à TỚI MÙA PHỤC SINH, NHỮNG CHIẾC BÁNH bông lan của bà Tulliver hôm nay lại còn nhẹ hơn ngày thường nữa. Chị người làm Keza tuyên bố: - Một hơi gió thoảng cũng đủ làm mấy cái bánh của bà chủ bay phất phới như lông chim. Chị rất hãnh diện được giúp việc cho một bà chủ khéo tay như vậy. Mọi việc đều tiến triển theo một chiều hướng thuận lợi cho một cuộc họp mặt gia đình sắp diễn ra để vấn ý hai bà Glegg và Pullet về việc gởi Tom đi học. Bà Tulliver nói: - Lần này tôi tính không mời dì Dean. Dì ấy hay ganh tị và hay tìm cách kể xấu mấy đứa con mình với các dì dượng chúng. Ông Tulliver đáp: - Đừng, đừng, cứ mời có sao đâu. Mấy lúc gần đây tôi không có dịp nói chuyện với dượng Dean, cũng đã gần nửa năm rồi. Dì ấy nói gì thì nói, để ý làm chi? Con tôi không cần mang ơn ai cả. - Ông cũng nói vậy sao, ông Tulliver? Có điều tôi chắc là bên họ hàng nhà ông sẽ chẳng có người nào để lại cho tụi nhỏ được tới năm bảng sau khi chết, nhưng chị Glegg và chị Pullet thì đang để dành tiền, không rõ bao nhiêu, họ đã dành hết lợi tức riêng và tiền bán phó mát của họ, chồng họ mua cho đủ thứ hết. Bà Tulliver là người nhu hòa, nhưng ngay cả một con trừu cũng có thể nổi hung lên được khi nó đã có một đàn con. - Hừ! Mật ít ruồi nhiều. Một nhúm tiền của chị em bà mà có nghĩa lý gì khi họ có hàng tá cháu trai, cháu gái để chia chác? Và biết đâu cô em Dean của bà lại không xúi hai bà kia để hết tiền lại cho con dì ấy? Tôi chắc họ sẽ làm cho hàng xóm có dịp để dị nghị sau khi họ chết đi. - Tôi không hiểu là còn có điều gì mà dì ấy không làm, vì lũ con của tôi bướng bỉnh với dì dượng của chúng quá. Maggie thì ngoan cố gấp mười lần thường lệ khi có mặt họ, còn thằng Tom thì chẳng ưa gì ai, tệ quá thôi – dầu gì đi nữa thì đó cũng là chuyện thường với con trai hơn là con gái. Con nhỏ Luck Dean mới nhu mì làm sao – ông để nó ngồi lên ghế là nó ngồi yên ở đây luôn cả giờ. Chẳng làm sao mà không thương được một con bé như nó, tôi chắc nó còn giống tôi hơn cả con gái của tôi nữa. - Được, nếu bà thương con nhỏ đó thì càng nên mời cha mẹ nó dẫn nó theo. Và tại sao bà không mời vợ chồng dượng Moss luôn? Và vài đứa con của họ nữa? - Kìa, ông Tulliver, tính ra đã có tám người rồi, không kể mấy đứa nhỏ. Ông cũng thừa biết chị em tôi và cô em ông đâu có hợp nhau. - Thôi được, Bessy, bà cứ tùy ý lo liệu. Ông Tulliver vừa nói vừa lấy nón đi ra nhà máy. Ít có bà vợ nào biết phục tùng chồng trên tất cả các phương diện - trừ phương diện liên hệ tới họ hàng mình - như bà Tulliver. Nhưng bà đã từng là một thiếu nữ Dodson, thật vậy, Dodson là một danh giá vọng tộc ở quê hương họ. Các cô Dodson lúc nào cũng nghĩ cách nâng cao danh giá của mình nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi thấy hai người chị lớn rất kén chồng - họ không chịu kết hôn sớm, đó không phải là đường lối của dòng Dodson. Họ có một lối sống khác hẳn các gia đình khác: quần áo được giặt theo một phương pháp đặc biệt, họ cũng có một lối cất giữ rượu ngọc trâm, đùi heo múi được làm theo một lối riêng, họ cũng có một lối cất giữ rượu phúc bồn tửu gia truyền. Vì vậy, các cô gái của gia đình đó không khỏi thấy hãnh diện khi mình là một người mang họ Dodson thay vì Gibson hay Watson. Dòng họ Dodson cũng có những nghi thức tống táng riêng biệt: băng nón không được dùng màu xanh, găng tay không bao giờ chừa riêng ngón cái, phu đoàn phải mang khăn choàng cổ. Khi có một người trong họ gặp chuyện rắc rối hay đau yếu, tất cả những ai còn lại đều tới thăm người không may, thường là cùng một lúc. Một người đàn bà họ Dodson khi ở nhà một người lạ, chỉ luôn dùng bánh và trà, làm ngơ trước các loại mứt và nghi ngờ các loại bơ. Họ nghĩ biết đâu những món đó lại sắp lên men vì sên đường chưa tới hay nấu không đúng cách. Cũng có vài người Dodson hơi khác những người cùng họ một chút – điều này còn c lớn hơn một tuổi. Maggie vẫn thường thích thú nhìn Lucy, cô tưởng tượng ra một thế giới gồm toàn những người tí hon, và cô là nữ hoàng của họ với chiếc vương miện và cây huyền trượng bé nhỏ... nhưng chỉ là nữ hoàng Maggie với hình dáng của Lucy. Sau khi hôn Lucy, Maggie rối rít: - Lucy, em sẽ ở lại chơi với chị và anh Tom, phải không kìa, hôn Lucy đi anh Tom. Tom bước tới, nhưng không hôn Lucy – không, mà chỉ đỏ mặt, bối rối mỉm cười, rõ ràng là thái độ thông thường của tất cả các cậu bé rụt rè đang ở giữa một cuộc họp. Bà Glegg bất bình, nói lớn: - Ủa, trẻ con bây giờ vào phòng mà không chào hỏi các dì và dượng của chúng nữa sao? Ngày xưa tôi đâu có vậy. Bà Tulliver gọi: - Tới chào các dì dượng đi. Bà lộ hẳn nét lo âu và buồn thảm, chỉ muốn bảo nhỏ Maggie đi chải tóc lại cho thật gọn gàng. Giọng bà Glegg lại oang oang: - Tốt, dì mong rằng các cháu đều là những đứa ngoan. Vừa nói, bà vừa nắm tay chúng, mấy chiếc nhẫn kịch cộm của bà làm chúng đau tay. Bà hôn lên má chúng: - Ngước đầu lên, Tom, con trai đã tới tuổi đi học nội trú phải biết ngước mặt lên. Vén tóc ra sau tai đi, Maggie, giữ cổ áo cho ngay thẳng. Bà Glegg vẫn thường gằn giọng như vậy khi nói chuyện với lũ nhỏ, làm như chúng toàn là những đứa điếc hay ngốc nghếch. Bà nghỉ rằng với cách đối xử như vậy, bà sẽ làm cho chúng cảm thấy chúng có tội, và sẽ giúp kềm chế tánh hư hỏng lại. Mấy đứa con của Bessy được nuông chiều thái quá cần có người làm cho chúng rõ được bổn phận cháu con. Bà Pullet thì lại khác: - Các cháu của dì giỏi lắm. Các cháu mau lớn quá. Rồi làm ra điệu buồn buồn, bà nhìn lại mẹ chúng: - Con nhỏ có nhiều tóc quá. Tôi mà như dì là tôi sẽ tỉa mỏng và cắt ngắn bớt đi, để vậy có hại cho sức khỏe của nó lắm. Nếu tôi không lầm thì có lẽ vì vậy mà nước da của nó quá đen, phải không dì Deane? Bà Deane mím môi và nghiêm khắc nhìn Maggie: - Tôi không nói có lẽ, mà chắc chắn là vậy. Ông Tulliver xen vào: - Không, không, con nhỏ, con nhỏ vẫn như thường – chẳng có triệu chứng bệnh hoạn nào cả. Cũng lúa mì có thứ nâu thứ trắng, và có người lại thích lúa nâu hơn. Nhưng tôi thấy Bessy cũng nên cắt tóc ngắn cho nó để được gọn gàng hơn. Một quyết định ghê gớm lóe ra trong đầu Maggie, nhưng cô bé liền dẹp qua một bên để hỏi xem dì Deane có để Lucy ở lại chơi không. Sau vài lời từ chối khéo, bà Deane quay sang gọi Lucy: - Con có muốn ở lại chơi vài ngày mà không có má không, Lucy? Lucy đỏ bừng mặt, ấp úng: - Dạ muốn. Ông Deane can thiệp: - Được rồi, cứ cho nó ở lại đi. Thân phụ của Lucy là một người dềnh dàng nhưng lanh lợi, với một gương mặt có thể tìm thấy trong khắp các giai tầng xã hội Anh - đầu sói, râu đỏ, trán cao, dáng dấp gọn gàng. Người ta có thể trông thấy một nhà quý phái giống hệt như ông Deane cũng như có thể gặp một người bán tiệm hay một công nhân lương ngày chẳng khác gì ông ta. Nhưng có lẽ ít người nào có được đôi mắt nâu sắc bén như ông, không một người đàn ông nào ở St. Ogg’s được trọng vọng bằng ông, và có một số người cũng đồng ý rằng cô Susan Dodson - người trước đây đã lấy chồng bất xứng nhứt trong các chị - một ngày kia sẽ có xe nhà và sang trọng hơn chị Pullet nữa. Hiện thời, ông Deane đang có chân trong ban quản trị một nhà máy lớn, một hãng tàu với sự yểm trợ của một ngân hàng, người ta không hiểu rồi đây ông ta sẽ còn đi lên tới tận đâu. Ngay khi chuyện cho Lucy ở lại được dàn xếp xong, bà Tulliver vẫy tay gọi Maggie và bảo nhỏ: - Maggie, đi chải đầu lại đi – lẹ lên, xấu hổ quá. Má đã dặn con là hãy tới gặp chị Martha trước khi vào phòng khách mà. Lúc đi ngang Tom, Maggie kéo tay áo anh, thì thầm: - Anh Tom đi với em. Tom đi theo ngay, không một chút do dự. Ra tới cửa, Maggie nói nhỏ: - Lên lầu với em nghe. Em muốn làm xong chuyện này trước khi ăn. Chẳng mong gì hơn là tới bữa ăn, Tom đáp: - Không đủ thì giờ để chơi trò gì đâu. - Đủ mà, cái này không mất thì giờ đâu, đi với em đi, anh! Tom theo Maggie đi lên lầu vào phòng riêng của mẹ. Cô bé đi ngay lại tủ vật dụng, lấy ra một cây kéo lớn. Tom ngạc nhiên: - Lấy kéo làm gì vậy, Maggie? Maggie trả lời bằng một phát kéo cắt ngang khoanh tóc nơi giữa trán. Tom trố mắt: - Trời đất ơi, mày bị đòn cho coi. Thôi đừng cắt thêm nữa. Soạt. Lưỡi kéo lại nhấp thêm một nhát nữa trong khi Tom nói. Chẳng hiểu vì sao thằng bé bỗng thấy vui vui, có lẽ tại Maggie trông dễ tức cười. Bị kích thích bởi sự liều lĩnh của chính mình và cũng mong muốn làm xong công việc cho mau, Maggie bảo: - Nè, Tom, cắt mớ tóc phía sau cho em đi. Tom ngần ngại cầm chiếc kéo: - Thế nào mày cũng bị đòn. Maggie dậm chân: - Không sao – mau lên! Mớ tóc thật đen và dày – không gì quyến rũ bằng một tiếng soạt ngon lành, một tiếng rồi tiếng nữa, mái tóc nặng nề rớt xuống sàn nhà. Maggie đứng im với mái tóc ngắn, lởm chởm, nhưng lại có cảm giác trống trải và tự do như từ một khu rừng rậm chui ra một cánh đồng bằng. Tom vừa cười vừa nhảy nhót chung quanh em: - Ồ, Maggie, trông mày tức cười quá! Mày soi kiếng thử coi - giống y như thằng khùng thường bị tụi tao ném vỏ hồ đào ở trường. Maggie bỗng cảm thấy hối tiếc. Cô bé chỉ có ý định thoát khỏi mái tóc đã gây nhiều phiền phức cho mình và sự chiến thắng của mình trước mẹ và các dì nhờ hành động táo bạo này. Maggie không mong ước làm cho mái tóc mình đẹp ra – đây là một cuộc vượt ra ngoài khả năng – cô bé chỉ muốn chứng tỏ cho mọi người thấy mình là một đứa bé gái thông mình mà đừng chỉ trích, rầy rà thêm nữa. Nhưng bây giờ, khi Tom đã cười ngạo và bảo cô giống một thằng khùng, câu chuyện lại chuyển sang một chiều hướng mới. Maggie nhìn vào kiếng, gương mặt đỏ hồng từ từ tái lại, môi run run. Tom cũng đâm lo: - Maggie, sắp phải xuống ăn tiệc rồi! Trời đất ơi! - Tom đừng cười em nữa. Maggie nói bằng giọng van lơn, nước mắt hờn giận bỗng trào ra. Cô bé dậm chân và đẩy mạnh anh. - Ê, đừng nóng! Mày cắt tóc để làm gì? Tao phải đi xuống đây, tao ngửi thấy mùi đồ ăn rồi. Tom vội vàng trở xuống, bỏ mặc đứa em đáng thương ở lại với một cảm giác tan vỡ, thứ cảm giác thường có nơi tâm hồn bé bỏng của cô. Bây giờ Maggie mới nhận ra hành động của mình thật điên rồ, từ đây có sẽ phải nghe và nghĩ tới mái tóc của mình nhiều hơn bao giờ hết. Maggie vẫn thường hành động nông nổi và nhứt thời, nhưng ngay sau đó, không những thấy trước được hậu quả của hành động đó, mà lại còn biết được những gì sẽ xảy ra nếu không hành động như vậy với đầy đủ các chi tiết trong các trường hợp có thể xảy ra. Tom không bao giờ có những hành vi điên cuồng như em, nó có năng khiếu giúp nhận rõ những gì có thể gây bất lợi cho mình, vì vậy rất ít khi bà Tulliver có thể trách mắng Tom là đứa hư hỏng được. Nhưng nếu đã lỡ phạm một lỗi lầm vào loại đó, nó nhứt định không cho là mình có lỗi, nó tự binh vực lấy và «không hối hận». Nhưng với Maggie, khi đứng khóc trước tấm kiếng, cô bé thấy ngay rằng khó mà xuống ngồi vào bàn ăn được để phải chịu đựng những ánh mắt cùng những lời khắc nghiệt của các dì, trong khi Tom, Lucy, Martha, chị hầu bàn, và có lẽ cha và các dượng sẽ cười nhạo cô – bởi vì nếu Tom đã chế nhạo thì dĩ nhiên các người khác cũng như vậy cả. Phải chi mình đừng cắt tóc, mình sẽ được ngồi chung với Tom và Lucy, sẽ có bánh đậu và bánh kem! Bây giờ cô chỉ còn biết ngồi khóc bơ vơ, tuyệt vọng giữa các nắm tóc đen của mình như Ajax khi ngồi giữa đàn cừu bị tàn sát của y... Chị người làm Kezia bỗng hấp tấp vào phòng: - Cô Maggie, cô phải xuống ngay. Ủa, cô làm gì vậy? Chưa bao giờ tôi thấy một bộ tóc xấu xí như vậy cả. Maggie cáu kỉnh: - Kệ tôi, Kezia. Chị đi đi. - Nhưng cô phải xuống ngay lập tức, má cô bảo thế. Kezia vừa nói vừa bước tới Maggie, nắm tay cô bé kéo lên. Maggie trì lại: - Đi ra ngay, Kezia, tôi không muốn ăn gì hết. Tôi không xuống. - Cũng được, tôi không thể ở lại đây được. Tôi còn phải lo hầu bàn. Kezia vừa nói vừa ra ngoài. Mười phút sau, Tom ló đầu vào: - Maggie, đồ ngốc, tại sao mày không xuống ăn? Có nhiều món ngon lắm, má biểu mày xuống. Tại sao lại khóc, đồ ngu? Ôi, thảm thương chưa! Tom lại tàn nhẫn và lạnh lùng, nếu là Tom ngồi khóc trên sàn thì Maggie cũng đã khóc theo rồi. Và còn buổi tiệc, vô cùng thịnh soạn trong khi bụng cô bé cồn cào. Nhưng Tom cũng không đến nỗi tàn nhẫn lắm. Nó không khóc và cũng không thấy nao lòng vì nỗi buồn của em, nhưng nó cũng bước tới, cúi xuống, dịu dàng an ủi: - Mày không xuống thiệt hả? Vậy để tao đem bánh lên cho... bánh kem và các thứ khác nữa? Maggie bắt đầu cảm thấy cuộc đời đáng khoan thứ hơn: - Dạ... ạ! - Được. Tom bước ra, nhưng tới cửa, nó chợt quay lại: - Nhưng tốt hơn hết là nên xuống với tao. Còn có đồ tráng miệng hột bồ đào và rượu ngọc trâm nữa. Maggie thôi khóc và đắn đo nhìn theo Tom. Thái độ chiều chuộng của anh làm cô bé vơi buồn, vả lại, hột bồ đào cùng rượu ngọc trâm cũng quyến rũ vô cùng. Bỏ lại những nắm tóc vung vãi trên sàn, Maggie từ từ xuống thang. Cô bé tựa vai vào cửa phòng ăn, nhìn vào. Còn một chiếc ghế trống giữa Tom và Lucy, cùng một chiếc bàn phụ dọn sẵn thật nhiều bánh kem. Cơn đói và nổi thèm ăn ngon chiến thắng một cách mau lẹ. Maggie bước vào. Bà Tulliver buột miệng kêu khe khẽ khi thấy Maggie, chiếc muỗng canh trong tay bà rớt xuống dĩa, bắn nước tung tóe. Kezia đã không nói cho bà rõ tại sao Maggie không chịu xuống, chị người làm không muốn bà chủ của mình phải bối rối giữa lúc này, trong khi bà Tulliver cứ đinh ninh là Maggie trở chứng và đã định sẽ phạt bằng cách bớt phần ăn. Tiếng kêu của bà Tulliver làm mọi cặp mắt cùng đổ dồn về phía Maggie, má và tai cô bé nóng bừng lên khi dượng Glegg, một ông già quí phái, tóc bạc, mặt có vẻ hiền từ, lên tiếng hỏi: - Ủa! Con nhỏ nào đây? Chị lượm được nó ngoài đường hả Kezia? Ông Tulliver vừa cười vua nói nhỏ với ông Deane: - Nó tự cắt tóc đó. Dượng có thấy con nhỏ nào như nó không? Ông Pullet cũng không thể ngồi im: - Nè, cháu tự làm cho cháu trông buồn cười quá. Có lẽ trong đời ông chưa bao giờ nói một câu tàn nhẫn như vậy cả. Chỉ có bà Glegg là khiển trách với một giọng nặng nề và khắc nghiệt hơn ai cả: - Xấu hổ quá sức rồi! Con gái mà tự cắt tóc cho mình đáng bị trừng phạt bằng cách cho ăn bánh mì không với nước lã – và không được phép ngồi chung với các dì dượng của nó. Ông Glegg muốn giảm bớt tánh chất khắc nghiệt trong lời buộc tội của vợ mình: - Này, tôi nghĩ là nó đang bị bỏ tù và cạo trọc đầu. Bà Pullet nói giọng xót thương: - Coi nó giống y như dân du mục. Da đen như vậy có lẽ là điềm xấu cho nó, Bessy, tôi sợ sau này nó sẽ chịu nhiều vất vả. Nước mắt long lanh, bà Tulliver rầu rĩ: - Nó hư hỏng quá, cứ làm khổ má nó luôn. Tất cả mọi người đều trách mắng và chế nhạo Maggie. Thoạt tiên, Maggie chỉ cảm thấy giận, cơn giận đó tạo cho cô bé một sức thách đố nhứt thời. Tom thì lại nghĩ rằng mình thật can đảm, nó thì thầm với Maggie: - Thấy chưa, tao đã nói rồi mà! Nhưng Maggie lại tưởng Tom khoái trá vì thấy mình bị rầy la. Sức chịu đựng mỏng manh của cô bé tan biến ngay tức khắc, tim se thắt lại, cô bé chạy tới bên cha, giấu mặt sau vai ông, khóc nghẹn ngào: - Nào, nào, con gái, đừng buồn, con có quyền cắt tóc đi nếu nó làm phiền con, đừng khóc nữa, ba binh vực con mà. Ôi những lời an ủi quí quá biết bao! Maggie không bao giờ quên những lúc được cha hứa «binh vực» cho mình. Cô giữ những lời hứa đó trong tim và vẫn còn nhớ mãi luôn nhiều năm về sau nữa, trong khi ai cũng cho rằng cha cô chỉ nuông chiều và làm hư hỏng con cái mà thôi. Bà Glegg nói với bà Tulliver: - Chồng của dì nuông chiều con bé quá mức, Bessy! Dì mà không cẩn thận là nó hư luôn đó. Ba chúng ta ngày xưa đâu có quá dễ dãi với con cái như vậy. Bao nhiêu chuyện phiền muộn đã dồn dập ùa tới dường như làm cho mọi cảm giác của bà Tulliver tê liệt. Bà không buồn chú ý tới lời trách cứ của chị, mà chỉ lầm lì chia bánh, sửa soạn tráng miệng. Bữa tráng miệng là cả một sự giải thoát cho Maggie, vì bọn trẻ đã được báo trước là nếu trời tốt chúng sẽ được dùng hột bồ đào và rượu vang ngoài nhà mát; bây giờ chúng chạy ùa ra vườn, đùa giỡn giữa những bụi hoa hồng như con thú con. Bà Tulliver có lý do riêng khi chúng ăn tráng miệng ngoài vườn. Vừa ăn uống linh đình xong, người ta sẵn sàng cởi mở với nhau, đó là thời gian thích hợp nhứt để ông Tulliver cho biết ý định về việc học của Tom. Trẻ con vẫn thường được tự do nghe chuyện người lớn bàn về chúng, vì dầu có chú ý mấy chúng c; mày biết tao đã đưa mày miếng ngon nhứt. Maggie khổ sở: - Nhưng em đã nhường cho anh trước rồi mà. - Phải, nhưng tao không tham lam như thằng Spouncer. Nếu mày không đánh nó là nó sẽ chia một phần nhỏ hơn, và nếu mày nhắm mắt lại và chọn đúng phần lớn thì nó sẽ đổi tay. Nhưng nếu tao chia thì tao phải chia đồng đều – vì tao không phải là đứa tham ăn. Dứt lời, Tom nhảy xuống đất, ném một hòn đá và gọi Yap – nãy giờ vẫn ngồi chực từ dưới nhìn lên, hai tai ve vẫy với vẻ thất vọng rõ rệt. Tuy nhiên, Yap cũng mau mắn đáp ứng lời gọi của Tom, chứng tỏ rằng mình lúc nào cũng là một thứ chó rộng lượng. Maggie vẫn ngồi yên trên nhánh cây, chìm đắm trong chua xót vì những lời khiển trách bất công. Đáng lẽ mình không nên ăn hết miếng bánh mà phải chừa cho Tom đôi chút. Nhưng Tom đã từ chối rồi kia mà – và mình đã ăn mà không nghĩ ngợi gi cả – làm sao nhớ tới chuyện đó được? Maggie khóc nức nở suốt mười phút sau, nước mắt ràn rụa khiến cô bé chẳng còn nhìn thấy gì chung quanh nữa. Nhưng rồi cơn giận lại bắt đầu nhường chỗ cho ý định hòa giải, Maggie nhảy xuống đất tìm anh. Tom không còn trong sân ngựa phía sau sân chứa rơm - có lẽ đã về nhà với Yap rồi. Maggie chạy tới bờ đất cao cạnh cây ô rô già, từ đó có thể quan sát được dòng sông Floss. Tom kìa, nhưng tim Maggie chợt thắt lại khi thấy là Tom đã đi quá xa về hướng bờ sông, và bên cạnh nó, ngoài Yap ra, còn có cả Bob Jakin một thằng bé nghịch ngợm trước đây được giao nhiệm vụ đuổi chim. Không hiểu tại sao Maggie lai đoán chắc Bob là một tên hung ác, có lẽ vì nó có một bà mẹ mập kinh khủng, sống trong một ngôi nhà tròn quái dị ở bờ sông. Có lần Maggie và Tom đi dạo ngang đó, bỗng một con chó nhảy xổ ra sủa dữ dội và khi bà mẹ của Bob từ trong nhà ra, kêu lớn là đừng sợ chó, Maggie đã hoảng vía vì tưởng bà ta hét với mình. Maggie tưởng tượng ngôi nhà tròn đó có rắn bò trên sàn nhà và có dơi bay trong phòng ngủ. Có lần cô đã thấy Bob giơ nón đưa cho Tom xem một con rắn nhỏ cuộn tròn bên trong, và lần khác, cô bé thấy nó cầm một nắm dơi con. Hơn nữa, Maggie có ác cảm với Bob Jakin vì khi Tom đi chơi với nó, Tom sẽ không nghĩ tới cô và không bao giờ cho cô theo. Phải thành thật nhìn nhận rằng, Tom rất thích đi chơi chung với Bob. Làm sao mà không thích được? Vừa nhìn thấy một cái trứng chim Bob đã biết ngay đó là trứng chim én, chim bạc má hay chim họa mi, Bob tìm tổ ong rất giỏi và biết đặt hầu hết các loại bẫy, nó có thể leo cây nhanh như sóc và còn có một năng khiếu huyền bí giúp khám phá được những ổ nhím hoặc chuột hương lông trắng, nó cũng có đủ can đảm để làm những việc quỉ quái như chui vào nhà người, lấy đá liệng cừu và cả việc giết chết một con mèo đi lạc nữa. Tất cả những đặc điểm đó đã mê hoặc được Tom, và mỗi ngày Tom đi chơi với Bob là cả một ngày u sầu của Maggie. Được! Chẳng còn hy vọng gì nữa, Tom đã đi chơi riêng, Maggie chỉ còn biết giải khuây bằng cách đi thơ thẩn dọc hàng rào cây và tưởng tượng một thế giới bé nhỏ theo ước muốn của cô. Cuộc đời của Maggie như gắn liền vào phiền muộn, và óc tưởng tượng chính là một thứ ma túy cho cô bé. Trong khi đó, Tom đang vội vàng theo bước Jakin - kẻ vừa gặp tình cờ - tới xem cảnh bắt chuột ở một nông trại gần đó. Nó đã quên mất Maggie và bao nhiêu phiền muộn đã gây ra cho em. Bob rất thông thạo công việc đặc biệt này, nó tả cho Tom nghe một cách tường tận và nhiệt thành đến nỗi dầu là người dửng dưng hay hoàn toàn không biết gì về chuyện bất chuột cũng có thể hình dung ra được môn thể thao này. Dầu bị nghi ngờ là độc ác và bất bình thường, Bob trông cũng không đến nỗi hạ tiện lắm, gương mặt với chiếc mũi tẹt và mái tóc quăn đỏ của nó cũng có đôi nét khả ái. Nhưng quần của nó thì lúc nào cũng xăn lên qua gối để tiện lặn lội ở những chỗ xâm xấp nước, và đức hạnh của nó – giả sử là có – hiển nhiên là thứ «đức hạnh giẻ rách» rất khó nhận thấy (có lẽ vì quá ít). Bob nói bằng một giọng khàn và chát: - Tôi biết một ông có nhiều chồn lắm. Mắt nó không lúc nào rời mặt sông, như một động vật lưỡng thể, hễ có động tịnh là phóng xuống nước ngay, nó nói: - Người đó ở Kennel Yard, St. Ogg’s. Ổng đi bắt chuột khắp các nơi. Ít lâu nữa tôi cũng làm nghề bắt chuột, tôi chỉ thích cái nghề đó. Cái thứ chuột nhúi không ăn thua gì với chuột đồng. Mà Chúa ơi! Cần phải có chồn mới săn chuột được. Chớ không làm gì được đâu. Ủa! Có con chó này nữa! Bob khinh miệt chỉ Yap: - Nó chẳng làm gì được đâu. Chính mắt tôi thấy – tôi đã có dự cuộc săn chuột ở trại của ba cậu. Dường như hiểu được sự khinh bỉ của Bob, con Yap cụp đuôi, lùi vào chân chủ. Tom yếu ớt bênh vực: - Yap không phải chó săn. Chừng nào học xong tao sẽ có nhiều chó săn thật cừ để săn chuột và các thứ khác. Bob sốt sắng: - Chồn của cậu Tom, loại chồn trắng mắt hồng. Chúa ơi, cậu sẽ tự tay bắt chuột, rồi cậu có thể nhốt chuột vào lòng chung với chồn để coi chúng cắn nhau. Tôi có làm rồi, vui ghê lắm. Tom chậm rãi: - Loại chồn là thứ hay cắn xé - khỏi cần xúi chúng cũng cắn lẫn nhau. - Ủa, đó mới là cái hay của chúng... Ngay lúc đó bỗng có tiếng động làm hai cậu bé dừng sững lại. Một vật gì đó vừa nhào xuống nước từ giữa bụi đăng tâm thảo. Bob quả quyết đó là một con chuột nước. - Ê, Yap! Nó kìa Yap! Tom vừa vỗ tay vừa gọi Yap khi thấy một cái mõm đen đủi đang rẻ nước tiến sang bờ bên kia. - Rượt nó, cưng, rượt nó! Yap phe phẩy hai tay và nhăn trán, nhưng không chịu phóng xuống nước mà chỉ sủa ầm ỉ như cố gắng đáp ứng phần nào lời kêu gọi của chủ. - Hừ, đồ chết nhát! Tức quá, Tom đá con Yap một cái và cảm thấy xấu hổ như một thợ săn gặp phải con chó quá tối. Bob tránh bình luận về Yap mà chỉ lần mò bước xuống chỗ nước cạn gần bờ sông. Nó khoan khoái đá nước tung tóe trước mặt và nói: - Sông này vẫn còn cạn, sông Floss cũng vậy. Năm ngoái, các ruộng lúa đều phủ một màn nước. Là kẻ có khuynh hướng thấy sự tương phản giữa những lời phát biểu, thật ra, hoàn toàn phù hợp của người khác, Tom cãi: - Nhưng đã có lần vùng này bị lụt lớn, lần có cái Vũng Tròn đó. Tao biết vì tao nghe ba tao kể lại. Bò cừu gì cũng chết đuối hết, thuyền bè có thể đi lại khắp nơi trên đồng cỏ. - Tôi không sợ nước lụt, tôi coi nước cũng như đất. Tôi biết lội mà. - À, nhưng nếu ngày này qua ngày kia mày không có gì ăn? Óc tưởng tượng của Tom bắt đầu hoạt động mạnh: - Chừng nào lớn lên, tao sẽ làm một chiếc thuyền thật to trên nóc có một căn nhà gỗ, như con thuyền của Nô ê rồi chất đầy thức ăn lên đó - thỏ và các thứ khác – tất cả đều chuẩn bị sẵn sàng. Và khi nước dâng, mày thấy không Bob, tao chẳng lo gì cả... Và bắt gặp mày bơi, tao sẽ cho mày lên. Tom thêm câu chót bằng một giọng kẻ cả. Nhưng đối với Bob đói kém không phải là một tai nạn lớn lao. - Tôi không sợ, nhưng nếu cậu muốn ăn thịt thỏ, tôi sẽ lên thuyền đập đầu chúng cho. - À, tao còn mấy đồng nửa xu, tụi mình chơi trò sấp – ngữa đi. Tom đề nghị mà không nghĩ rằng đó là một trò chơi có lẽ không còn đủ sức quyến rũ nó vào cái tuổi thành thạo này nữa. - Tao sẽ chia đều ra rồi coi thử ai thắng. Bob hãnh diện: - Tôi có nửa a xu nè. Nó bước lên bờ và ném đồng nửa xu của nó lên không. - Sấp ngữa? Tom hăm hở: - Sấp. - Ngữa. Vừa nói, Bob vừa cúi xuống chụp lẹ đồng xu. Tom kêu lên: - Không phải Ngữa, đưa đồng xu cho tao – tao ăn mày rồi. Bob giữ chặt đồng xu trong túi: - Không. - Vậy thì mày sẽ biết... - Cậu không được ép buộc tôi. - Tao làm được. - Không. - Tao là chủ mày. - Cóc cần. Tom nắm cổ Bob, lay mạnh: - Nhưng tao làm được, đồ xảo trá. Bob đá Tom: - Cút ngay! Tom sôi máu, nó chồm tới xô thằng bé bắt chuột, nhưng Bob đã ôm cứng lấy nó, và hai đứa cùng ngã. Chứng vật lộn dữ dội một lúc rồi Tom đè được hai vai của Bob, hỗn hển: - Bây giờ mày nói là mày đưa đồng xu cho tao đi. Nhưng ngay lúc đó con Yap – từ nãy giờ chạy thơ thẩn phía trước – bỗng quay trở lại sủa inh ỏi, chợt thấy một dịp may bằng vàng để đớp cái chân trần của Bob, chẳng những không bị trừng phạt mà lại còn được chủ khen. Cái đớp của Yap thay vì làm Bob khuất phục lại càng khiến nó hung hăng hơn và như có một sức mạnh mới, nó đẩy Tom ngã ngữa và leo lên trên. Nhưng Yap, sau khi thấy cú đầu tiên không có kết quả – lại cắn hai hàng răng vào chỗ khác. Bị quấy nhiễu liên miên, Bob tức giận buông Tom ra, tóm cổ Yap và néÔng Glegg nheo mắt: - Cái gì mà không tề chỉnh, bà Glegg? Cái áo choàng xanh mới may của tôi hả? - Tôi thương hại cho ông quá, ông Glegg, ai đi đùa cợt khi thấy bà con của mình sắp sửa bị phá tan sự nghiệp. Ông Tulliver nóng mặt: - Nếu chị muốn ám chỉ tôi thì tôi cũng xin nhắc chị đừng quá lo lắng cho tôi. Tôi có thể tự lo liệu lấy công việc của mình, không cần quấy rầy tới ai. Ông Deane nghiêm giọng: - Tôi vừa nhớ ra một chuyện, có người nói với tôi là luật sư Wakem sắp cho thằng con của ông ta – cái thằng có tật đó – tới học tại nhà một giáo sĩ – phải vậy không Susan? (Ông quay sang vợ.) - Tôi không nhớ rõ lắm. Bà Deane không phải là hạng người hay xen vào những màn nguy hiểm. Ông Tulliver nói với giọng thật tươi, chứng tỏ cho bà Glegg biết rằng ông chẳng để ý gì tới bà cả: - Được, nếu Wakem đã quyết định gởi con đi học tại nhà một giáo sĩ thì quyết định của tôi về thằng Tom không vướng một lỗi lầm nào. Wakem là một tên đại lưu manh, nhưng hắn biết cách chọn người lắm. Ậy, ậy, hãy nói cho tôi biết ai bán bánh cho Wakem, tôi sẽ cho bạn biết nên mua bánh ở đâu. Riêng bà Pullet thì lại thấy cuộc thảo luận này có sắc thái của một đám tang: - Nhưng thằng con của trạng sư Wakem hơi gù lưng nên gởi nó tới học ở nhà một giáo sĩ là chuyện thường. Ông Glegg diễn giải lời nhận xét của bà Pullet: - Phải, dượng phải chú ý tới điều đó, dượng Tulliver. Có lẽ thằng con của Wakem sẽ không kham nổi một nghề nào, nên ba nó mới quyết định biến nó thành một nhà quí phái. Bà Glegg cáu kỉnh: - Ông Glegg, ông nên im miệng là hơn. Ông Tulliver đâu có muốn nghe ý kiến của ông hoặc của tôi đâu. Trên đời này bao giờ cũng có những người khôn ngoan hơn tất cả bao nhiêu người khác. Ông Tulliver giận thật: - Kìa, vậy mà tôi tưởng chị là một trong những người đó. Bà Glegg mỉa mai: - Thôi, tôi không nói gì hết là xong. Không bao giờ người ta chịu hỏi ý kiến tôi và bây giờ tôi cũng sẽ không góp một ý nào cả. Ông Tulliver nói: - Lần đầu tiên mới nghe chị nói như vậy. Ý kiến là vật duy nhất mà lúc nào chị cũng sẵn sàng cho người khác. - Nếu tôi không sẵn sàng cho thì tôi cũng sẵn sàng cho mượn. Có nhiều người đã mượn tiền của tôi, nhưng hối tiếc nhứt là tôi đã cho bà con mượn tiền. Ông Glegg xoa dịu: - Thôi mà, thôi mà. Nhưng ông Tulliver vẫn không kềm hãm được: - Và chỉ đã lấy lời năm phần trăm, bà con hay không bà con gì cũng vậy. Bà Tulliver nài nỉ: - Chị dùng rượu chát đi, để tôi lấy thêm cho chị một ít hột hạnh nhân và nho nữa. Bà Glegg chộp lấy cơ hội: - Bessy, tôi thương hại cho dì lắm. Tới lúc này mà còn nói chuyện ăn uống chi nữa. Bà Pullet bắt đầu sụt sùi: - Chúa ơi! Chị Glegg, đừng gây gỗ nữa – giữa chị em với nhau mà làm như vậy coi không được. Bà Glegg bóng gió: - Phải, mời chị em tới nhà để gây gỗ và phỉ báng thì quả thật không tốt chút nào. Ông Glegg nài nỉ: - Thôi mà – Jane – bình tĩnh lại. Nhưng khi ông Tulliver nổi giận rồi thì khó mà nguôi được: - Ai gây với chị? Chính chị mới là người lúc nào cũng tìm cách dằn vặt người ta. Tôi không hề muốn gây lộn với người đàn bà nào nếu họ biết yên phận một chút. - Yên phận? Ông nói tới ông thì đúng hơn, ông Tulliver. Ông đã đối xử với tôi không thích đáng chút nào hết, nếu người trong gia đình tôi không lấy phải một ông chồng bất xứng thì dượng đã không bao giờ gặp được tôi. - Chị đã nói vậy thì tôi cũng xin nhắc chị nhớ là gia đình tôi cũng đâu có kém gì gia đình chị – và có lẽ còn khá hơn nữa vì gia đình tôi chẳng có một người đàn bà nào hay quạo quọ như vậy cả. Bà Glegg đứng lên: - Ông Glegg, tôi không hiểu ông nghĩ gì mà cứ ngồi yên để nghe họ nhục mạ tôi. Riêng tôi thì sẽ không ở lại trong nhà này thêm một phút nào nữa. Ông có thể ở lại về sau bằng xe, để tôi đi bộ về được rồi. - Thôi mà! Thôi mà! Ông Glegg lập đi lập lại một cách buồn bã trong khi theo vợ bước ra ngoài. Bà Tulliver nước mắt viền quanh: - Ông Tulliver, tại sao ông lại ăn nói với chị ấy như vậy? Nước mắt của vợ cũng không thể lung lạc ông Tulliver được: - Cứ để bả đi, càng sớm càng tốt. Bà Tulliver thất vọng: - Chị Pullet, chị thấy có nên theo xin lỗi chị ấy hay không? Ông Deane xen vào: - Không nên, không nên, để vài ngày nữa đã. Bà Tulliver lau nước mắt: - Thôi được, bây giờ chị em mình ra vườn thăm mấy đứa nhỏ đi. Không còn đề nghị nào thích hợp hơn nữa. Ông Tulliver cảm thấy trời trong sáng và dễ thở hơn khi các bà đã kéo nhau ra khỏi phòng. Ông rất thích bàn chuyện vặt với ông Deane, ông coi ông Deane như là người hiểu biết sâu rộng duy nhất trong đám người quen, hơn nữa lối nói chuyện của ông Deane lại rất thích hợp với ông. Và khi các bà đã đi rồi, họ có thể bàn luận với nhau về Quận công Wellington và cách điều binh của ngài trong trận Waterloo, trận chiến mà ngại không bao giờ thắng được nếu chẳng có cả một đạo quân khổng lồ ở sau lưng. Nhưng hai người lại bất đồng ý kiến về Thống chế Phổ Blucher, nhân vật mà theo ông Tulliver được biết - qua một người am tường về trận Waterloo - là đã mang quân tới trợ lực Quận công Wellington một cách kịp thời và hữu hiệu; nhưng ông Deane lại cho rằng không thể tin cậy được người Phổ - cách đóng tàu buồm vụng về và rượu bia Bantzic của họ đã khiến ông Deane coi thường họ. Bị đánh bại trong lãnh vực này, ông Tulliver chuyển sang đề tài khác, ông bày tỏ mối lo ngại trước sự suy thoái của nước Anh, nhưng ông Deane thì lại quả quyết rằng nước Anh vẫn đang trên đà phát triển, ông đưa ra một số các chi tiết về tình hình nhập cảng, đặc biệt nhứt là về da thuộc và kẽm, nhằm giải tỏ nỗi bi quan của ông Tulliver vì một viễn ảnh nước Anh bị làm mồi cho bọn Giáo Hoàng Chủ nghĩa và bọn Cấp Tiến xâu xé. Ông Pullet cứ lặng thinh chăm chú lắng nghe những vấn đề cao siêu đó. Ông không hiểu chính trị và cũng không cần tìm hiểu – nhưng có một điều mà ông có thể đúc kết được xuyên qua câu chuyện của hai người cùng bàn: Quận công Wellington nào đó không thể bằng ông được.