áu giờ sáng. Sáng thứ Hai, Sebastian trèo qua người cô Frost, lần vào phòng tắm. Mình dùng xà phòng thơm của Frost rửa mặt, rửa vành tai và gáy, vốc nước lạnh lên đầu cho phấn chấn. Một thói quen tốt vào buổi sáng. Nào, lấy bàn chải chải sạch mấy cái răng hàm nào. Gã rón rén trở vào phòng tìm đến tủ của cô Frost. Từ từ kéo ngăn kéo ra. Cô Frost vẫn đang ngủ say. Mình sẽ mang ngăn kéo ra hành lang và mượn một chiếc trong đám áo này. Ôi. Ngăn kéo tuột ra rồi. Mình không đỡ kịp. Ngăn kéo rơi đánh xoảng một cái, thật đúng là tai họa. Cô Frost choàng tỉnh, kêu lên hoảng hốt. - Ai đó? - Tôi. - Ôi lạy Chúa, lạy Đức Mẹ Mary, lạy thánh Joseph. Có chuyện gì vậy? - Một va chạm nhỏ thôi mà. - Ôi. Mình nghĩ đây là cuộc trò chuyện sớm nhất vào buổi sáng mà mình từng có với cô Frost. Hai người nói trong bóng tối. - Cô Frost, phiền cô cho tôi mượn một chiếc áo, được không? Im lặng. Dangerfield đứng đó, trần truồng trong bóng tối. Gã đợi. Giọng cô Frost vang lên, không được quả quyết cho lắm. - Tất nhiên, được chứ. - Cầu Chúa ban phước cho cô. Sebastian mò mẫm dưới sàn nhà nhặt cái ngăn kéo lên, lôi nó cùng một chiếc ghế ra khỏi phòng. Vừa rồi trong phòng mà có đèn thì mình xấu hổ chết mất. Những người trần truồng không có khả năng tự vệ đâu. Mình nghĩ bóng đêm là người bạn tốt nhất của mình. Và cái chết là một trở ngại phải vượt qua trước những năm phát triển đầy đủ của ham muốn nhục dục, thói háu ăn, và sự lười biếng. Mình nằm trong hang ổ của mình với những tấm chăn che kín những ô cửa sổ chiến lược. Cô Frost tốt với mình thế. Để sẵn bữa sáng cho mình. Mình phụ thuộc vào những cái bánh oakie này đây. Nơi nghỉ ngơi cuối cùng của mình. Mình chỉ còn da bọc xương thôi. Cô ấy lo cuống cả lên. Và hối hận. Quan hệ xác thịt chẳng phải thú vị lắm sao. Mình đọc mấy câu của thánh Anquinas để an ủi cô ấy bởi vì vị thánh đó nói chuyện đó tốt cho bạn. Bọn mình đầu kề đầu trên gối và mình rót vào tai cô nàng những lời dịu dàng đại ý rằng nhờ có phân mà những cây hoa lily mới tươi tốt. Phải thành ra xấu xa hay phạm tội lỗi người ta mới thực sự hiểu thế nào là tốt. Cô Frost, tốt nghĩa là gì đối với Chúa, một đứa con sinh ra trong thanh khiết, sống thanh khiết, và chết cũng thanh khiết nốt. Lòng khoan dung ở đâu trong cái nơi nông cạn đó, trong sự vô sinh thanh khiết đó? Cô không muốn chuyện đó. Không ư. Hạ mình xuống đó đi, hạ mình đi. Cái thanh khiết vĩ đại nhất gắn với cái dơ bẩn đấy. Bọn người đạo đức chỉ là một lủ vụng trộm. Và cô ấy nhẹ nhõm phần nào. Cô ấy nằm bên mình, nói, nếu mẹ tôi mà nghe phong thanh về chuyện này thì bà ấy sẽ chết mất. Ông Dangerfield ạ, cho dù đi xưng tội ở nhà thờ dưới bến cảng, hay có giám mục tới tận bậc cửa kia, tôi cũng sẽ bị tống vào nhà tu kín thôi. Cô Frost yêu quý, nếu chúng ta có đức giám mục ở đây, thì tôi nghĩ chính tôi sẽ ra nhập giới linh mục. Gã tìm thấy một chiếc áo sơ mi màu vàng sáng. Một chiếc áo dành cho sự vui vẻ. Và cô Frost sẽ không bao giờ phát hiện ra cô ấy mất một chiếc gi-lê đâu. Mình phải được ấm áp chứ. Lạnh như tinh dịch của bọn quan hoạn dưới bến kia ấy à. Gã mặc quần áo vào và đi sang phòng khách phía đông lấy vài cái bánh bỏ vào trong túi áo mưa, hạ một cái thanh treo rèm xuống làm gậy chống rồi bước ra ngoài trời trong buổi sớm tinh mơ lờ mờ lạnh lẽo. Gã đi qua cánh cổng nhỏ, thong thả bước xuống phố, vừa đi vừa hít không khí buổi sớm. Gã chọc chọc cái thanh treo rèm vào những thanh cánh cổng gã thấy trên đường đi. Tất thảy đều ướt át và ắng lặng. Những đám mây trắng sà xuống thấp. Đâu đó trong các ngôi nhà có ánh đèn hắt ra. Một anh chàng đi đưa sữa vừa đi vừa huýt sáo. Và mình nghe thấy tiếng tàu điện gầm lên. Buổi sáng thật tuyệt. Mình đi xuống khu Custom House Quay, đường phố trải sỏi rầm rập bước chân của những con ngựa to lớn kéo xe. Mình đứng nép vào bên đường nhìn chúng chạy qua. Những chiếc tắcxi và những chiếc xe ngựa hai bánh đổ dồn về lối xuống bến tàu. Dangerfield dựa người vào bức tường của kho chứa hàng ở bên kia đường đối diện với cửa khoang hạng ba. Gã nhìn lại lần cuối những thứ gã mặc trên người, chỉnh lại chiếc kẹp cà vạt và cái cổ áo ve dài khá hợp mốt của cô Frost. Khá ổn để gặp lại O'Keefe. Hành khách bắt đầu ra. Sebastian gõ gõ cái thanh treo rèm lên tường nhà kho. Gã lấy ra một chiếc bánh oakie, đưa lên miệng nhai. Mùi mỡ ôi. Khô và dính như keo. Từ cửa tàu xuất hiện một đối tượng, nửa người, nửa thú, với cái cằm râu đỏ, và vẫn với chiếc áo sơ mi màu xanh lá cây và cái quần đã mặc hôm ra đi. vẫn chiếc ba lô đeo vắt ngang ngực, vẫn cái khuôn mặt buồn tịnh không thấy bóng dáng của nụ cười. Anh ta đứng đó vẻ ngập ngừng, nhìn một thằng bé bán báo bằng con mắt nghi ngờ và mua một tờ báo. Rồi anh ta xốc chiếc ba lô lên cao hơn, hơi rướn người về phía trước, cúi đầu xuống, và bắt đầu đi lên bến và dừng lại. Ánh mắt anh ta bắt gặp ánh mắt của Sebastian, cái anh bạn nửa người nửa ma đứng đó dựa người vào bức tường gạch, im lặng và khắc khổ, với cặp môi nhợt như môi xác chết loe ra khoe hàm răng vừa được vệ sinh bằng bàn chải. Dangerfield bước qua những bãi phân ngựa, sang đường. Gã cho tay vào túi áo rồi rút tay ra chìa về phía anh bạn O'Keefe đang đứng đợi. - Kenneth, làm một cái bánh oakie nhé? - Tớ trông đợi cái này đây. - Cái gì, Kenneth? - Bánh oakie. Một tiếng cười ám muội vỡ ra. - Kenneth, gặp lại tôi cậu không vui sao? Không muốn tôi đón chào cậu trở về cái khu vườn xanh tươi trên biển này sao? - Còn tùy. - Nào, Kenneth thân mến, vứt quách cái thận trọng chết tiệt đó đi. Nhìn này. Những cái thùng và thùng, những rầm cầu sắt và nhìn những con thú béo tốt sẵn sàng lên đĩa kia kìa. Một đất nước thịnh vượng đấy. - Còn phải xem đã. Họ đi qua những chiếc thùng lớn và dừng lại đợi một đàn gia súc sang đường. Những con mắt đầy sợ hãi và hoang dại của những con vật. Một hàng dài những chiếc xe đạp nối đuôi nhau chạy qua sát bên phần đường dành cho người đi bộ trong khi những chiếc xe tắcxi và những chiếc xe ngựa đang nối đuôi nhau từ dưới bến kéo lên. Hai con người lạnh cóng bắt đầu đi vào cái thành phố Đan Mạch cổ kính.