PHẦN 4
TỔ ONG BẮP CÀY
CHƯƠNG 36

     ÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Ánh mắt Lincoln Rhyme lướt qua lướt lại bảng chứng cứ một cách ám ảnh. Từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
Thêm lần nữa.
Quái quỷ thế nào mà cái máy tách hợp chất chết tiệt chạy lâu vậy? Rhyme tự hỏi.
Jim Bell và Mason Germain ngồi gần đó, cả hai đều im lìm. Lucy đã gọi điện về cách đấy mấy phút, bảo rằng họ bị mất dấu vết và đang chờ đợi ở một địa điểm nằm về phía bắc ngôi nhà lưu động – ô C-5.
Chiếc máy tách hợp chất kêu ầm ầm và tất cả mọi người trong căn phòng vẫn không ai nói gì, chờ đợi kết quả.
Những phút im lặng kéo dài cuối cùng cũng bị phá vỡ khi giọng Ben Kerr cất lên. Anh ta khẽ khàng bảo Rhyme: “Bọn bạn từng đặt biệt hiệu cho tôi, ông biết đấy. Có thể ông đang thắc mắc”.
Rhyme nhìn Ben.
“Big Ben. Giống như tên chiếc đồng hồ ở nước Anh ấy. Có thể ông đang thắc mắc.”
“Không. Cậu muốn nói hồi đi học ấy hả?”
Một cái gật đầu. “Hồi trung học. Mười sáu tuổi, tôi đã cao 1m90. Tôi rất hay bị giễu cợt. Big Ben. Và cả những biệt hiệu khác nữa. Vì thế tôi chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái cho lắm về hình dáng bên ngoài của mình. Tôi nghĩ có lẽ đó là lý do tại sao tôi đã cư xử hơi kỳ cục lúc mới gặp ông.”
“Bọn bạn từng khiến cậu trải qua khoảng thời gian khó khăn, phải không?”. Rhyme hỏi, vừa để tỏ ý chấp nhận lời xin lỗi vừa để lái câu chuyện sang hướng khác.
“Tất nhiên rồi. Cho tới khi tôi tham gia đấu vật ở trường và hạ Darryl Tennison sau 3,2 giây, còn cậu ta thì phải lâu hơn như thế nhiều mới hồi phục được.”
“Tôi từng thường xuyên bỏ giờ giáo dục thể chất”, Rhyme bảo Ben. “Tôi bịa đặt ra các lý do của bác sĩ, của cha mẹ tôi – tôi phải nói là các lý do nghe khá xác đáng đấy – rồi lẻn vào phòng thí nghiệm.”
“Ông đã như thế à?”
“Ít nhất cũng mỗi tuần hai lần.”
“Và ông làm thí nghiệm ?”
“Tôi hay đọc, nghịch ngợm với các thiết bị. Có một vài lần, tôi nghịch ngợm với Sonja Metzger.”
Thom và Ben bật cười.
Nhưng Sonja, bạn gái đầu tiên của Rhyme, lại khiến anh nghĩ về Amelia Sachs, và anh không thích cái kết cục mà những ý nghĩ này dẫn anh tới.
“Được rồi”, Ben nói. “Chúng ta đã có kết quả.” Màn hình máy vi tính bừng hiện kết quả phân tích mẫu chứng mà lúc trước Rhyme yêu cầu Jim Bell cung cấp. Anh chàng to lớn gật đầu. “Đây là kết quả: dung dịch chứa năm mươi phần trăm chất cồn. Nước, với nhiều khoáng chất.”
“Nước giếng”, Rhyme nói.
“Rất có khả năng”, nhà động vật học tiếp tục. “Tiếp theo là dấu hiệu của formaldehyde, phenol, fructose, dextrose, cellulose.”
“Đối với tôi thế là đủ”, Rhyme tuyên bố. Anh tự nhủ: Con cá có lẽ vẫn còn ở trên cạn nhưng phổi của nó vừa mọc ra. Anh bảo Bell và Mason: “Tôi đã mắc sai lầm. Một sai lầm lớn. Tôi phát hiện được men nở và tôi cho rằng đó là từ chỗ cối xay, chứ không phải từ nơi Garrett đang thực sự giữ Mary Beth. Nhưng tại sao một cáicối xay lại tạo ra men nở? Người ta chỉ tìm thấy men nở ở hiệu bánh... hoặc – anh nhướn lông mày nhìn Bell - ở chỗ nào đấy mà người ta đang ủ ngũ cốc”. Anh hất đầu chỉ chiếc chai trên bàn. Chất lỏng bên trong là thứ Rhyme vừa yêu cầu Bell lấy lên từ tầng hầm văn phòng cảnh sát trưởng. Nó là rượu lậu một trăm mười phần trăm độ chuẩn – đựng bằng những cái bình trước đây đựng nước trái cây mà Rhyme trông thấy một cảnh sát dọn dẹp đi khi anh chiếm căn phòng này để biến thành phòng thí nghiệm. Đó là mẫu Ben vừa cho chạy qua máy phân tích hợp chất.
“Đường và men nở”, nhà hình sự học tiếp tục. “Chúng là thành phần trong rượu. Và cellulose trong mẻ “trăng sáng” kia...”. Rhyme nhìn màn hình máy vi tính.
“Có lẽ là từ các sợi giấy – tôi đồ rằng khi người ta cất rượu lâu, người ta phải lọc.”
“Đúng”, Bell khẳng định. “Và phần lớn dân “trăng sáng” sử dụng loại phin lọc cà phê sản xuất hàng loạt.”
“Hoàn toàn giống những sợi giấy chúng tôi tìm thấy trên quần áo của Garrett. Và dextrose, fructose – các loại đường phức hợp được tìm thấy trong trái cây. Đó là từ dấu nước trái cây còn đọng lại trong bình. Ben nói nó có vị chát – giống như việt quất. Jim, anh đã bảo tôi đấy là loại bình đựng rượu lậu phổ biến nhất. Đúng không?”
“Nhãn hiệu Ocean Spray.”
“Vậy”, Rhyme tóm tắt lại. “Garrett đang giữ Mary Beth trong một ngôi nhà gỗ vốn của dân cất rượu lậu – có lẽ là một nhà đã bị bỏ hoang kể từ lần cơ quan chức trách ập đến khám xét.”
“Lần nào?”, Mason hỏi.
“Chà, cũng giống như ngôi nhà lưu động”, Rhyme đáp ngắn gọn, không thích cứ luôn phải giải thích những điều hiển nhiên. “Nếu Garrett sử dụng nơi nào đó để giấu Mary Beth thì nơi ấy ắt đã bị bỏ hoang. Và lý do duy nhất khiến người ta từ bỏ một xưởng chưng cất rượu đang hoạt động là gì?”
“Bị cơ quan thuế xộc đến”, Bell trả lời.
“Phải”, Rhyme nói. “Hãy gọi điện đi xác định địa điểm của tất cả các xưởng chưng cất rượu từng bị khám xét trong vòng vài năm vừa qua. Đó sẽ là một ngôi nhà được xây dựng từ thế kỉ XIX, xung quanh có nhiều cây cối, quét sơn màu nâu – tuy nó chưa chắc đã quét sơn màu nâu vào thời điểm bị khám xét. Nó cách nơi Frank Heller sống bốn hay năm dặm, bên cạnh một cái vũng Carolina hoặc từ sông Paquo người ta sẽ phải đi vòng qua một cái vũng mới tới đấy được.”
Bell rời khỏi phòng, đi gọi điện cho cơ quan thuế.
“Thật thú vị, Lincoln”, Ben nói. Thậm chí Mason Germain xem chừng cũng bị ấn tượng.
Lát sau, Bell vội vã quay lại. “Đây rồi!” Anh ta nghiên cứu mảnh giấy cầm trong tay, rồi bắt đầu dò theo bản đồ, dừng ở ô B-4. Anh ta khoanh tròn một điểm. “Đúng chỗ này. Trưởng bộ phận điều tra của cơ quan thuế nói đấy là một cuộc tập kích lớn. Họ đã tiến hành cách đây một năm. Một nhân viên mật vụ của anh ta đi kiểm tra qua chỗ đó hai, ba tháng trước và thấy nó được sơn thành màu nâu, bởi vậy nhân viên này cho rằng nên kiểm tra xem phải chăng nó lại được sử dụng. Nhưng anh ta nói nó vẫn bị bỏ hoang và không quan tâm đến nó nữa. Ồ, với cả cách nó gần hai mươi thước có một cái vũng Carolina lớn.”
“Có đường để ô tô vào được đó chứ?”, Rhyme hỏi.
“Phải có”, Bell trả lời. “Tất cả các xưởng chưng cất rượu đều gần đường – để đem nguyên liệu đến và vận chuyển sản phẩm đi.”
Rhyme gật đầu quả quyết nói: “Tôi cần một tiếng đồng hồ nói chuyện riêng với cô ấy – để thuyết phục cô ấy ra. Tôi biết là tôi có thể làm điều đó”.
“Như thế thật mạo hiểm, Lincoln.”
“Tôi cần một tiếng đồng hồ ấy”, Rhyme nói, mắt không rời mắt Bell.
Cuối cùng, Bell trả lời: “Được rồi. Nhưng nếu Garrett thoát lần này, sẽ có một cuộc săn đuổi dốc toàn lực”.
“Tôi hiểu. Anh nghĩ xe của tôi vào được đấy không?”
Bell nói: “Đường chẳng rộng lắm, nhưng…”
“Tôi sẽ đưa anh đến đấy”, Thom nói dứt khoát. “Dù có thế nào, tôi cũng sẽ đưa anh đến đấy.”
Năm phút sau khi Rhyme lăn xe ra khỏi trụ sở chính quyền quận, Mason Germain quan sát Jim Bell trở về văn phòng. Anh ta đợi một lát và chắc chắn rằng không ai trông thấy mình, liền bước ra hành lang, đi về phía cửa trước tòa nhà.
Có hàng chục máy điện thoại trong trụ sở chính quyền quận mà Mason có thể sử dụng để gọi, nhưng anh ta lại bước ra ngoài trời nóng, vội vã băng ngang khoảng sân sang một dãy điện thoại công cộng trên vỉa hè bên kia đường. Anh ta thọc tay vào túi quần tìm mấy đồng xu. Anh ta nhìn xung quanh và khi không trông thấy ai liền thả chúng vào máy điện thoại, bấm những chữ số ghi trên một mảnh giấy nhỏ.
Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John… Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John…
Nhìn chằm chằm dãy hộp thực phẩm trước mặt, cả chục ông chủ trang trại chằm chằm nhìn đáp lại cô, miệng nở nụ cười giễu cợt, đầu óc Amelia Sachs ù đặc khi nghe mãi cái giai điệu ngớ ngẩn này, bài thánh ca cho sự ngu dại của cô.
Sự ngu dại đã cướp đi cuộc đời Jesse Corn. Và đã hủy hoại cuộc đời chính bản thân cô nữa.
Sachs chỉ ý thức được một cách mơ hồ về ngôi nhà gỗ nơi bây giờ cô đang ngồi, làm tù nhân của gã trai mà cô đã đánh liều cuộc đời mình để giải cứu. Và lúc thì tức giận Garrett, lúc thì tức giận Mary Beth.
Không, tất cả những gì cô có thể trông thấy là cái đốm màu đen bé tí xuất hiện trên trán Jesse Corn.
Tất cả những gì cô nghe được là cái giai điệu ê a. Farmer John…Farmer John…
Rồi Sachs đột ngột hiểu ra một điều: thi thoảng tâm trí Lincoln Rhyme lại bỏ đi đâu đó. Anh có thể vẫn đang chuyện trò nhưng lời lẽ trở nên hời hợt, anh có thể vẫn đang mỉm cười nhưng nụ cười không thật, anh có thể vẫn đang tỏ ra lắng nghe nhưng chẳng nghe thấy gì. Những lúc như thế, cô biết, anh đang tính tới cái chết. Anh đang suy nghĩ về việc tìm kiếm sự giúp đỡ của một tổ chức trợ tử nào đấy kiểu như Hội Bến Mê. Hoặc thậm chí, như một số người tàn tật nặng đã làm, là thuê sát thủ. (Rhyme, từng đóng góp cho nhà tù không ít kẻ tội phạm có tổ chức – tội phạm băng nhóm – hiển nhiên là có quan hệ với các đối tượng loại này. Thực tế, một số có lẽ còn vui vẻ phục vụ miễn phí.)
Nhưng cho tới thời điểm này – khi cuộc đời chính bản thân cô cũng tan nát y như cuộc đời Rhyme, không, tan nát hơn – cô vẫn luôn luôn cho rằng anh suy nghĩ như thế là sai lầm. Tuy nhiên, bây giờ cô hiểu được những cảm giác trong lòng anh.
“Không!”, Garrett nói to, nhảy bật dậy và nghênh tai về phía cửa sổ.
Người ta phải luôn luôn lắng nghe. Nếu không có thể bị kẻ khác thộp cổ lúc nào chả biết.
Rồi Sachs cũng nghe được. Một chiếc ô tô đang từ từ tiến đến gần.
“Bọn họ đã tìm ra chúng ta!”, gã trai kêu lên, cầm lấy khẩu súng. Gã chạy tới chỗ cửa sổ, nhìn chằm chằm ra ngoài. Gã có vẻ bối rối. “Gì thế kia?”, gã thì thào.
Một cánh cửa đóng đánh sầm. Rồi một lúc lâu im lặng.
Rồi cô nghe thấy tiếng gọi: “Sachs. Anh đây”.
Gương mặt cô thoáng hiện nụ cười yếu ớt. Không có người nào khác trong vũ trụ này có thể phát hiện được cái chốn này, trừ Lincoln Rhyme.
“Sachs, em có ở đấy không?’
“Đừng!”, Garrett thì thầm. “Đừng nói gì cả!”
Phớt lờ gã, Sachs đứng lên và bước tới chỗ ô cửa sổ vỡ kính. Ngoài kia, phía trước ngôi nhà gỗ, đỗ nghiêng nghiêng trên lối đi đắp đất, là chiếc Rollx màu đen. Rhyme đã lăn chiếc Storm Arrow vào sát ngôi nhà – chỉ dừng lại khi một mô đất gần hàng hiên không cho phép anh vào sát hơn nữa. Thom đứng bên cạnh anh.
“Chào anh, Rhyme”, Sachs nói.
“Im nào!”, gã trai gay gắt thì thào.
“Anh nói chuyện với em được không?”, nhà hình sự học hỏi to.
Mục đích là gì? Sachs băn khoăn tự nhủ. Tuy nhiên, cô vẫn trả lời: “Được”.
Sachs bước tới cửa ra vào và bảo Garrett: “Mở ra. Tôi sẽ ra ngoài”.
“Đừng, đó là một thủ đoạn”, gã trai nói. “Bọn họ sẽ tấn công...”
“Mở cửa ra, Garrett”, Sachs nói dứt khoát, mắt xoáy vào mắt gã trai. Gã nhìn xung quanh căn phòng. Rồi gã cúi xuống, lôi những mảnh gỗ chèn phía dưới cánh cửa ra. Sachs đẩy cánh cửa, chiếc còng khóa chặt cổ tay cứng đờ của cô kêu leng  keng như tiếng nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết.
“Hắn đã làm việc ấy, Rhyme”, cô nói trong lúc ngồi trên bậc lên xuống hàng hiên, trước mặt anh. “Hắn đã giết Billy...Em đã sai lầm. Hết sức sai lầm.”
Nhà hình sự học nhắm mắt lại. Cô hẳn đang cảm thấy sợ hãi biết bao, anh nghĩ. Anh chăm chú nhìn cô, gương mặt cô tái nhợt, ánh mắt lạnh lùng. Anh hỏi: “Mary Beth có sao không?”.
“Không sao. Khiếp sợ nhưng không sao cả.”
“Cô ta đã chứng kiến hắn làm việc đó?”
Sachs gật đầu.
“Không có gã đàn ông mặc quần yếm nào?”, Rhyme hỏi.
“Không có. Garrett đã bịa đặt ra. Để được em giải cứu. Hắn đã sắp xếp tất cả ngay từ đầu. Đánh lạc hướng chúng ta về phía khu Bờ Ngoài. Giấu một con thuyền, các thứ dự trữ. Hắn đã lên kế hoạch hành động nếu bị đuổi theo sát. Thậm chí đã có một ngôi nhà bí mật – cái ngôi nhà lưu động mà anh phát hiện được ấy. Nhờ chiếc chìa khóa, phải không? Chiếc chìa khóa em tìm thấy trong lọ đựng ong bắp cày? Anh đã lần ra dấu vết hắn và em bằng cách ấy.”
“Nhờ chiếc chìa khóa”, Rhyme khẳng định.
“Đáng lẽ em phải nghĩ tới điều ấy. Hắn và em đáng lẽ phải lưu lại một nơi khác.”
Rhyme trông thấy Sachs bị còng và Garrett đang ở chỗ cửa sổ, bực bội ngó ra, tay lăm lăm một khẩu súng. Tình huống bây giờ là tình huống bắt giữ con tin. Garrett sẽ không tự nguyện đi ra. Đã đến lúc đề nghị FBI tham dự vào. Rhyme có người bạn, Arthur Potter, bây giờ đã nghỉ hưu, nhưng vẫn là người thương thuyết giỏi nhất của cơ quan này từ trước tới nay. Ông ta sống ở Washington và có thể xuống được đây sau vài tiếng đồng hồ.
Anh quay lại với Sachs. “Còn Jesse Corn?”
Cô lắc đầu. “Em không biết đấy là anh ta, Rhyme. Em tưởng là một trong số hai gã bạn của Culbeau. Một cảnh sát nhảy bổ đến em, làm súng em cướp cò. Nhưng đó là lỗi ở em – em đã chĩa súng không cài chốt an toàn vào mục tiêu chưa xác định chắc chắn. Em đã vi phạm quy tắc thứ nhất.”
“Anh sẽ thu xếp cho em có được luật sư giỏi nhất nước.”
“Việc ấy không quan trọng.”
“Việc ấy quan trọng chứ, Sachs. Quan trọng. Chúng ta sẽ giải quyết được tình hình theo cách nào đó.”
Sachs lắc đầu. “Không có gì để giải quyết đâu, Rhyme. Đây là tội giết người. Một vụ quá rõ ràng rồi.” Rồi cô ngẩng nhìn, ánh mắt vượt qua Rhyme. Cô chau mày, đứng lên. “Cái gì...?”
Một giọng phụ nữ đột ngột hô to: “Đừng động đậy! Amelia, cô đã bị bắt”.
Rhyme cố gắng ngoái lại nhưng không thể quay đầu được nhiều. Anh thổi vào ống điều khiển và xoay xe nửa vòng. Anh trông thấy Lucy cùng với hai đồng sự đang khom lưng chạy tới từ phía rừng. Vũ khí lăm lăm trong tay, họ không rời mắt khỏi các ô cửa sổ của ngôi nhà gỗ. Hai người nam giới nấp vào sau hai thân cây. Còn Lucy thì tự tin bước đến chỗ Rhyme, Thom và Sachs, súng chĩa ngang ngực Sachs.
Đội tìm kiếm đã phát hiện ra ngôi nhà gỗ này bằng cách nào? Họ nghe thấy tiếng Rhyme chăng? Hay Lucy lại lần được theo dấu vết Garrett?
Hay Bell thất hứa với anh và cung cấp thông tin cho họ?
Lucy bước thẳng đến chỗ Sachs và ngay lập tức ra một đòn mạnh vào mặt cô, nắm đấm của Lucy nện vào cằm nữ cảnh sát. Sachs bật tiếng rên khe khẽ vì đau, bước lùi lại. Cô không nói gì.
“Không!”, Rhyme kêu lên. Thom bước tới, nhưng Lucy tóm cánh tay Sachs. “Mary Beth có trong kia không?”
“Có.” Cằm Sachs rỉ máu.
“Cô ấy ổn chứ?”
Một cái gật đầu.
Nhìn về phía ô cửa sổ, Lucy hỏi: “Hắn đang giữ vũ khí của cô à?”.
“Vâng.”
“Lạy Chúa.” Lucy gọi hai đồng sự. “Ned, Trey, hắn ở bên trong nhà. Hắn có vũ khí.” Rồi cô gay gắt bảo Rhyme: “Tôi nghĩ là anh nên vào chỗ nấp đi”. Và thô bạo đẩy Sachs ra phía sau chiếc ô tô đang đỗ đối diện ngôi nhà gỗ.
Rhyme di chuyển theo hai người phụ nữ. Thom giữ chiếc xe lăn cho nó không bị đổ khi lăn ngang qua khoảng sân gồ ghề.
Lucy quay sang Sachs, vẫn tóm cánh tay cô: “Hắn đã làm việc đó, phải không? Mary Beth nói cho cô biết rồi phải không? Garrett đã giết Billy”.
Sachs nhìn xuống đất. Rốt cuộc, cô nói: “Phải…Tôi xin lỗi. Tôi…”.
“Xin lỗi không có ý nghĩa chết tiệt gì đối với tôi hay đối với bất cứ ai khác. Đối với Jesse Corn lại càng không…Garrett có thứ vũ khí gì trong đó nữa không?”
“Tôi không biết. Tôi không trông thấy.”
Lucy quay lại ngôi nhà gỗ, hét to: “Garrett, mày có nghe thấy tao nói không? Lucy Kerr đây. Tao muốn mày bỏ khẩu súng ấy xuống và bước ra ngoài, đặt hai bàn tay trên đầu. Mày hãy làm như vậy ngay bây giờ đi, được chứ?”.
Sự đáp trả duy nhất là cánh cửa đóng sầm lại. Tiếng nện không rõ rệt lắm vang khắp bãi đất trống. Garrett đang đóng đinh hoặc chèn cánh cửa. Lucy rút điện thoại di động ra, bắt đầu gọi.
“Này, cô cảnh sát.” Một giọng đàn ông cắt ngang. “Cô cần giúp đỡ chăng?”
Lucy quay lại. “Ôi, không”, cô lẩm bẩm.
Rhyme cũng liếc nhìn về phía giọng nói. Một gã đàn ông cao to, tóc buộc vổng, mang khẩu súng trường đi săn, đang rẽ cỏ bước về phía họ.
“Culbeau”, Lucy quát. “Tôi đang có việc phải giải quyết ở đây và tôi không thể nào giải quyết được cả anh nữa. Hãy đi đi, đi khỏi chỗ này đi.” Cô để ý thấy có cái gì đó ngoài bãi cỏ. Một gã đàn ông nữa đang từ từ tiến về phía ngôi nhà gỗ. Gã mang khẩu súng trường quân đội màu đen, nheo mắt trầm ngâm xem xét bãi cỏ và ngôi nhà. “Sean phải không?”. Lucy hỏi.
Culbeau nói: “Phải, và Harris Tomel ở kia”.
Tomel bước về phía viên cảnh sát người Mỹ gốc Phi cao lớn. Họ trò chuyện vẻ thoải mái, như thể đã biết nhau.
Culbeau kiên trì: “Nếu thằng nhãi đang ở bên trong nhà, các cô có thể sẽ cần đến sự giúp đỡ để đưa hắn ra. Chúng tôi làm gì được?”.
“Đây là công việc của cảnh sát, Rich. Ba anh, hãy đi khỏi đây. Nào, Trey!”, Lucy gọi viên cảnh sát da đen. “Đưa họ đi khỏi đây.”
Viên cảnh sát thứ ba, Ned bước tới chỗ Lucy và Culbeau. “Rich”, anh ta nói. “Không có phần thưởng nữa đâu. Hãy quên chuyện đó đi và...”
Phát đạn từ khẩu súng trường công suất lớn của Culbeau chọc thủng một lỗ trước ngực Ned, đồng thời sức đập khiến anh ta bị hất về phía sau chừng vài feet, rồi ngã ngửa xuống. Trey nhìn chằm chằm Harris Tomel, chỉ đang đứng cách mình chừng mười feet. Hai người trông đều sững sờ như nhau và trong khoảnh khắc không người nào nhúc nhích cả.
Rồi từ phía Sean O’Sarian vang lên tiếng hú nghe như tiếng hú của linh cẩu, gã này nâng khẩu súng trường quân đội, bắn ba phát vào lưng Trey. Cười sằng sặc sau khi giết người, gã mất hút giữa đám cỏ.
“Không!”, Lucy thét lên và giơ súng nhằm Culbeau, nhưng đến lúc cô nhả đạn thì gã đã kịp lẩn vào những búi cỏ cao mọc xung quanh ngôi nhà gỗ.