Chương 7

    
ôi nhìn về hướng mũi tàu. Sa mù xám đục ngập phủ, ập xuống mặt nước như cố ngăn những lượn sóng ào ạt cuốn vào bờ. Từng loạt gió hâm hấp, cuốn theo các hạt nước bắn lên từ các ngọn sóng ngã đổ, vùn vụt lướt qua chiến hạm. Những vạt nước tóe lên từ bên hông tả hạm, tạt vào mặt vào mắt ran rát và cay xót. Gió va vào các bộ phận lộ thiên, phát ra những âm vang dị biệt, tạo thành một hợp âm lạ lùng đầy vẻ dọa dẫm. Chiến hạm lay lắc, từng khi hích mạnh vào cầu tàu, gây nên những cơn giật bất thường, ngầy ngật.
Từ đài chỉ huy trên chóp khối trụ tròn thiết trí ngay giữa hữu hạm, ông hạm trưởng nghiêng người nhìn dọc theo mạn tàu, kiểm soát tình trạng sẵn sàng của nhân viên trong nhiệm sở rời cầu. Ông quay sang hạm phó nói bằng giọng điềm đạm như khuôn mặt của ông:
- Biển còn động mạnh quá!
Hạm phó nhìn ông mỉm cười. Tôi thấy những tia hy vọng lung linh từ nụ cười cầu tài đó. Trong bữa cơm trưa, hạm phó đã đề nghị hoãn khởi hành đi Hoàng Sa thêm một vài ngày. Ông cho rằng việc hoán chuyển quân là việc không gấp gáp, tội gì phải oằn người vì sóng gió. Tôi biết cái lý do thầm kín mà ông không thể nêu ra. Sóng gió đối với ông là chuyện bỏ đi. Suốt hai ngày đêm từ Sài Gòn đi Đà Nẵng biển động tưng bừng, tôi gần như bỏ ăn bỏ uống nhưng ông và Hạm trưởng vẫn đều đều ngày ba bữa và vẫn hút thuốc trọn gói hai mươi bốn giờ. Đêm qua, ông khoe riêng với Tâm và tôi là mới quen được một cô nữ sinh trường Sao Mai. Chúng tôi đã trố mắt ngạc nhiên mà không mấy tin. Lẽ nào ông vẫn hào hoa khi mới bắt bảy ngày phép cưới vợ trước khi tàu khởi hành chuyến này? Giọng cà tửng quen thuộc của hạm phó:
- Hoãn thêm một ngày nữa là phải quá, thưa hạm trưởng. Một ngày rỗi rãi, hạm trưởng sẽ làm thêm được vài bài thơ tình, hạm phó sẽ hưởng thêm được những phút giây êm đềm trước khi…bó thân về với vợ!
Tôi không cười mà ngước nhìn hạm trưởng với hy vọng ông không đổi ý. Một tuần tránh cơn bão đầu mùa đủ để tôi quá chán cái thành phố xa lạ này. Những hôm trực thì tiêu khiển một ngày bằng những con bài qua các trò chơi cá nhân hoặc tập thể. Những bữa tự do thì đội mưa mà đi, la cà hết quán cà phê lại đến quán kem, nơi nào cũng nghe Hùng Cường hát Sầu Đông giữa mùa hè. Thành phố có dáng của thủ đô Sài Gòn, cũng có dòng sông êm đềm chảy ngang qua nhưng trọn một tuần gần như thiếu vắng bóng hồng. “Đà Nẵng vắng bóng hồng, hỏi rằng tôi yêu ai?” Lẽ ra giờ này tôi đã ngồi ở một quán kem ở đường Lê Lợi nhìn ông đi qua bà đi lại. Lẽ ra tôi đã được xem vài cuốn phim mới và lẽ ra tôi đã gặp lại… Tôi cười nhạo cho chính tôi. “Lẽ ra” cho lắm rồi cũng chẳng khác gì các lần về bến ba tháng qua, lần nào cũng phải ca bài “một trăm phần trăm em ơi giờ đây lại cấm trại rồi”! Và lần nào, người nhà của thủy thủ đoàn xuống tàu thăm nườm nượp, riêng Tuyết và Hiền đều bóng chim tăm cá. Về Sài Gòn bị cấm trại thì mong đi công tác. Đi công tác thì mong về Sài Gòn…
- Phải khởi hành thôi, hạm phó. Đại đội địa phương quân đã lên tàu. Tin khí tượng cho biết bão đã yếu dần. Phong vũ biểu đã tăng gần bình thường. Binh lính ngoài Hoàng Sa thì đang mong ngóng được về gặp lại vợ con. Họ đã quá cái hạn sáu tháng và chắc chắn là họ đang mỏi cổ ngóng trông hình dáng một con tàu. Không còn lý do gì mà không tách bến ông hạm phó thân mến ạ!
Ông đổi giọng rắn rỏi, dứt khoát:
- Tháo hết dây, trừ dây số ba.
Tôi vui sướng nghe anh vô tuyến lặp lại mệnh lệnh vào điện thoại nội bộ. Mặc cho các dây đã kéo về tàu nằm gọn vào ổ, con tàu vẫn bám chặt vào cầu. Hạm trưởng  nhìn lên lá cờ để định hướng gió. Ông ban lệnh:
- Tay lái số 0. Máy tả lùi một.
Trung úy Được có trách nhiệm lặp lại lệnh hạm trưởng vào chiếc loa dẫn xuống phòng lái. Rất nhanh chóng, có tiếng hạ sĩ Thành từ phòng lái vang lên:
- Tả đã lùi một. Tay lái số không.
Sĩ quan vận chuyển đáp nhận rõ rồi lặp lại cho hạm trưởng. Ông gật đầu, hết xoay nhìn phía lái lại nhìn hướng mũi. Con tàu rùng mình rên khẻ bắt đầu chạy lùi. Tiếng điện thoại viên liên lạc sân mũi:
- Báo cáo dây số ba căng. Dây số ba rất căng.
Đúng vào lúc sợi dây duy nhất còn lại rung bần bật, bốc khói thì mũi tàu chầm chậm tách ra khỏi cầu.
Giọng trầm tĩnh của Hạm trưởng:
- Hữu tiến một. Tay lái 15 bên trái.
Nhìn vẻ mặt an nhiên ung dung của ông, tôi tự nhủ mình phải rèn luyện được như thế. Đây là lần đầu tôi được cho lên đài chỉ huy để học hỏi cách cặp và rời cầu. Ba tháng vừa qua, tôi quanh quẩn sân mũi, sân giữa, sân lái để học cách buộc dây, cách ném dây lên cầu và thu dây về tàu. Mỗi mạn tàu trung bình thường có sáu dây buộc. Phải buộc thế nào để bất kể nước lớn hay ròng, con tàu vẫn cặp sát cầu, không xê dịch và không bị căng đứt dây. Tôi đã học cách thả neo, kéo neo và cho neo vào ổ. Học cách sử dụng hệ thống điện đàm nội bộ giữa đài chỉ huy với các sân, các tổ súng, hầm máy, hầm lái tay, cửa đổ bộ…
Hôm nay là buổi nhập môn vận chuyển rời cầu trong điều kiện sóng gió chếch mũi. Mỗi khi hạm trưởng quay mặt hướng nào, tôi quay theo hướng đó. Mỗi lệnh ông ban ra tôi thầm lập lại và nghiền ngẫm. Và bây giờ mũi chiến hạm chầm chậm tách rời cầu…
Tôi nghe lệnh thật sắc của hạm trưởng hòa trong tiếng máy rầm rập, tiếng nước xoáy rào rào:
- Máy tả ngưng. Tháo dây số ba.
Một nhân viên đơn vị bờ nhanh nhẹn nâng sợi dây cuối cùng lúc này đã chùng khỏi chiếc trụ đen ngắn. Sợi dây được nhân viên sân mũi kéo về thật nhanh, kết vào ổ.
- Giải tán nhiệm sở vận chuyển. Hai máy tiến một. Tay lái bên trái 20.
Rất chậm và lầm lũi, chiến hạm hục hặc vùng vằng tiến tới theo góc bốn mươi lăm độ so với cầu tàu. Càng ra xa, con tàu càng chao đảo. Tiếng gió rít đâu đó như tiếng sáo ở cung bậc cao, hòa quyện với tiếng bầm bập từ tấm vải bố rộng lớn che kín lòng tàu và tiếng phần phật từ lá quốc kỳ ở chóp trụ sắt bên trên đài chỉ huy. Tôi ngẩng nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ mới tinh đang năng nổ phất phới tung bay và chợt thấy vui vui, hăng hái….
- Lái thẳng.
Tiếng Thành vọng lên rõ mồn một:
- Lái thẳng đường hai bảy hai.
- Hai máy tiến hai.
Tiếng leng keng báo máy đã tiến chìm trong tiếng sóng dồi gió dập ì ầm. Con tàu bất ngờ chui vào một vùng mây mù xám xịt. Vô vàn mảng nhỏ xoắn xuýt rồi tan nhanh. Người tôi nóng bừng, bứt rứt. Miệng tôi nhờn nhợn, khó chịu. Mồ hôi rịn ra ở ngực và lưng. Tôi biết là tôi đang muốn mửa. Cái khả năng chịu sóng của tôi qua mấy tháng thực tập hải nghiệp ở quân trường được ghi nhận là yếu. Trong suốt thời gian đó biển ngày nào cũng động, nhưng dù động mạnh hay nhẹ, không ngày nào tôi không ói mửa. Có hôm mửa cả mật xanh mật vàng. Tôi nhớ đã nghĩ đến chuyện đào ngũ, bỏ cuộc. Sáu chuyến công tác ngắn hạn vừa qua lúc nào biển cũng êm nên thấy đời nơi nào cũng đẹp. Giờ đây, ý nghĩ đào ngũ lảng vảng đâu đây. Tôi đặt ống dòm lên mắt, cố chú tâm quan sát. Phía trước mù mịt. Tôi chúc ống dòm xuống mặt nước. Mặt nước đục ngầu, giận dữ, lồng lộn sủi bọt. Hạm trưởng ra lệnh anh giám lộ kéo còi hải hành trong sương mù. Tiếng còi vang lên kéo dài, bị nuốt chửng vào không gian âm u rồi lại vang lên, kéo dài, đều đặn. Tôi cũng lắng nghe tiếng còi vọng đến từ đâu đó nhưng mọi phía vẫn chỉ là những âm thanh hỗn tạp, khó nghe…
Hạm trưởng ngồi vào chiếc ghế nệm bọc da dành riêng cho ông. Người ông đong đưa, đôi mắt đăm đăm nhìn xuyên qua khung trời mù mịt. Tôi đoán là ông đang ưu tư. Tôi nhớ một lời nói đùa khi học về hải hành trong sương mù. Nó không khác gì… hiệp sĩ mù nghe gió kiếm. Con tàu phải lắng nghe tiếng còi để tránh nhau. Khi “thấy” nhau thì coi như quá muộn.
Hạm phó nói lớn:
- Phòng radar báo cáo ba écho gần nhất.
Tôi nghe lệnh truyền đi và tiếng đáp nhận. Một lúc sau là tiếng báo cáo hướng và khoảng cách. Hạm phó loay hoay đo đạt, chấm tọa độ vị trí chiến hạm lên tấm hải đồ. Ông đề nghị hạm trưởng cho đổi đường.
Mũi tàu quay dần về phía hữu. Bất chợt con tàu chao đảo dữ dội. Tôi chụp lấy thành đài, bám chặt. Hạm phó buông thõng chiếc ống dòm lủng lẳng trước ngực, phóng tới ôm chiếc la bàn điện đặt trên một trụ sắt giữa đài chỉ huy. Ông nhìn vào chiếc la bàn, giọng thật sắc:
- Lái thẳng.
Tiếng vọng:
-Lái thẳng, đúng hướng bắc.
Con tàu hăm hở chúi mũi vào hết ngọn sóng bạc đầu này đến ngọn sóng khác. Tròi vẫn mịt mù. Nó không còn lắc lư mà lúc nào cũng chồm lên hụp xuống. Nước bắn tóe vào đài chỉ huy từ mọi phía. Các bộ kaki màu nước biển lấm tấm những đốm xanh thẫm.  Sau hơn nửa tiếng sóng dập gió vùi, những tiếng ụa mửa bắt đầu phát ra từ lòng tàu. Chính lúc đó, hạm trưởng lại cho lệnh đổi đường:
- Tay lái bên phải 15.
- 15 bên phải. Hướng 10 độ. Hướng 20. Hướng 30. Hướng 40… Hướng 60… Hướng 80…
- Hai máy tiến ba. Lái đường 120.
Tiếng máy rầm rập lớn hơn như đang ráng sức đẩy con tàu nhanh hơn. Bây giờ  thì khối sắt hình chữ nhật bắt đầu lăn qua lắc lại và chồm lên hụp xuống. Các sĩ quan hiện diện đều tỏ vẻ chịu đựng nhưng riêng hạm trưởng, hạm phó thì vẫn thong dong hợp tác điều khiển con tàu rời quân cảng và vịnh Sơn Trà. Mãi đến khi radar báo cáo thấy Cù lao chàm ở phía Nam Hạm trưởng mới rời khỏi ghế, bước lại bàn hải đồ. Ông gật gù tỏ vẻ hài lòng khi thấy vị trí chiến hạm nằm trên hải trình vạch sẵn. Từ điểm này đến điểm đổi đường trực chỉ Hoàng Sa chừng mười hải lý. Cũng từ điểm đó, coi như chiến hạm rời vùng cảng vịnh lắm thương thuyền. Ồng mở quyển nhật ký hải hành và ghi vài dòng tiêu lệnh. Ông hỏi hạm phó:
- Ai là sĩ quan đương phiên?
- Thưa trung úy Được.
- Ai kế?
- Thưa, Thiếu úy Tâm.
Ông quay sang tôi:
- Thiếu úy Bằng đi ca với trung úy Hào.
Ca của trung úy Hào bắt đầu tám giờ tối. Không đợi tôi đáp nhận, ông quay sang hạm phó:
- Hạm phó trách nhiệm hải hành từ giờ phút này cho đến khi tàu đổi đường tám mươi tư. Nhớ trừ độ dạt. Mình hiện còn trong vịnh, chạy máy tiến ba được rồi. Thiếu úy Bằng có thể xuống nghỉ ngơi…
Tôi hăng hái lên tiếng:
- Thưa hạm trưởng, tôi xin ở đây cho đến khi nhận phiên.
Ông gật gù:
- Còn năm tiếng nữa mới đến phiên. Mệt lắm đó. Tùy anh.
Ông xoay người bước đến cầu thang. Hạm phó hô nghiêm. Tất cả nhân viên đưa tay chào. Đợi Hạm trưởng khuất hẳn, hạm phó cười cười với Được:
- Anh hùng thấm mệt? Chưa bao giờ thấy mặt anh xanh như lần này.
Được tựa lưng vào thành đài, nhăn nhó:
- Đêm qua quần nhau tới sáng. Giờ gặp sóng gió thế này chắc…chết.
- Muốn hạm phó đi giúp ca này chăng?
Được lắc đầu:
- Rất cám ơn nhã ý nhưng tôi biết chắc hạm phó còn mệt hơn cả tôi! Mới trăng mật mà!
- Đằng nào tôi cũng phải ở đây cho đến khi đổi đường. Nếu không muốn xuống thì cứ đứng… nhắm mắt cho lại sức. Mãn phiên cùng xuống với tôi.
Nhưng Được không nhắm mắt, chốc chốc lại nâng ống dòm nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió. Thỉnh thoảng anh loạng choạng, quơ tay lung tung để giữ thăng bằng khi con tàu nghiêng quá đà. Tôi biết là tôi chưa làm thế được. Tôi còn cần bám vào một cái gì đó mới khỏi bị ngã nhào. Tiếng gió rít veo véo, tiếng rào rào của các mảng nước bắn tung, tiếng đì đùng của các đợt sóng ngầm chặt vào lườn. Thỉnh thoảng chiến hạm va phải cơn sóng mạnh, cả thân tàu run rẩy theo tiếng răng rắc vang lên. Tất cả những âm thanh đó gợi tôi cái cảm giác bất an. Suốt mấy tháng trước, dù được đi ca chung với hạm phó, học hỏi được nhiều nhưng tôi vẫn chưa quen với những tiếng động lạ thường, những tiếng động tưởng chừng chiến hạm sắp gãy đôi…
Tiếng của hạm phó lạc vào âm thanh hỗn độn:
- Thiếu úy Bằng xuống kiểm soát việc trực radar. Đừng để nhân viên thám xuất rời mắt khỏi màn ảnh. Mọi bất thường báo cáo ngay.
Tôi đáp nhận rõ rồi xiên xẹo lần ra đầu cầu thang dẫn xuống phòng lái. Cầu thang như dài hơn, sâu hơn thường ngày. Tôi lần dò đặt chân lên từng bậc. Hai tay bám chặt thanh sắt an toàn. Con tàu chầm chậm nghiêng về bên phải rồi vặn mình nghiêng về bên trái. Tôi phải dồn toàn lực vào hai tay để bám víu mỗi khi con tàu nghiêng hết về một phía. Sự cộng hưởng tạo một sức ly tâm cực mạnh khiến tôi có thể bị bắn văng khỏi tàu. Xuống đến chân cầu thang, tôi thận trọng bước lần dò về cửa phòng lái. Cửa là một tấm sắt dềnh dàng đóng kín khi sóng to gió lớn. Cần khóa đang ở thế thẳng đứng. Muốn mở, phải vặn cho nó nằm ngang. Trời vẫn oi bức nhưng tôi cảm thấy lành lạnh, rợn người. Với mức độ chòng chành thế này, không cẩn thận chọn đúng thời điểm, cánh cửa ngàn cân có thể bật tung vào người gây thương tích nặng. Và một khi cửa đã mở mà không bước vào kịp, nó sẽ bật vụt lại, chặt gãy tay chân.
Một tay bám vào thanh an toàn, tay kia nắm cần chốt, tôi nín thở chờ đợi. Vừa khi con tàu trở về vị trí thăng bằng, tôi xoay phần tư vòng, mở vụt cánh cửa, lách vô thật lẹ. Chân vừa rút vào thì cánh cửa ập sầm lại. Tôi gài chốt  mà… hú hồn. Phòng lái lờ mờ. Tôi bước đến chiếc radar đặt gần vách trong. Anh trung sĩ nhất thám xuất đưa tay chào. Tôi gật đầu, thân mật:
- Các anh đều êm cả chứ?
Anh cười:
- Cám ơn thiếu úy, tụi này cũng đỡ.
Tôi vỗ vai hạ sĩ Thành, nói đùa:
- Anh vẫn còn ôm “bánh xe nước mía”?
Anh cười thân thiện:
- Sau nhiệm sở vận chuyển là nhận luôn ca lái. Trông thiếu úy còn tỉnh táo lắm!
Tôi bước sang nhìn vào mặt kính radar hình tròn. Từ điểm trung tâm, một vệt sáng quét chầm chậm tạo nên hình ảnh hải cảng vịnh Sơn Trà. Phần sáng rực là bờ và núi. Phần nhạt hơn là biển với vài ba đốm trắng nổi bật. Anh thám xuất cho biết các đóm sáng đó là những đối vật di động, có thể là thương thuyền đang đi vào cảng. Ánh sáng khi lóe, khi lòe làm mắt và đầu tôi căng nhức. Tôi bước lui, tựa lưng vào vách. Qua lổ châu mai, mũi tàu cất lên thật cao rồi gục xuống đánh sầm. Một mảng sóng lớn tràn qua mũi như muốn nhận chìm chiến hạm. Nước tốc lên, túa ào ạt vào lòng tàu và ập vào ô kính các lỗ châu mai. Tôi nghĩ thầm, may mà tàu còn ở tiến ba, chớ tăng nữa thì coi như là đời đi đứt.
Như để thách đố, một giọng uể oải phát từ miệng loa:
- Phòng lái, hai máy tiến bốn. Lái đường 78.
Tôi cay đắng mỉm cười. Với tốc độ đường trường này, rồi mày lại thấy mật xanh mật vàng. Rồi mày sẽ còn mửa dài dài, còn khốn khổ dài dài…Tiếng lạch cạch từ cần tốc độ. Tiếng leng leng báo hiệu máy đã tăng. Con tàu vật vã, giật mình, rên rỉ. Nhìn về tả hạm qua lỗ châu mai, một khoảng không gian nhỏ bé chầm chậm chuyển từ vòm trời âm u sang vùng biển xáo động và ngược lại. Đôi lần, cả mặt hông biến thành đáy tàu một thời gian khá lâu. Những lúc đó, hai tay tôi bám chặt vào bất cứ vật gì vững chắc để chờ con tàu trở về sự nghiêng ngửa bình thường. Nhìn về trước mũi, có lúc nó cất lên thật cao rồi nghiêng mình chúc xuống trông tựa chiếc tiềm thủy đỉnh gầm gừ rẽ sóng. Những lúc đó ruột gan tôi như trào lên đè bẹp buồng phổi.
Tôi lại thấy ngột ngạt, bụng quặn lên, nước mắt ứa tràn. Đến cơn quặn đau thứ ba, tôi phóng tới chiếc sô đặt gần cửa ra vào. Chưa kịp gục mặt xuống, miệng đã há rộng. Tôi nôn thốc hết thức ăn bữa trưa. Rồi tiếp tục các chất bầy nhầy lợn cợn chừng là thức ăn chưa kịp tiêu của buổi sáng và của ngày trước đó. Nước mắt tôi ràng rụa. Tôi nín thở mà vẫn ngửi được mùi tanh hôi nồng nặc. Tôi không dám đứng lên, vẫn tiếp tục ôm chiếc sô chờ tới phiên mật xanh mật vàng. Trong giây phút toát mồ hôi đó, đầu óc tôi chợt hiện ra hình ảnh câu ca dao đã được một anh thủy thủ hiệu đính nhân một lần thấy tôi ói mửa: “Hôm qua lên gác đài cao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ, buồn trông thiếu úy ôm sô”. Tôi thấy vui vui và bỗng nghe người nhẹ đi. Một cảm giác dễ chịu lan nhanh. Theo kinh nghiệm, tôi hiểu là công tác “nuôi cá” đã tạm dứt và từ giờ có quyền chờ dịp khác. Tôi gắng gượng đứng lên, bám vào vách, hổn ha hổn hển. Đúng lúc đó tôi nghe văng vẳng giọng ca Thanh Thúy. Tôi tưởng tôi đang mê nên cố lắng tai…Giọng ca nỉ non, rõ ràng từng tiếng: “… thì dù xa xôi tôi vẫn là của người”. Tôi bậc cười thì thầm: “Cám ơn em, cho dù có em ở đây, anh cũng chẳng ăn được cái giải gì!”.
Nghe tiếng tôi cười, hạ sĩ Thành quay sang:
- Phòng vô tuyến chơi điệu lắm, thiếu úy. Những lúc sóng to, biển động, họ mở nhạc yêu cầu nghe hết xảy!
Tôi gật đầu tán đồng nhưng không dám lên tiếng. Tôi biết, nếu há miệng, tôi sẽ không nói mà là mửa tiếp. Tôi nín hơi cố ngăn một cơn nôn. Giọng ca nức nở, ngọt ngào như ru tôi vào cõi mộng. “Nhiều khi ưu tư, tựa song cửa nhỏ, nhìn ngoài mưa tuôn sao nghe lạnh vào hồn”... Tôi thấy lạnh ở thân nhưng hồn thì tan theo tiếng hát.
Tiếng còi báo đổi phiên vang lên đúng mười lăm phút trước 3 giờ. Tôi nhớ tới lời bốc đồng với hạm trưởng là ở luôn trên đài chỉ huy cho tới nhận ca 8 giờ tối mà hối hận. Tôi cảm thấy quá mệt mỏi và  thèm chiếc giường êm ái của tôi.
Tiếng vọng từ đài chỉ huy:
- Mời thiếu úy Bằng lên gặp hạm phó.
Tôi nói lớn đáp nhận rồi dứt khoát bước nhanh về cánh cửa sắt. Tôi xoay cần chốt, vừa đẩy mạnh vừa kềm giữ. Cánh cửa bật tung. Tôi bước nhanh ra. Cửa tự động ập lại. Tôi xoay cần chốt khóa chặt. Gió rít từng hồi mang theo những giọt nước li ti bắn túa vào người. Tôi lại lạng quạng từng bước lên các bậc thang. Con tàu chao nghiêng, trườn tới rồi chao nghiêng, chừng như đang biểu diễn một điệu luân vũ giữa muôn ngàn hoa sóng. Chiếc mũ lưỡi trai bất ngờ rời khỏi đầu. Tôi ngoái lui. Chiếc mũ bay vụt cao, la đà rồi lại vụt cao và mất hút. Cơn ớn lạnh len dài theo xương sống. Tôi nhớ ra là đã quên cái áo mưa trong phòng lái. Tôi muốn trở lui nhưng nghĩ đến phút giây phải mở cánh cửa chết người nên đành chịu ướt, chịu lạnh bước tiếp. Hạm phó nhìn tôi cười:
- Cho cụ chạy xuống chạy lên thử xem sức cụ tới đâu! Quả là chì! Thôi, xuống nghỉ ngơi đi. Sóng gió thế này mà đòi đi ca liên tiếp chín tiếng là …thăm thẳm chiều trôi đấy!
Mệt quá, tôi không cười nỗi với lời đùa của ông. Và cũng tự lờ đi lời vừa cam kết ngon lành với hạm trưởng. Tôi bước sang bàn hải đồ mở sổ Tiêu lệnh ông ghi trước  đây “Hải đạo 84. Độ dạt -6. Hướng thật 78. Bớt gió, lái hướng 80. Áp dụng điều luật hải hành trong sương mù. Tốc độ phỏng định 10 gút. Quan sát bằng ống dòm và radar thật cẩn thận. Mọi bất thường gọi ngay hạm trưởng”. Tôi đọc lần thứ hai rồi chào từ biệt hạm phó và Tâm vừa lên nhận phiên. Có lẽ phải mất đến mười phút tôi mới lần dò tới được chiếc giường êm ấm của tôi bên dưới lòng tàu. Nhưng chỉ cần vài phút là tôi đã chìm vào giấc ngủ mê man, bỏ luôn bữa cơm tối…
Tiếng còi rền rĩ báo đổi phiên vang vang mơ hồ. Tôi muốn trở mình ngồi dậy nhưng lại chìm vào sâu vào giấc ngủ. Rồi tôi cảm giác được vai tôi bị lay động nhiều lần. Rồi âm giọng quen thuộc của trung úy Hào lọt vào tai tôi:
- Hê! Hê! Dậy đi ca chứ!
Tôi ngồi bật dậy, đong đưa chân ngoài giường cố định thần. Màn tối huyền ảo bao trùm khu buồng ngủ sĩ quan phát từ ánh đèn màu đỏ trên các vách. Sóng gió dường như tăng thêm cường độ… tiện xoáy bào. Chờ con tàu trở về thế thăng bằng, tôi nhảy phóc xuống. Giường tôi ở tầng ba, bên trên giường Tâm và Hào. Giữa cơn lắc lư thế này mà leo lên được vào giường là cả một công trình. Phía đối diện là hai giường treo của Trung úy Hải và Được. Tiếp liền là buồng ngủ riêng biệt của hạm phó có phần nhỏ hơn buồng của hạm trưởng. Cấp bậc thấp thường thiệt thòi nhiều thứ kể cả cái chỗ ngủ. Hạ sĩ quan thì giường treo bằng vải bố có lót nệm. Lính thì chỉ là giường bố và được đặt chồng chất nhiều tầng…
Tôi mang giày, nhét áo vào trong quần, ôm chiếc áo mưa rồi quờ quạng lên nhà tắm. Vài phút sau tôi lần mò đến cánh cửa sắt, thận trọng quay chốt, thận trọng đẩy mạnh và bước nhanh ra sân giám lộ. Đêm mịt mùng không một ánh đèn, chẳng như khi hải hành cận duyên trong thời tiết tốt. Mưa tạt khá mạnh. Gió vẫn rít từng cơn. Tôi khoác áo mưa, bước lên từng bậc thang. Trung úy Hào trưởng phiên đã có mặt ở đài chỉ huy nói vói xuống khi tôi vừa ngang phòng lái. Anh giao tôi trách nhiệm phòng lái, quan sát radar và kiểm soát nhân viên đương phiên. Tôi cỡi chiếc áo mưa mắc vào vách. Dưới chân tôi và quanh sàn một số nhân viên nằm la liệt. Một người đang độc quyền ôm cái sô thường được gọi mỉa mai là cái ao nuôi cá. Một phiên hải hành thường là bốn tiếng. Tất cả nhân viên được chia thành ba phiên. Trong mỗi phiên, tùy nghề nghiệp, tùy vị trí phiên trực và tùy số nhân viên hiện diện, mỗi nhân viên thường chu toàn phần nhiệm của mình từ một tiếng đến hết phiên. Phòng lái mỗi phiên có bốn hoặc năm người. Trừ anh thám xuất lãnh trọn suốt phiên quan sát radar, còn lại chia nhau lần lượt quay tay lái hoặc đẩy cần tốc độ. Lên phiên là không được lơ là. Con tàu không thể thắng như thắng… xe đạp. Muốn thắng, con tàu phải được điều khiển cho ngưng máy rồi lùi máy. Lệnh điều khiển truyền từ đài chỉ huy.  Tất cả tùy thuộc vào kinh nghiệm và phản ứng của từng nhân viên.  Đó chính là lý do hạm trưởng cần người thạo nghề. Tôi hỏi anh cầm lái:
- Ai đánh cần tốc độ?
- Thưa, thủy thủ Hòa.
- Thủy thủ Hòa đâu rồi?
Anh vận chuyển chỉ tay xuống sàn. Tôi đưa mũi giày hít nhẹ vào lưng người nằm sát chân tôi. Anh ngóc đầu rồi gục xuống. Tôi hét:
- Xuống hầm lái tay mà nằm!
Ba tiếng “hầm lái tay” quả là có tác dụng mạnh mẻ. Biển êm mà bị phạt xuống đó cũng đủ thấy đời khốn nạn huống hồ vớ phải cái tình trạng biển rất … khốn nạn lúc này. Anh lồm cồm quỳ một chân, chống tay lên đầu gối, gắng gượng đứng lên. Đúng lúc đó con tàu đánh sầm vào ngọn sóng lớn và anh lại từ từ rụng xuống. Tôi cũng muốn rụng theo nhưng cố lấy sức bước gần nâng cánh tay anh. Anh vẫn nằm yên, cố tình không hay biết hoặc quả tình đã mất hết tri giác. Tự dưng lòng tôi dâng lên mối cảm thương. Nếu tôi không là sĩ quan, không ôm cái mộng làm… ông Trời trên chiến hạm, chắc chắn là tôi cũng sụm như anh. Thôi thì radar vẫn còn chạy tốt và không đối vật hiển thị, một người vừa ôm tay lái vừa họa hoằn đánh cần tốc độ thì kể cũng đã quá đủ. Tôi ngầm lơ cho anh yên nghỉ! Phần tôi cũng có cái ao ước lúc này phải chi mình được… an giấc nghìn thu!
Tôi nhắm mắt, nín hơi, làm như mình đã chết và thân không còn dính dáng gì đến sóng gió loạn cuồng. Nhưng tôi vẫn tỉnh, vẫn thấy khắp người đừ mỏi và chân cứ muốn quỵ xuống. Nếu chân quỵ xuống thì tôi có khác gì anh đánh cần tốc độ? Bất chợt cái hình ảnh quỳ một chân, tay chống lên đầu gối mới rồi của anh gợi tôi liên tưởng đến buổi lễ ra trường cách đây gần bốn tháng. Buổi sáng hôm đó, tám mươi sinh viên sĩ quan của khóa tôi phải qua một phần nghi lễ trong các nghi lễ mãn khóa nhớ đời. Chúng tôi đứng thành hàng ở thế nghiêm trước sân cờ. Người điều khiển chương trình hô to:
- Sinh viên. Quỳ xuống!
Chúng tôi đồng loạt đưa chân trái tới một bước, đồng loạt quỵ đầu gối mặt xuống đất và đồng loạt đưa tay mặt lên dở chiếc mũ cát kết đặt trên đầu gối trái.
Sau khi nghe huấn lệnh và lời chúc mừng của vị Tổng tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tiếng hô lại vang lên mạnh mẽ:
- Sĩ quan. Đứng lên!
Chúng tôi nhất loạt đứng lên nhưng thay vì đội mũ và đứng nghiêm, chúng tôi dùng hết sức mình ném tung chiếc cát két. Cả đàn bướm trắng vút túa lên không trung. Không một ai quan tâm đến chúng, tất cả tìm nhau, ôm nhau mừng rơi nước mắt…
Tôi đã “đứng lên” thì giờ đây không còn lý do để “quỳ”, nhất là không thể để quỵ. Tôi bước đứng gần cần đánh tốc độ, một tay nắm chặt thanh sắt tròn gắn vòng quanh vách phòng lái. Tôi như muốn ngợp thở với cái bầu không khí hâm hấp, tanh tưởi.
Tôi hít vào, thở ra thật nhiều lần và lại nhắm mắt định thần. Tôi như thấy còn đang hưởng những ngày thật hạnh phúc ở quần đảo Hải Tặc (les Pirates) gần hai tháng trước. Đó là chuyến thứ ba của bảy chuyến công tác đầu đời thủy thủ, gồm cả chuyến này. Quần đảo nằm cách Rạch Giá chưa đầy 20 cây số, cách Hà Tiên 28 và Phú quốc 40. Hải tặc là tên gọi từ cuối thế kỷ 17 vì từ thời đó quần đảo gồm 16 hòn đảo là sào huyệt của bọn hải tặc đánh cướp thương thuyền. Thật ra chỉ có sáu đảo là có thể ở được. Đến thời điểm tàu tôi công tác vùng này vào cuối mùa Xuân năm sáu ba, một trung đội biệt động quân được cho đổ bộ lên sáu đảo này không chỉ để tiêu diệt bọn cướp biển mà còn để truy lùng lũ cộng nô. Tàu tôi, trên danh nghĩa là một đơn vị tham dự, nhưng thật ra chỉ có mỗi nhiệm vụ là chở trung đội từ đảo này sang đảo khác, tựa như đưa du khách thưởng ngoạn kỳ quan giữa biển trời nên thơ. Quả là có ba đảo trông rất nên thơ và có hình dáng thật độc đáo nhìn xa từ chiến hạm. Với đảo lớn, tôi có trọn hai ngày thưởng thức những đường nét thiên nhiên lạ mắt và tận hưởng sự thanh tịnh đến lạ thường. Với đảo nhỏ cũng thảnh thơi trọn ngày câu cá và thỏa thuê qua vị ngọt của nước dừa. Suốt thời gian đó dáng vóc của Hiền, của Tuyết đôi khi hiện ra mờ nhạt rồi cũng bị tôi thẳng thừng xua đuổi…
- Thiếu úy! Có écho hướng 10 giờ, cách 22 hải lý. Écho di chuyển nhanh.
Tôi bước vội đến chiếc radar. Trên cái màn ảnh đầy chấm trắng như hạt cát phản ánh từ cái mặt biển đầy ngọn sóng đổ vỡ, một vệt trắng lớn đang di chuyển hướng về chiến hạm. Tôi bước trở lui báo cáo lên đài chỉ huy:
- Đài chỉ huy! Có écho hướng 10 giờ cách 20 hải lý. Có thể là máy bay.
- Theo dõi và báo cáo liên tục.
Tôi bảo anh thám xuất thi hành lệnh và chuyển tin lên đài chỉ huy khi hướng và khoảng cách đối vật thay đổi. Anh đánh cần tốc độ tự động đứng vào vị trí của mình. Tôi nghe tiếng xì xào vọng xuống từ đài chỉ huy. Khi báo cáo écho biến mất trên màn ảnh, tôi thấy ánh đèn pha sáng rực chiếu thẳng lên tàu. Tôi mơ hồ nghe tiếng động cơ hòa vào tiếng máy tàu rồi tan mất.
- Thiếu úy Bằng lên gặp hạm trưởng.
Vừa bước khỏi phòng lái, tôi vừa lo thầm. Không biết mình báo cáo sơ xuất gì đây. Tôi lại quên áo mưa nên bị sóng tạt lấm tấm ướt bộ ka ki hòa điệu với những giọt mồ hôi. Gió rất mạnh nhưng không đủ làm khô…
Lên đến bậc thang chót, tôi đưa tay chào:
- Thiếu úy Bằng trình diện hạm trưởng.
Ông đợi tôi bước hẳn vào đài chỉ huy mới lên tiếng:
- Vừa có một máy bay của ta bay không tuần hỏi mật hiệu. Khi nào anh trở thành trưởng phiên, nhớ sử dụng mật hiệu có ghi trong đặc lệnh truyền tin giữ trong ngăn kéo của bàn hải đồ. Trường hợp anh là trưởng phiên tối nay, trước tiên anh phải làm gì?
- Thưa nhận chuông gọi hạm trưởng.
- Trong khi chờ đợi tôi lên, anh làm gì?
- Thưa, cho tắt hết đèn.
- Rồi làm gì nữa?
Tôi cố nghĩ nhưng đầu óc trống rỗng …
Trường hợp gặp máy bay địch thì anh làm sao?
- Thưa tôi cho nhận còi nhiệm sở tác chiến.
- Làm sao anh biết máy bay địch?
Tôi lại im lặng, lúng túng. Hạm trưởng hỏi tiếp:
- Anh có học cách nhận dạng phi cơ của ta, của bạn và của địch?
- Thưa hạm trưởng chưa.
- Thế thì anh phải học từ ngày mai. Hạm phó nhớ lấy hồ sơ nhận dạng phi cơ giao cho thiếu úy Bằng.
Tôi nhìn cái dáng lù lù đứng sát thành đài được nói đến là hạm phó. Tiếng hạm trưởng lại cất lên dành cho tôi:
- Ban đêm, khi thấy đối vật di chuyển nhanh bằng radar, anh cho gọi tôi và cho darken ship là đúng rồi. Còn ban ngày, nếu anh chưa biết nhận dạng phi cơ thì cứ coi như phi cơ nào cũng là của địch. Anh gọi ngay tôi và cho chạy chữ chi. Tàu nào của chúng ta, trên nóc đài chỉ huy đều có sơn lá cờ vàng ba sọc đỏ to tổ bố. Nếu phi cơ là của phe ta, nó thấy lá cờ sẽ bay thẳng. Còn nếu là phi cơ địch có thể nó sẽ tấn công. Trường hợp bị bắn, lập tức nhận còi nhiệm sở tác chiến. Nhận còi liên tục để thúc hối nhân viên vào ổ súng cho nhanh. Lên hai máy tiến full và đổi hướng liên tục… Anh nhận rõ chưa?
- Thưa hạm trưởng rõ.
- Thôi anh trở về vị trí cũ.
Tôi chào ông và trở xuống phòng lái. Ánh sáng khi mờ khi lóe phát ra tự mặt kính radar vừa đủ để nhận dạng. Anh quay tay lái và anh đánh cần tốc độ đã thay phiên. Tôi bước qua đứng cạnh chiếc radar, hai tay dang thẳng nắm thanh sắt tròn, áp lưng vào vách. Và tôi nhắm mắt, thở dài. Sau hai năm vùi đầu, mệt xác ở quân trường, tưởng tốt nghiệp được thảnh thơi, nào ngờ còn … mệt hơn. Vừa công tác liên tục, vừa học hỏi không dứt. Vừa được chấm đậu nội dung Huần thị Điều hành Chiến hạm, vừa bàn giao xong chức Ẩm thực, thì xúc tiến thảo bản tường trình tìm hiểu cấu trúc chiến hạm. Vừa xong bản này thì lần lượt được hạm trưởng đưa thêm các quyển Hải quy và Quy luật tác chiến trên biển, trong sông. Từ ngày mai lại thêm chuyện nhận dạng phi cơ! Xem chừng không dễ! Chiếc nào chẳng có mũi, có thân, có cánh, có đuôi? Vậy khác nhau chỗ nào hả trời!
Rồi tôi bỗng lang bang nhớ đến tai nạn phi cơ giết chết ba má Tuyết. Số mệnh con người sao quá vô thường, mong manh. Là đứa con duy nhất, Tuyết đang hưởng trọn tình thương của cha mẹ, đang sống trong giàu sang ấm êm thì đột nhiên mất tất cả, thành kẻ long đong giữa chợ đời. Đúng là hồng nhan bạc mệnh. Tuyết đã ngỏ lời muốn làm vợ tôi hoặc Tâm, ai cũng được, vậy mà cả hai chúng tôi đều lơ là. Chúng tôi mê cái sắc đẹp của Tuyết nhưng cả hai đôi chân đều còn nặng bước hải hồ. Thêm vào đó tôi chưa có một đồng xu dành dụm…
Cái màn radar đột nhiên mất hình cùng lúc mọi loại đèn phụt tắt. Phòng lái chỉ còn chút phát quang lờ mờ từ bóng điện đỏ dự phòng tù mù trên vách đối diện. Anh vận chuyển la lớn:
- Báo cáo tay lái mất điện.
Anh thám xuất cũng hô to:
- Báo cáo radar mất điện.
Tiếng của trung úy Hào từ đài chỉ huy vọng xuống:
- Hai máy tiến ba. Trừ thám xuất và nhân viên đang lái, tất cả xuống ngay hầm lái tay. Báo cáo khi lái tay sẵn sàng.
Tôi dựng dậy các nhân viên đang nằm và đôn đốc họ thi hành lệnh trưởng phiên. Con tàu giảm độ nghiêng ngửa nhưng tăng cơn chồm lên hụp xuống. Tôi lại nghe lệnh truyền sắc lạnh của trung úy Hào:
- Máy tả tiến hai.
Tôi nói lớn vào miệng loa và vói tay kéo cần tốc độ phía trái lui thêm một nấc:
- Đáp nhận, tả tiến hai, hữu tiến ba.
Tiếng leng keng báo thi hành của hầm máy. Tôi lại nói vào miệng loa dẫn lên đài chỉ huy:
- Báo cáo tả tiến hai, hữu tiến ba.
- Tả tiến một, hữu tiến hai.
Tiếng rầm rừ của hai máy chánh giảm xuống. Con tàu như sựng lại. Vẫn tiếng của trung úy Hào:
- Thiếu úy Bằng lên đài chỉ huy. Tôi xuống hầm lái tay. Thi hành lệnh tôi qua điện thoại.
Khi tôi bước lên các bậc thang thì trung úy Hào đang vội bước xuống. Tôi ép người sang một bên nhường lối cho anh. Khi lên đến đài chỉ huy, tôi nghe tiếng  hạm trưởng từ phía đầu cầu thang. Tôi quay lui đưa tay chào ông. Ông bảo:
- Không có radar, các anh quan sát cho kỹ!
- Thưa hạm trưởng, nhận rõ.
Tôi đeo chiếc ống dòm dành riêng cho tôi vào cổ rồi bước sang đứng sát thành đài bên trái sau khi thấy hạm trưởng bước sang thành đài bên mặt. Tôi nâng ống dòm lên mắt. Trước mặt là vùng tối đen ngòm, chốc chốc lại ánh lên màu đỏ của đèn hải hành tả hạm qua ngọn sóng tạt vào tàu. Phải quan sát chăm chú mới thấy màu xanh của đèn hữu hạm loang loáng trong màn hơi nước. Các ngọn sóng cao nghệu liên tục tạt mạnh vào mạn tả tạo thành những cơn mưa xối xả. Bầu khí quyển như thêm hâm hấp và ẩm ướt. Con tàu đang nghiêng về hữu mạn bị một bức tường sóng ập vào làm nghiêng thêm, thêm nữa. Đài chỉ huy không còn cách mặt biển bao xa. Trời ơi! Một đợt sóng lớn nữa là con tàu khó tránh khỏi lật úp. Tôi nghe ớn lạnh khắp người. Hình như cái mong manh nhất của cuộc sống đang thể hiện rõ rệt lên khối sắt đang chênh vênh giữa biển bạo tàn.
Một đợt sóng khác lại đánh sầm vào mạn tả. Tôi buông ống dòm, cả hai tay bám chặt thanh an toàn, ngực và bụng dính vào thành đài đang nằm gần ngang mặt nước xoáy cuồng, hung tợn. Tôi nín thở chờ đợi, van vái con tàu đừng chìm… Và trong lúc tuyệt vọng nhất, đài chỉ huy bất ngờ bật ngược lại. Con tàu không còn trồi lên hụp xuống. Nó chỉ còn lăn qua, lăn lại, thường là hết về bên phải. Trời ơi, tôi còn phải chịu cái sóng ngang chết người này đến bao giờ! Như để giúp cơn sợ hãi của tôi tăng đến mức tối đa, nhiều tiếng ụa mửa, rên la của binh lính đại đội địa phương quân từ lòng tàu vọng đến đài chỉ huy. Tiếng ụa mửa rên la này trước đây chỉ văng vẳng nhưng lúc này thì át hẳn hợp âm lạ thường của tiếng gió rít, của tiếng sóng dập, của tiếng hai máy tàu rầm rập tốc độ đường trường.
- Trời ơi! Trời! Trời ơi! Sao mà khốn khổ thế này hả trời! Cho tôi chết còn… sướng hơn.
Tôi đồng ý với lời rên rỉ đó. Lúc này, đúng là chết còn sướng hơn! Hay tệ nhất cũng được nằm yên trên nệm ấm!
Tiếng của điện thoại viên:
- Báo cáo hạm trưởng hầm lái tay sẵn sàng.
Hạm trưởng nhanh nhẹn bước sang, chiếu đèn pin vào chiếc la bàn từ. Tiếng của ông át cả tiếng sóng gió:
- Máy tả tiến hai. Tay lái hết bên trái.
Anh hạ sĩ quan phòng tai đứng gần miệng loa lập lại lệnh hạm trưởng xuống phòng lái:
- Máy tả tiến hai.
Điện thoại viên nói với hầm lái tay qua đường dây nội bộ:
- Tay lái hết bên trái.
Tôi nghe các tiếng báo cáo thi hành. Tôi nghe các tiếng báo hiệu đã máy tăng. Hạm trưởng vẫn đứng ôm chiếc la bàn từ, chốc chốc lại rọi sáng. Con tàu bắt đầu cỡi lên các đợt sóng. Lệnh hạm trưởng:
- Hai máy tiến ba. Tay lái mười lăm bên trái.
Lại tiếng chuyển lệnh, tiếng đáp nhận, tiếng leng keng. Hạm trưởng bảo hạm phó thay ông giữ hướng 75 của la bàn từ. Ông bước sang ngồi thỏm vào ghế, bật lữa châm thuốc. Tôi tự hứa là ba tháng nữa tôi sẽ hút khi biển động như ông.
Tôi chợt nghe giọng reo mừng rỡ của anh hạ sĩ quan:
- Báo cáo đã có điện.
Tôi quay lui. Mặt kính chiếc la bàn điện đã bật sáng. Lại tiếng của hạm trưởng:
- Hạm phó cho lái hướng cũ, tốc độ cũ.
Tiếng vọng từ phòng lái:
- Tay lái đã có điện.
- Radar hình ảnh tốt.
Hạm trưởng cho lệnh giải tán hầm lái tay rồi rời đài chỉ huy. Hạm phó nói với trung sĩ Tất phòng tai:
- Hai máy tiến bốn. Lái đường 78.
Con tàu tăng tốc độ và dần dần trở lại tình trạng trước đây là vừa lăn qua lật lại,vừa hụp vừa chồm. Tôi lại nhờn nhợn nhiều lần nhưng không mửa. Còn gì đâu mà mửa. Cả mật xanh lẫn mật vàng đã tuôn hết ra từ khuya. Dù sao, tôi cũng mừng là đã làm quen được với sự đong đưa lay lắt.
Hạm trưởng giao quyền chỉ huy cho trung úy Hào khi anh từ hầm lái tay mò lên đài chỉ huy. Ông khen ngợi trung úy Hào đã báo cáo ông kịp thời tình trạng mất điện, đã cho giảm máy đúng cách đối với sóng gió chếch mũi tả hạm. Nhưng ông thêm rằng, lần sau, phải theo dõi la bàn từ, tùy độ lệch mà điều khiển sai biệt máy đúng mức để giữ đúng đường. Nếu để tàu bị sóng gió đẩy ngang như vừa rồi, rất nguy hiểm. May là cơn bão đã qua, sóng gió đã giảm…
Tôi thầm cám ơn Trời Phật, thầm cám ơn hạm trưởng lên đúng lúc. Hạm trưởng vừa xuống khuất, Hào phóng ngay vào ghế của ông. Anh nhăn nhó:
- Tao giao ca cho mày. Xuống hầm lái tay có 10 phút mà muốn bá thở.
Tôi gật đầu và đảo mắt một vòng. Các nhân viên câm lặng hoàn toàn, trái hẳn lúc gió lặng biển êm. Ý thức trách nhiệm bắt họ đứng đó mà thật ra cũng như tôi, họ chỉ muốn nằm bẹp… Lúc này mà được nằm bẹp là “quốc sách”! Tôi không thể nằm mà đứng cũng không còn sức. Xương cốt tôi đã rã rời. Tôi bật ngang mảnh nệm tròn nhỏ gắn chặt vào thành đài và xê dịch cái bàn tọa lên đó. Đây là chiếc ghế dành cho sĩ quan đương phiên khi trời trong biển lặng, không có dấu hiệu chiến hạm thiếu an toàn. Nhưng đêm nay, với cái radar chạy tốt nhìn xuyên cả khối sương mù, với cái mặt đại dương là những ngọn núi di chuyển tiếp liền các thung lủng tử thần, chắc chắn là không có tàu đánh cá nào dám ra khơi. Vậy thì có khác chi đang hải hành giữa ban ngày trời trong bể lặng? Bất chợt nhớ ra một điều, tôi lạng quạng bước lại bàn hải đồ bật ngọn đèn nhỏ vừa đủ sáng. Tôi ngó đồng hồ. Gần mười một giờ khuya. Tôi lấy compa đo đường kính 10 hải lý rồi ghim đầu nhọn vào vị trí phỏng định lúc 10 giờ và quay đầu có viết chì gạch ngang đường hải trình. Từ vị trí phỏng định mới lúc 11 giờ đến hòn đảo gần nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa dài 90 hải lý, tôi thấy đáy biển suốt chiều rộng mỗi bên hải trình hai mươi lăm dặm đều có độ sâu rất đáng kể và gần như bằng nhau. Như vậy không còn gì mà không an toàn. Tôi mạnh dạn trở lại ghế ngồi, chân đạp chắc vào một chiếc loa, mắt nhìn mông lung…
Đầu tôi như có cái gì đè nặng trĩu. Tôi nhắm mắt lại, hai tay xoa thái dương rồi mở mắt tìm trong vùng mù sương mịt mùng một hình bóng thân yêu. Tuyết hiện ra. Rồi Hiền cũng hiện ra. Ai đẹp hơn ai đây? Hiền yêu kiều và Tuyết sắc xảo. Tôi yêu ai đây? Hiền có Thanh và Tuyết có Tâm. Hiền hôn Thanh và Tuyết hôn Tâm. Tôi thở dài chán nản!
Một thủy thủ trách nhiệm quan sát đứng cạnh tôi buông xuôi ống dòm, gục mặt xuống. Tôi nghe tiếng ọc ọc từ miệng hắn. Âm thanh rên rỉ vì quá gần nên nghe càng rền rĩ, rùng rợn hơn tiếng kêu trời của những người lính địa phương. Theo đà nghiêng của con tàu, hắn nghiêng theo rồi ngã sấp. Trung sĩ Tất thản nhiên vạch áo, quẹt lửa rèn rẹt cố châm điếu thuốc. Ánh lửa giúp tôi thấy trung úy Hào đang nhìn anh mỉm cười. Mùi thuốc làm tôi thấy thèm nhưng biết rằng chưa phải lúc…
Tiếng vọng từ phòng lái:
- Đài chỉ huy! Có écho hướng 2 giờ, khoảng cách 5 hải lý.
Tôi giật mình dõi mắt về hướng báo cáo. Bầu trời vẫn mịt mùng tối đen. Tôi đứng lên, nâng cái ống dòm chầm chậm đưa qua đưa lại. Vẫn chả thấy một dấu hiệu gì. Năm hải lý là quá gần, không thể không thấy. Tiếng vọng lại vang lên, kèm theo tiếng vỗ rầm rầm vào ông loa:
- Đài chỉ huy! Đài chỉ huy!
Tôi định đáp thì đã nghe trung úy Hào lên tiếng:
- Đài chỉ huy nghe. Có việc gì thế?
- Báo cáo écho hướng 1 giờ, cách 5 hải lý.
Hảo quát to:
- Sao để gần thế này mới chịu báo cáo? Bộ ngủ hả?
- Thưa radar mới khám phá.
Hào hừ một tiếng, rời ghế hạm trưởng, đứng sát thành đài bên phải vửa quan sát vừa nói lớn:
- Báo cáo liên tục hướng và khoảng cách.
Trung sĩ Tất nhanh nhẩu nhắc lại vào miệng loa.  Một lúc sau, có tiếng đáp:
- Vẫn hướng 1 giờ, 4 hải lý.
Tôi phóng qua đứng cạnh trung úy Hào, chống hai khuỷu tay lên mặt thành để giữ vững ống dòm. Mặt biển đen thẩm trở thành xam xám rồi mất hút. Tôi quét thật chậm ống dòm từ mũi tàu qua hướng ba giờ và chầm chậm quét trở lại. Tất cả 2 quan sát viên đều làm như tôi.
- Hướng 2 giờ, 3 hải lý.
Hào và tôi càng chú tâm quan sát hướng 2 giờ.  Tấm màn đùng đục vẫn che kín như bưng. Hào ra lệnh:
- Trung sĩ Tất. Nhận chuông phòng hạm trưởng.
- Hướng 2 giờ 2 hải lý.
Hào la to:
- Kéo ba tiếng còi dài.
Tiếng còi lay động đêm khuya. Có tiếng la từ chuồng cu đèn giám lộ:
- Đã thấy ánh đèn hướng 2 giờ.
Hào quát:
- Đèn màu gì?
- Đèn chớp màu trắng!
- Bố khỉ. Nó đánh đèn hiệu. Giám lộ bắt xem nó nói gì.
Bây giờ bằng mắt thường tôi đã nhận được ánh chớp ngắn dài. Hào hỏi anh giám lộ:
- Nó nói gì thế?
- Dạ nó đánh bằng tiếng Mỹ.
Hào bật cười thành tiếng:
- Đồng ý là tiếng Mỹ nhưng tiếng Mỹ nói gì?
- Thưa nhanh quá bắt không kịp.
Tôi thông cảm anh giám lộ mới ra nghề lại gặp cái thời tiết thổ tả, lên tiếng:
- Anh bảo nó slow down please.
Anh giám lộ chớp đèn. Anh đánh nhanh hơn tôi tưởng. Sóng gió chỉ làm anh hốt hoảng khi nhận. Đèn từ phía ngang hông đánh trả. Tôi đã đọc được nhưng lặng thinh nhường anh giám lộ báo cáo:
- Thưa trung úy, nó hỏi which ship?
Tiếng hạm trưởng từ phía sau:
- Đánh hỏi lại nó which ship.
Anh giám lộ chưa kịp thi hành đã gục mặt ụa mửa liên hồi. Ngay khi dứt, anh lấy tay lau mặt và dùng tay kia chuyển tín hiệu. Đèn đối tác đáp trả. Tôi nhận ra chữ USN ship (US Navy ship) vừa lúc hạm trưởng lên tiếng:
- Đánh trả nó VNN ship. (tàu Hải quân Việt Nam).
- Đài chỉ huy! Hướng 3 giờ. 2 hải lý.
Lại đèn từ tàu Hải quân Mỹ. Anh giám lộ nói ngay khi tin hiệu dứt chuyển:
- Thưa hạm trưởng nó nói where are you heading for.
- Bảo nó Hoàng Sa. À không, Paracel. Papa-Alfa-Romeo-Alfa-Cierra-Echo-Lima.
Anh giám lộ lại vật lộn với sóng gió và đèn hiệu. Đèn chớp thật rõ nhưng vẫn chưa thấy được hình dạng con tàu. Thậm chí cũng không nhìn thấy hai đèn hải hành xanh đỏ.
- Đài chỉ huy! Hướng 4 giờ. Một hải lý rưởi.
- Thưa hạm trưởng nó nói best wishes to the captain and sailors.
- Trả lời nó thank you, same to you all and good night.
- Đài chỉ huy! Hướng 5 giờ, 3 hải lý.
Anh giám lộ thận trọng rời chuồng cu leo xuống đài chỉ huy. Giọng hạm trưởng thân mật:
- Khá lắm giám lộ Bảo. Cám ơn anh.
Hào rọi đèn pin vào đồng hồ. Anh bảo trung sĩ Tất:
- Anh nhận còi đổi ca.
Tiếng còi quen thuộc vang lên nghe thật dễ thương! Tôi thở phào nhẹ nhõm. Khi Tâm vừa xuất hiện nhận ca, tôi vỗ nhẹ vào vai anh rồi lặng lẽ len lén xuống phòng…
Tôi chợt thức giấc vì cảm nhận một sự êm ả bất thường. Chiến hạm không còn đong đưa, lay lắt, không còn rên rỉ vì những cú đập tàn bạo của các đợt sóng ngầm. Tôi nghe máy tàu vẫn còn chạy ở vận tốc cao nhưng dường như đang hải hành trong một vùng vịnh không sóng gió. Tôi nhìn đồng hồ: 7giờ sáng. Khuya đêm qua, khi rời đài chỉ huy, biển còn động dữ dội. Không lẽ chỉ qua một giấc nam kha mà lại êm ru bà rù? Thì cũng dễ hiểu. Giấc nam kha kéo dài suốt bảy tiếng, đủ để tàu vượt qua một đoạn đường dài, dứt bỏ vùng bão tố.
Bụng tôi chợt cồn cào, ran ran. Tôi nhớ ra là tôi đã bỏ bữa ăn tối qua, đã mửa liên tục. Tôi cũng nhớ ra nhiệm vụ chính của tôi trên chiến hạm là kiểm soát việc ăn uống của thủy thủ đoàn. Bây giờ là giờ điểm tâm. Tôi ngồi bật dậy, cảm nhận cơn mệt mỏi rã rời… Tôi rửa mặt thật chậm, tận hưởng cơn sảng khoái từ độ mát của nước. Tôi mặc bộ quân phục mới rồi bước lên nhà bếp. Hai nhân viên hỏa đầu vụ đưa tay chào. Tôi chào đáp và hỏi:
- Trung sĩ Quân đâu, anh Lâm?
- Thưa Thiếu úy, trung sĩ đang kiểm soát phòng ăn đoàn viên. Thiếu úy cần, tôi đi gọi?
Tôi nhìn nhà bếp gọn gàng, sạch sẽ:
- Thôi khỏi. Còn thức ăn sáng cho sĩ quan?
- Tôi dọn thêm món trứng chiên này là xong. Thiếu úy đã bỏ cơm chiều hôm qua…
Tôi cười gượng:
- Sáng nay chắc cũng thế.
Giọng Lâm vui vẻ:
- Biển đã yên. Ăn được rồi, thiếu úy.
Tôi lắc đầu:
- Vấn đề là ăn không vô. Thức ăn chưa qua khỏi cổ là vọt ra liền! Hy vọng bữa trưa, may ra.
Trưa không chừng mình có vít ăn. Đảo Hoàng Sa có nhiều vít, thịt ngon hơn thịt gà.
Vít là con gì vậy?
Một loại rùa nhưng lớn hơn con ba ba nhiều.
Tôi cười, lắc đầu:
-  Rùa rắn là không có tôi.
Tôi bước qua khung cửa vào lòng tàu. Cả đại đội địa phương quân còn say sóng nằm la liệt từ mũi tới lái. Họ như ngủ say sưa, mà thật ra họ còn mê thiếp, như tôi đêm qua. Nhiệm vụ buộc tôi phải tỉnh lại. Không bao lâu nữa họ sẽ hạnh phúc lên bờ. Còn tôi, trọn đời khó thoát khỏi biển.
Tôi trở lại phòng ăn sĩ quan, nhắp thử ly cà phê sửa. Đây là ly cà phê hằng ngày mà sao hôm nay thơm ngạt ngào, vị ngọt ngào. Tôi ăn ngon lành một miếng trứng, một mảnh bánh mì. Đúng như lời anh hỏa đầu vụ, tôi đã ăn được. Và tôi ngốn ngáo hết phần ăn sáng của tôi.
Tiếng còi đổi phiên vang lên đúng lúc tôi đặt chân lên đài chỉ huy. Tôi chào trung úy Được. Anh trước tôi hai khóa và vừa được thăng Trung úy. Anh đưa tay, thân mật:
- Biết chú mầy thường lên sớm nên tôi đang mong đây. Lái dùm tôi cho đến khi trung úy Hào lên nhận phiên. Tôi có việc xuống sớm một tý.
Không cần biết tôi bằng lòng hay không, ông tỉnh bơ rời vị trí. Tôi tưởng ông đùa vì ông thừa biết tôi chưa đủ khả năng hải hành. Theo hạm trưởng, tôi phải cần đến ba tháng đi biển nữa mới được xét định tư cách trưởng phiên. Tôi lo lắng nhìn quanh. Không bóng dáng một chiếc tàu thuyền nào. Chỉ bao la một thảm xanh lao xao, lấp lánh. Muôn ngàn tia sáng lung linh chạy dài đến tận mặt trời chưa lên cao. Gió nhẹ, mát rười rượi. Tôi hít một hơi dài, thấy an tâm và hãnh diện. Hẳn trung úy Được đã thấy tôi tận lực học hỏi như thế nào suốt thời gian qua.
Nhớ đến việc đầu tiên phải làm khi nhận trưởng phiên hải hành là xác định vị trí chiến hạm, tôi bước sang bàn hải đồ nhìn vào hải trình. Hàng chục vòng tròn nhỏ có gạch chéo cách đều nhau trên một đường kẻ kéo dài từ ngoài khơi Sơn Trà đến trung tâm quần đảo Hoàng Sa. Vòng cuối cùng với ghi chú 1100H, nằm gần một nhóm đảo trông giống như là những quả trứng lớn nhỏ nằm ngổn ngang. Tôi hiểu là còn khoảng ba tiếng nữa sẽ đến điểm đổ bộ là hòn đảo lớn nhất có tên trên hải đồ là Pattle Island. Đó chính là đảo Hoàng Sa.
Tiếng trung úy Hào từ phía sau:
- Mình đến đâu rồi, thiếu úy Bằng?
Tôi quay lại đưa tay lên chào nhưng anh chỉ cười cười đưa tay ra bắt:
- Còn sức lên nhận phiên sớm là ngon quá rồi. Cứ tưởng anh hùng đã thấm mệt!
Tôi ráng nở nụ cười:
- Thưa trung úy, theo phỏng định thì còn ba tiếng nữa là đến điểm đổ quân.
- Anh tin vào cái vị trí phỏng định là có cơ hội chẳng bao giờ thành… hạm trưởng. Trong mùa sóng gió bão bùng, vị trí phỏng định là vị trí bi quan nhất. Theo tiêu lệnh hạm trưởng, hải trình là đường 84, trừ hao độ dạt – 6 ta cho lái hướng 78. Và chúng ta đã phỏng định tốc độ là mười gút.  Nghĩa là chúng ta đi theo gió chếch mũi tả hạm, hướng gió do cơn bão tạo thành Nhưng chúng ta lại ở trong mùa gió Tây Nam, nghĩa là mùa gió thường trực thổi thổi từ chếch lái phía hữu hạm tới. Còn phải tính tới dòng nước ngầm. Tóm tắt, thật sự giờ này chúng ta ở nơi nào trên biển, chỉ có Trời biết. Không chừng ta đã tạt về phía Bắc sang vùng Amphitrite Group đầy đảo ngầm hoặc tệ hại hơn là dạt về phía Nam vào vùng nước cạn North Reef với những xác tàu chìm. Nói cho cùng, gặp cái nào thì cũng thân bại danh liệt. Tốt hơn hết là bắt đầu theo dõi độ sâu.
Anh kê miệng gần chiếc loa, đổi giọng lớn hơn:
- Phòng lái, cho mở Fathometer và báo cáo chiều sâu mỗi năm phút hoặc khi có thay đổi cạn hơn. Radar! Báo cáo ngay khi phát hiện écho. Thiếu úy Bằng và các quan sát viên quan sát cẩn thận bằng ống dòm, từ hướng 10 giờ đến 2 giờ.
Hào dò nhìn lên tấm hải đồ khi nghe phòng lái báo cáo chiều sâu. Anh gật gù vói tay lấy chiếc ống dòm rồi bước sang ngồi tỉnh bơ trên chiếc ghế của hạm trưởng, tréo chân thoải mái. Anh chầm chậm quét ống dòm qua lại vùng biển xanh thẳm trước mặt. Trung sĩ Tất, giám lộ Bảo và tôi cùng đưa ống dòm lên mắt. Vẫn chỉ là mặt biển lóng lánh, thăm thẳm, mênh mông… Con tàu thênh thang phóng tới, bọt biển tỏa hình cánh chim, đổ về phía sau thành một tràng dài trắng xóa.
Cột cờ trơ trọi cuối lái gợi tôi nhớ lá cờ trên đỉnh chót vót. Tôi bước ra phía ngoài, ngẩng mặt. Tôi nhìn trân trân. Lá cờ đã nhạt màu, phần đuôi rách te tua. Lá cờ vẫn bay phất phới nhưng uyển chuyển, nhẹ nhàng, trái hẳn hình ảnh vẫy vùng, mãnh liệt chiều qua. Tôi có cảm tưởng lá cờ cũng cùng mang sức sống như chúng tôi, cũng chịu đựng những vất vả gian nan, cũng tận hưởng những niềm vui thành đạt. Tôi bước trở lui, đứng thẳng người, quan sát cẩn thận vùng biển trước mặt theo đúng nhiệm vụ của sĩ quan đương phiên ghi trong huấn thị. Tôi đứng như thế rất lâu, đầu óc thênh thang như bầu trời không gợn chút mây…
- Báo cáo có écho hướng một giờ, khoảng cách 28 hải lý.
Tự dưng tôi thở ra nhẹ nhỏm. Hào đứng thẳng lên, chếch ống dòm về phía tay mặt. Anh chầm chậm, thật chậm quét ống dòm qua lại. Được vài phút, anh rời ghế, chạy vội xuống phòng lái. Khi trở lên, anh cười tươi tắn:
- Hải hành phỏng định mà… chính xác gớm!
Anh nhấc điện thoại:
- Thưa hạm trưởng, tôi trung úy Hào. Trình với hạm trưởng, đã thấy đảo hướng một giờ, cách 27 hải lý bằng radar. Chưa thấy bằng ống dòm.
Anh lặng thinh nhận chỉ thị một lúc, đáp nhận rõ và gác máy. Anh nhìn la bàn, ra lệnh:
- Lái đường tám mươi tư.
Hào đưa ống dòm lên mắt. Tôi bắt chước anh. Biển vẫn thăm thẳm, chập chùng đến ngầy ngật. Dường như gió đổi chiều, đưa ngược khói tàu lên tận đài chỉ huy. Mùi khói khó ngửi nhưng lại gợi tôi thèm một điếu thuốc. Tôi đã quên nó từ lúc tàu khởi hành. Tôi mở nắp túi, gắn điếu thuốc lên môi, thong thả châm lửa. Tôi nhả ngụm khói đầu tiên rồi hít một hơi dài tưởng chừng như đang hôn người yêu. Bất ngờ tôi ho sặc sụa và nghe bứt rứt khó thở. Chưa hút được. Tôi nhủ thầm, dứt khoát ném điếu thuốc. Nó nương theo gió bay thật xa rồi rơi hút vào bọt biển.
Bầu trời trong sáng, xanh ngát, không một dấu vết sa mù. Gió nhè nhẹ, mát rượi. đến từ mạn phải. Tôi hít một hơi sảng khoái và thấy lại yêu đời yêu biển…
Hạm trưởng xuất hiện ở chân cầu thang. Tôi báo cho Hào. Anh ra dấu cho nhân viên chỉnh đốn quân phục, tư thế. Tôi hô nghiêm và đưa tay chào khi ông đặt bước lên đài chỉ huy. Ông thân mật hỏi han từng người. Tôi là người cuối cùng.
- Thiếu úy Bằng trông tỉnh táo lắm. Được lắm.
Tôi chỉ biết lí nhí cám ơn. Ông chưa yên vị trên ghế thì có tiếng báo cáo:
- Đã thấy đảo hướng mười hai giờ.
Tôi chụp ống dòm. Tôi vốn nôn nao, nôn nóng muốn biết cái… dung nhan mùa hạ của cái quần đảo đã làm tôi khốn khổ, đau đớn. Phải khó khăn lắm tôi mới trông thấy một vệt đen trên đường chân trời. Vệt đen đó dần dần rõ dạng. Nó vươn cao cùng lúc lô nhô những ngọn cây. Rồi toàn bộ cái đảo thấp lè tè. Tôi cảm thấy thất vọng. Hoàng Sa là thế đó sao? Tôi quét chiếc ống dòm thành vòng 360 độ. Tất cả vẫn chỉ là mặt biển xanh thẩm mênh mông.
Hạm trưởng ra lệnh từ chiếc ghế dành riêng cho ông:
- Trung úy Hào có thể cho bớt máy.
Hào ra lệnh, không do dự:
- Hai máy tiến ba.
Sau tiếng leng keng, cường độ tiếng máy dịu hẳn đi. Tôi cũng cảm nhận được sự giảm tốc của con tàu. Sự thất vọng của tôi cũng tiêu tan. Tôi nhìn thấy thêm hai hòn đảo nữa bằng mắt thường. Tôi không ngờ trên đời lại có những hòn đảo nhỏ và thấp đến thế. Chúng chỉ vừa đủ nổi trên mặt nước. Một trông như con rùa đang bơi bập bềnh và một như chiếc tiềm thủy đỉnh đang lặng lờ trôi. Giữa cái mênh mông của sóng nước, hai hình ảnh đó trông lạ và đẹp mắt.
Cơn mỏi mệt, ngật ngừ bỗng dưng tan biến. Người tôi chợt xao xuyến, lâng lâng. Một mùi hương lạ thoang thoảng, sảng khoái. Mùi hương đã đến với tôi lần đầu khi chiến hạm hướng mũi vào sông Lòng Tào sau chuyến công tác đầu tiên. Mùi đất liền. Chỉ những ai đi biển lâu ngày mới nhận ra mùi hương tuyệt dịu đó…
Hạm trưởng lên tiếng nhận quyền chỉ huy. Ông ra lệnh nhận còi nhiệm sở vận chuyển và cho giảm máy. Con tàu sựng lại rồi tiến thư thả trên vùng nước trong veo, phô bày đáy biển toàn cát đá trắng. Xa xa hai bên hông là những dãy san hô ngầm long lanh ánh sáng. Chẳng bao lâu hòn đảo thấp lè tè hiện ra trước mắt thường. Tôi chỉ một đóm trắng nằm ở cuối đảo, hỏi ông trung sĩ giám lộ đứng gần:
- Có cái gì màu trắng? Anh có nhận thấy không?
- Thưa thiếu úy, đó là đài khí tượng. Chúng ta có một toán khí tượng hoạt động trên đảo.  Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển là từ đài đó.
Tôi cười vui sướng với một khám phá mới mẻ….
Vào đúng thời điểm đã định, hạm trưởng ra lệnh thả neo. Con tàu xuôi theo gió nằm song song với hòn đảo khá lớn. Hòn đảo có những lùm cây rậm rạp sau một bãi cát vàng nhạt chạy vòng. Cuối bãi cát về phía mặt là một tòa nhà màu trắng vươn cao. Đó chính là đài khí tượng. Nổi bật trên nóc tòa nhà là lá cờ vàng ba sọc đỏ đang ngạo nghễ phất phới giữa nền trời xanh. Tôi đăm đăm nhìn lá cờ. Như một thói quen, tôi chụm hai chân đứng vào thế nghiêm, đưa bàn tay lên ngang mày.
Trong tôi, những xúc động dạt dào dâng lên….