyên soái hãy đứng lên. Tôi biết ngài khác hơn bọn Hồ Sa Hổ, Truật Hổ Cao Kỳ, ngài là một kẻ thù đáng kính trọng hiếm có của nước Kim. Xin, mời ngồi. - Đa tạ Khả Hãn! - Hoàn Nhan Thừa Huy ngồi xuống. Thành Cát Tư Hãn đã trở về đến bên cạnh chiếc ghế của mình, nói: - Vì việc giảng hòa tôi đã ba lần phái người tới Trung Đô, hôm nay được Hoàn Nhan Nguyên Soái đích thân đến đại trướng của tôi, vậy chắc là có tin vui chứ? - Bá quan trong triều đình của chúng tôi đã bàn bạc và được thánh thượng định đoạt, nay muốn cùng nước đại Mông Cổ ký kết hòa ước, vĩnh viễn trở thành hai nước liên minh tốt đẹp với nhau! Thành Cát Tư Hãn cười, nói: - Đến nay thì các vị đã có lời phúc đáp. Người Nữ Chân các vị từ lâu sống ở Trung Nguyên đã quen ngồi kiệu, cho nên khi làm việc gì cũng không thể nhanh chóng dứt khoát như những người quen cưỡi ngựa chúng tôi! Hả hả... - Vì vấn đề này có tương quan đến giang sơn xã tắc, nên tất nhiên phải cân nhắc kỹ lưỡng. - Tôi hiểu. Chắc các vị có ý nghĩ là ba năm trước đây binh lực của các vị còn mạnh, nhưng tôi lại từ chối giảng hòa. Ba năm sau, binh lực của các vị đã suy yếu, còn binh lực của chúng tôi từ mười vạn đã tăng lên mấy chục vạn, thế mà chúng tôi lại chủ động giảng hòa, cho nên các vị nghi ngờ trong việc giảng hòa này có điều gian trá không đáng tin, phải không? Hoàn Nhan Thừa Huy đáp: - Mọi người đều có những ý kiến khác nhau, vậy xét về tình cũng nên tha thứ. Thành Cát Tư Hãn tươi cười, ngồi trở xuống ghế, nói: - Tôi xin tiết lộ một cơ mật này cho ngài biết, ấy là tôi đã mệt mỏi lắm rồi! - Nói dứt lời, Thành Cát Tư Hãn lại cười. Hoàn Nhan Thừa Huy vẫn ngồi một cách nghiêm túc. Thành Cát Tư Hãn ngưng tiếng cười, nói: - Người Nữ Chân vào làm chủ Trung Nguyên, từng tiêu diệt nước Liêu, đánh nước Tống, trong khi đó thì người Mông Cổ chúng tôi vẫn tiếp tục làm nghề chăn nuôi trên đồng cỏ, không hề gây trở ngại gì đến các vị. Thế mà vua Hy Tông của các vị đã vô cớ giết chết tổ tiên của chúng tôi, bắt ép chúng tôi phải thần phục, rồi lại theo định kỳ ba năm một lần, tiến hành việc “giảm đinh", tàn sát bá tánh người Mông Cổ của chúng tôi. Riêng Vệ vương Vĩnh Tế còn rêu rao là sẽ nhân lúc tôi đi nộp thuế, bắt tôi đóng đinh trên con lừa gỗ, những hành động đó chứng tỏ các vị hiếp đáp người ta thái quá, cho nên tôi mới cử binh phục thù. Bây giờ hoàng đế nước Kim đã bằng lòng giảng hòa, rất tốt, vậy hãy nói điều kiện đi! Hoàn Nhan Thừa Huy nói: - Thánh thượng xuống chiếu đưa Kỳ Quốc công chúa dâng cho Thành Cát Tư Hãn làm phi, học theo cái lệ trước kia của người Kim đưa Chiêu Quân ra biên tái để xây dựng mối tình hòa hiếu Tấn - Tần. Thành Cát Tư Hãn hỏi: - Đó là con gái của người đẹp trai phải không? Như vậy đúng là do trời cao đã sắp xếp! Các tướng đều cười. Có người nói: - Thế là có một hoàng hậu công chúa! Thành Cát Tư Hãn hỏi: - Thế thì đối với những tướng lãnh đã khổ chiến trong ba năm của tôi quý quốc làm gì để xoa dịu lòng căm phẫn của họ, an ủi cho sự lao khổ nhọc nhằn của họ đây? Hoàn Nhan Thừa Huy đáp: - Tôi có mang theo năm trăm đồng nam, năm trăm đồng nữ để chúng lo việc hầu hạ các tướng sĩ, đồng thời, còn có ba nghìn chiến mã để bù đắp lại sự tổn thất của quý quân đội. Ngoài ra lại còn một trăm xe đủ thứ đồ vật gồm gấm vóc, lụa là, vàng bạc, để cung cấp cho nhu cầu của quân đội quí quốc trên đường trở về nước. - Tốt lắm! - Thành Cát Tư Hãn đứng lên thân mật choàng vai Hoàn Nhan Thừa Huy nói tiếp - Chuyện công đã xong rồi, vậy bây giờ chúng ta hãy cùng thoải mái một tí! Phía trên điểm trướng đài có đặt sẵn một chiếc bàn, trên mặt bàn cũng đã bày sẵn tiệc rượu. Thành Cát Tư Hãn cùng Hoàn Nhan Thừa Huy bước lên đó cùng đối ẩm. Mộc Hoa Lê cưỡi ngựa chỉ huy cuộc duyệt binh ở phía dưới. Các tay kỵ sĩ đều cố ý phô trương thuật cưỡi ngựa của mình cho Hoàn Nhan Thừa Huy xem. Thành Cát Tư Hãn tươi cười nói với Hoàn Nhan Thừa Huy: - Này Đô Nguyên Soái, ngài thấy binh sĩ của tôi thế nào? Hoàn Nhan Thừa Huy đáp: - Kể là dũng cảm gan dạ nhưng... - Nhưng thế nào? - Nghe đâu trong số người đó có những người quen tính háo sát, thích lấy việc giết người làm trò vui, tôi không thích những tay đồ tể như vậy. Vũ lực có thể giết người, nhưng không thể phục người! - Thế ư? Xin mời Đô Nguyên Soái hãy nhìn các vị đang cưỡi ngựa ở phía bên kia, đó là Minh An, Thạch Mạt Dã Tiên, Quách Bảo Ngọc, Gia Luật A Hải, Gia Luật Bất Hoa, Lưu Bá Lâm, Sử Bỉnh Trực, Sử Thiên Nghê... Họ toàn là quan viên cũ của nước Kim cả. Chính họ vì ngưỡng mộ uy danh của tôi, nên mới tìm tới quy thuận! Hoàn Nhan Thừa Huy cất tiếng cười to. Thành Cát Tư Hãn hỏi: - Ngài cười chi thế? Hoàn Nhan Thừa Huy đáp: - Tôi vui mừng vì trong số người đó không có người Nữ Chân. Thành Cát Tư Hãn không khỏi chưng hửng, nhưng cũng cất tiếng cười to và nói: - Người Hán, người Khiết Đan vì không quên mối thù diệt tộc, không quên mối hận vong quốc, đó chính là cái họa nằm ngay trong ruột của quý quốc đấy? Hoàn Nhan Thừa Huy nói: - Tôi chỉ mong Khả Hãn đừng đi vào vết xe đổ cũ! Thành Cát Tư Hãn lại chưng hửng, nói: - Đúng là người có lòng dũng cảm, là người có tài ăn nói! Tôi tiến quân vào Trung Nguyên lần này, chỉ nhằm để báo thù rửa hận, để nêu cao chính nghĩa, chứ không có ý định tiêu diệt quốc gia của ai khác, cho nên tôi mới chủ động đề xuất việc giảng hòa với quý quốc! Hoàn Nhan Thừa Huy hỏi: - Vậy Khả Hãn định bao giờ rút quân? - Tôi vẫn còn chưa thấy mặt Kỳ Quốc công chúa kia mà! - Tại hạ sẽ tức khắc trở về Trung Đô để đưa Kỳ Quốc công chúa đến Bắc Khẩu hoàn thành hôn lễ với Khả Hãn và sau đó đích thân tôi cũng sẽ tiễn Khả Hãn kéo quân ra khỏi Cư Dung Quan. - Ồ! Tôi đâu dám làm nhọc Đô Nguyên Soái phải đích thân đưa tiễn chúng tôi! Hoàn Nhan Thừa Huy với một thái độ không kiêu căng mà cũng không tự ti, đáp: - Không! Hoàn Nhan Thừa Huy tôi nhận trách nhiệm nặng nề của hoàng thượng, nhất định sẽ tiễn đưa Khả Hãn sớm rời khỏi quan ải! Thành Cát Tư Hãn đưa mắt nhìn Hoàn Nhan Thừa Huy, nói: - Có phải ngài sợ chúng tôi không thi hành hòa ước chăng? - Không dám! Lời nói của Khả Hãn nặng như chín đỉnh đồng, Hoàn Nhan Thừa Huy tôi chẳng qua thay mặt hoàng thượng để tỏ tình chủ nhân mà thôi! - Thôi được! Tôi muốn nói rõ mọi việc trước, ấy là nếu quý quốc phản phúc vô thường, có ý chà đạp lên hòa ước, thì cá nhân tôi có thể nhẫn nhịn, nhưng thanh mã tấu của tôi thì không nhịn được đâu! Nói dứt lời, ông tuốt mã tấu chặt đứt một góc bàn. Sau mấy hôm, Hoàn Nhan Thừa Huy dùng ngựa đứng bên ngoài Cư Dung Quan, trong khi quân đội Mông Cổ dẫn từng đoàn tù binh, những tay thợ giỏi, cũng như đánh từng cỗ xe chứa đầy chiến lợi phẩm lần lượt rút lui khỏi cửa ải này. Mùa xuân năm 1214, Thành Cát Tư Hãn sau khi nhận xét kỹ thời thế, đã chủ động giảng hòa, mang Kỳ Quốc công chúa và bao nhiêu tù binh, tiền của rút lui trở về thảo nguyên để nghỉ ngơi chờ đợi thời cơ. Trong khi đó, thay vì nước Kim có thể chụp lấy cơ hội đó để chấn chỉnh mọi mặt, thì họ lại phát động những cuộc tranh giành quyền lực giữa nhau! Quân đội Mông Cổ vừa rút lui thì Hồ Sa Hổ được vua Vĩnh Tế phục chức trở lại, đã lợi dụng quân đội nắm trong tay phát động một cuộc chính biến. Hắn bắt vua Vĩnh Tế là ngươi từng khoan dung cho hắn nhiều lần đem nhốt vào thiên lao. Hồ Sa Hổ và đồng bọn đứng trước cửa thiên lao, trong khi binh sĩ dẫn vua Vĩnh Tế tóc tai bỏ xõa để đưa vào nhà ngục. Vua Vĩnh Tế vừa khóc vừa nói: - Hồ Sa Hổ ơi! Hồ tướng quân ơi! Trẫm đối xử với ngươi đâu có bạc! Đã mấy lần trẫm bác bỏ ý kiến của số đông không giết ngươi, thế mà ngươi lại lấy oán báo ân như thế này! Bớ Hồ tướng quân! Hãy thả trẫm ra, trẫm bằng lòng chia một nửa giang sơn này cho tướng quân. Xin tướng quân hãy mau thả trẫm ra! Hồ Sa Hổ phun một bãi nước bọt vào mặt vua Vĩnh Tế, nói qua giọng hung hăng: - Một nửa giang sơn của ông đã lọt vào tay của người Mông Cổ rồi, vậy không còn phần nào của ông đâu! Một người không có đức lại không có tài như ông, nếu không thoái vị thì thần dân của nước đại Kim này sẽ chết không có chỗ chôn thây! Nếu ông là người sáng suốt, thì chính ông phải tự đi tìm lấy cái chết. Ông làm như vậy mới xứng đáng là con cháu của A Cốt Đả! - Hồ Sa Hổ nói dứt lời, thì quay lưng bỏ đi. Vua Vĩnh Tế la lớn: - Bớ Hồ tướng quân!.. Hồ... Hồ... Hồ Sa Hổ nhà ngươi là một tên phản thần tặc tử, ta thật hối hận vì không nghe theo lời khuyên vàng ngọc của Đồ Thiện Dật! Đúng là ta đã nuôi ong tay áo, vậy chuyện ta làm thì ta tự chịu! Nhưng, Hồ Sa Hổ ngươi cũng sẽ không có được cái chết tốt đâu! Hồ Sa Hổ ra hiệu cho bọn tả hữu, tức thì một tướng lãnh bước tới rút kiếm ra đâm thẳng vào ngực vua Vĩnh Tế. Vua Vĩnh Tế đứng bên trong song sắt, chỉ biết trừng đôi mắt ra nhìn, rồi ngồi bẹp xuống mặt đất, trông giống như ông ta đang cười! Tại kim điện ở Trung Đô, văn võ quần thần đang đứng xếp hàng, phía sau họ là quân đội của Hồ Sa Hổ và đồng bọn, tên nào tên nấy sát khí đằng đằng, quần thần mặt mày tái mét, có người run cầm cập. Hồ Sa Hổ tay đè lên chuôi gươm, bước thẳng lên điện đường. Ông ta quắt mắt nhìn quần thần nói: - Vệ vương Vĩnh Tế là kẻ vô đạo, khiến nước Đại Kim sắp sửa tiêu vong. Hồ Sa Hổ ta đứng ra cứu vãn tình thế, buộc hắn phải thoái vị. Nhưng, thiên hạ không thể một ngày không có vua, vậy ta bằng lòng thụ mệnh giữa tình thế hiểm nguy này, tạm đứng ra giữ chức Giám quốc Đô Nguyên Soái, nắm hết đại quyền quân quốc trong tay. - Nói dứt lời, ông ta bước thẳng lên ngai vàng ngồi xuống. - Nhà ngươi hãy đứng lên! - Tiếng quát của Hoàn Nhan Cương vang rền như tiếng đại hồng chung, đôi mắt của ông trợn to như muốn tét khóe. Hồ Sa Hổ đứng lên theo bản năng. Hoàn Nhan Cương bước tới mấy bước, chỉ thẳng vào mặt Hồ Sa Hổ nói tiếp: - Nước Đại Kim sắp mất chỉ vì các tướng soái chẳng ra chi. Hồ Sa Hổ ngươi đã mấy phen chiến bại, tội trạng của ngươi không kém hơn Vệ vương. Vệ vương thoái vị, nhà ngươi có tài có đức gì, còn mặt mũi nào dám tự xưng là Giám quốc? Hồ Sa Hổ trấn tĩnh trở lại, nói: - Thiên tử thiếu sáng suốt, làm cho tướng soái có tài cũng không thể thi triển được, dẫn tới hao binh tổn tướng, đó là cái lỗi của một mình Vệ vương! - Ngươi chỉ nói bậy! - Hoàn Nhan Cương không hề nhường bước, nói tiếp - Nhà ngươi giữ chức Lưu thủ Tây Kinh, chưa đánh nhau với giặc đã vội bỏ chạy, đấy cũng là cái lỗi của Vệ vương hay sao? Tiếp đến, nhà ngươi giữ Cư Dung Quan lại để cho người Mông Cổ hạ được quan ải này, kéo thẳng vào Kinh đô. Chả lẽ đó cũng là cái lỗi của Vệ vương hay sao? Một đồng bọn của Hồ Sa Hổ bước tới xô Hoàn Nhan Cương, nói: - Này tên lão thất phu kia! Tự cổ chí kim không ai lại lấy một sai sót nhỏ để phủ nhận cái đức lớn. Giám quốc Hồ Sa Hổ trừ một hôn quân, công lớn trùm thiên hạ và sẽ lưu danh thiên cổ! Hoàn Nhan Cương phun một bãi nước bọt, nói: - Một tên thí quân soán ngôi, thì đó chỉ là một tên loạn thần tặc tử. Hồ Sa Hổ nhà ngươi chỉ có thể để tiếng thối muôn đời mà thôi! Hai tên đồng bọn của Hồ Sa Hổ từ phía sau lưng rút kiếm đâm Hoàn Nhan Cương. Hoàn Nhan Cương té quị xuống đất. Bá quan văn võ thấy thế đều sợ hãi. Hồ Sa Hổ quát to: - Tất cả đứng yên đừng lộn xộn! Ai dám đứng ra minh oan cho Vệ vương Vĩnh Tế chống lại Giám quốc ta, thì cuộc đời sẽ kết thúc như thế đó! Hãy lôi xác hắn ra ngoài ngọ môn phơi thây ba ngày! Quân Kim nắm chân Hoàn Nhan Cương kéo lết ra ngọ môn. Bá tánh nhìn thấy đều khiếp đảm.