Dịch giả: Nguyễn Bích Lan
Chương 24

    
gười ta nói các văn sĩ và những người ăn nói lịch thiệp thường hay lui tới nơi này và họ gọi nó là một cung điện. Mình đang tránh bị người ta nhìn thấy. Trong túi mình có một tấm vé mua từ công ty trách nhiệm hữu hạn Irish Steam Packet. Người ta đảm bảo đưa cái thân xác này của mình cập bến xứ sở văn minh. Đúng tám giờ tối nay. Vé đã được ký và đóng dấu đâu vào đấy.
Sebastian uống cạn ly rượu mạch nha. Gã bước ra khỏi quán rượu và rảo bước nhanh dưới mái cổng của Ngân hàng Ai Len. Nếu cái mái cổng này mà sập xuống, thì các người, thậm chí cả lão Skully cũng không thể tìm được tôi. Gã chạy sang đường, chạy qua cổng của trường Trinity. Gã dừng lại trước bảng thông báo. Chẳng biết đâu mà lần. Có lẽ đây là một thông điệp của Chúa. Gã ngó vào phòng bảo vệ. Tất cả nhân viên bảo vệ đều ở đó, ngồi xoa xoa tay vào nhau quanh lò sưởi ấm cúng và mỉm cười. Họ sẵn sàng dành cho mình niềm hi vọng hoặc sự giúp đỡ nho nhỏ.
- Xin chào anh Dangerfield.
Các anh, tôi cho các anh nụ cười tội lỗi của tôi này và hãy ép nó lên bảng thông báo đi bởi vì chẳng bao lâu nữa tôi sẽ không cần đến nó nữa. Và xin chúc các anh một buổi sáng đầy thịt giăm bông và trứng tươi từ những cái mông của những con gà mắn đẻ cùng cà phê ngon và tiếng xèo xèo của xúc xích thơm ngậy nứt ra trong chảo rán. Chào buổi sáng, các anh khỏe không? Chào các chàng sinh viên. Theo tôi đi, các chàng sinh viên. Dứt ra khỏi sách vở và tận hưởng chút không khí này đi. Các cậu không muốn sự an toàn này chứ gì, khó tiêu hóa đấy. Các cậu muốn thứ gì đó tốt hơn thế. Tôi thích ngồi ngoài kia, dưới bóng cây. Tôi là một người thổi kèn. Bíp bíp. Các cậu ở trên đó, trên gác xép, ngồi đó trên cái mông trắng của các cậu. Đỗ lại. Này ới, đỗ lại. Bánh lái di chuyển sang bên phải một chút. Sang trái không hợp mốt đâu. Tôi nhìn thấy tất cả các cậu ở trên đó, sau các ô cửa sổ trước bình minh khi mà các cậu nghĩ rằng chẳng có ai vừa nhìn lên đó, vừa đi tiểu thành vệt lên tường. Người ta nói cái thứ đó làm cho đá rắn thêm. Người ta nói ông phụ trách đào tạo đại cương đã bị cả túi chứa đầy những cục đá được bọc trong báo Irish Standard đập vào đầu. Mà này, các cậu đừng có nghĩ rằng tôi đã quên cái lần các cậu mời tôi uống trà và bọn mình đã ngồi quây quần bên lò sưởi mùa đông ăn bánh.
Dangerfield nhảy cách quãng, sử dụng kiểu bước quay. Gã di chuyển dọc lối đi láng xi măng cạnh thư viện. Đam mê của mình mang màu tím, cờ hiệu của mình màu hồng. Trường Trinity được bao phủ bởi màn mưa nhẹ và nhìn kìa, mưa rơi trên thảm cỏ mượt. Trên những lối cửa kia có những bình sữa mà mình đã từng uống. Rất tiện cho việc giải rượu. Và dưới kia là nhà in, nơi người ta in đề thi. Mình đã nhiều lần mơ đột nhập vào bên trong nhà in đó nhòm ngó. Và đây, dọc cái hàng rào sắt với những sợi dây xích quấn từ đầu trụ này đến đầu trụ kia. Và những cái cây trong khuôn viên kia. Những cành cây như tóc hết mốt. Và những ngọn đèn bên trong lớp kính lóng lánh kia. Những cái nạo đế giày để trên những hành lang lát đá granít. Những con mòng biển liệng vòng tròn từ trên những tòa nhà xây bằng đá xuống, đứng dưới đường kêu the thé. Không thế giới bên ngoài. Không những trái tim sôi lên trong đau thương. Không những đôi mắt độc ác đầy mưu đồ đang hấp hối. Không những mũi mai hăm hở bâm vào đất tìm vàng. Chỉ có người Ai Len.
Một ông giáo sư bị một con mèo xám trong tấm áo chống rét bám theo rồi đi vượt lên trước. Gấu quần pyjama màu xanh lá cây của ông có một vệt ướt và đôi chân trắng xanh lộ ra qua đôi dép đi trong nhà. Ồng giáo sư gật đầu, gần như mỉm cười. Mình gật đầu. Mình nhìn ông ấy với đôi chân học giả bước lên các bậc và đi xuôi theo hành lang lát đá cùng với còn mèo rên rỉ đòi sữa.
Trên kia, trong những ô cửa sổ kia, mình nhìn thấy những thứ khiến mình cảm thấy mình là một người khách tham quan. Mình nhìn thấy một người đàn ông để râu đứng saư ô cửa kính ám hơi nước và dầu mỡ. Cho tôi một chút đi. Mình nghĩ mình đã gặp anh ta tại Hội Sinh viên Cơ Đốc. Một anh chàng cường tráng và sôi nổi. Ôi mình nhớ là mình đã đọc về cái hội đó trong một cuốn lịch. Người ta nói rằng Hội Sinh viên Cơ Đốc là một tổ chức tập trung các sinh viên khao khát có được niềm tin Cơ Đốc và sống cuộc sống của người Cơ Đốc giáo. Khao khát đó là điều kiện duy nhất để trở thành hội viên của hội. Tôi xin các anh, hãy cho tôi nhập hội. Mình đã gặp người đàn ông đó. Mình sao mà dễ quên nhiều chuyện thế không biết. Mình đến Hội Sinh viên Cơ Đốc với một trái tim rộng mở. Và một cái miệng. Và mình đứng trước cánh cửa số ba trong nhận thức rụt rè về sự cứu rỗi. Một anh chàng có mái tóc vàng loăn xoăn bước tới bắt tay chào đón mình thật nồng nhiệt. Chào mừng anh đến với cái hội nhỏ của chúng tôi, vào đi, để tôi giới thiệu anh với mọi người nhé. Anh học luật phải không? Tôi nhìn thấy anh ở trong trường mà. Chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ thôi. Đây là cô Feen, cô Otto, cô Fitztdare, cô Windsor và anh Hindes, Tuffy và Byrne. Giờ cho phép tôi lấy trà cho anh nhé. Loãng hay đặc nhỉ? Xin cho loãng. Trong góc phòng một ấm nước đang sôi trên bếp, tỏa hơi trong không gian chiều. Một chiếc piano. Cô Fitzdare mặc một chiếc váy yếm bằng len mỏng màu xám nhạt và cô đi qua ngay dưới cái mũi run rẩy của mình và mình ngửi thấy mùi nước hoa mùa đông. Cô ấy mời mình ăn một chiếc bánh kem và hỏi, đây có phải là lần đầu tiên anh đến chỗ chúng tôi không? Vâng, lần đầu tiên. Mình nghĩ cô ấy thật dễ thương. Trong khi cô ấy nói rằng không có nhiều sinh viên trong trường quan tâm đến hội của họ, mình ghé sát tai cô ấy nói thật êm ái rằng đây đúng là một hội thân thiện. Chúng tôi cố gắng để được như vậy. Ô tôi nghĩ các bạn đã thành công một cách đáng khâm phục đấy. Tôi đặc biệt mong được tham gia các buổi gặp gỡ để cầu nguyện. Mình tiết lộ thanh danh của mình và cô ấy nói cô ấy rất vui và hỏi mình có muốn hát không. Hát vì mình, tất nhiên. Làm ơn nói nữa đi, cô Miss Fitzdare. Chúng tôi ở đây có một số giọng ca rất khá. Và cô cũng có giọng ca rất khá đúng không, cô Fitzdare? Hát với tôi nhé. Một dịp nào đó. Có lẽ thế. Cô ấy lại đi qua ngay dưới mũi mình. Đêm đó mình ra về trong cái lạnh của Dublin và những ánh đèn cuối cùng. Mình đi xuống phố Dame với niềm hi vọng khấp khởi và trái tim xúc động. Trong cái nhóm nhỏ đó mình sẽ cất cao giọng hát. Không đồng thuận với nhau trong mọi khía cạnh nhưng chí ít ở đó mình cũng được sưởi ấm bởi những gương mặt tỏ lộ lòng tốt, được sưởi ấm bởi những đôi mắt sáng của họ. Mình yêu quý họ thật nhiều.
Gã bước đi giữa hai tòa nhà nằm phía sau nhà hát Queen. Gã cảm thấy mọi chỗ đều đóng cửa nghỉ đông cả. Cái nơi khuất nẻo không bao giờ được chú ý tới này. Một đêm mình đã trèo lên bờ cỏ gần sân chơi kia ngồi gục mặt giữa hai đầu gối mà khóc. Và những chiều thứ Bảy mình đến đây xem người ta làm bể đầu nhau để tranh một trái bóng. Chỉ có vài người mang khăn quàng và mặc áo khoác cổ dựng đứng ngồi dọc mép sân. Phía sau kia là những tòa nhà dành cho công việc nghiên cứu khoa học nơi người ta cho các chất tiếp xúc với nhau tạo ra những tiếng nổ. Và kia, khu dành cho bộ môn thực vật học và những bông hoa đẹp. Chắc hẳn rất thú vị khi người ta chỉ việc trồng cây để lấy bằng. Còn kia là phòng thi. Trong cái phòng ấy người ta xin cấp phép để được sống. Tốt hơn hầu hết những chỗ khác. Kia nữa, tòa nhà của khoa vật lí nơi mình từng bỏ ra một siling để vào hội Gramophone. Lạnh lẽo nhưng thú vị. Và bên kia sân tennis là tòa nhà của khoa động vật học. Ở đó có một bộ sưu tập rất ấn tượng các loài ăn sâu bọ và có một con voi đứng giữa một căn phòng. Mình từng bước lên các bậc kia và nhấn nút chuông dành cho khách và người ở bên trong đi ra mời mình vào tham quan. Và sau các bài giảng ở khoa luật mình đến cái bảo tàng nhỏ này ngắm những con dơi. Các cậu có thể nói rằng tôi quan tâm đến nhiều thứ lặt vặt thú vị gớm. Những con thú nhồi là lĩnh vực am hiểu của tôi đấy. Và kia dãy nhà rạp cạnh sân thể thao. Tại đây tôi đã chơi một trận tennis kì cục với Jim Walsh. Các cậu không biết được đâu. Và kia bể tắm lạnh buốt. Nhảy xuống nước trong tiếng rú. Tôi bằng lòng đứng dưới vòi nước nóng cho tới khi tôi phát bỏng.
Sebastian đi qua cái cổng sau xây cuốn hình vòng cung của trường Trinity. Gã sang đường giữa dòng xe kéo và xe hơi nhộn nhạo ở phố Fenian. Gã bước đi cúi đầu, thỉnh thoảng lại nhìn lên để xác định đường đi phía trước. Gã lên phố Merrion và mặt trời ló ra chiếu ánh nắng lấp lánh xuống những tòa nhà chính phủ. Những người thư kí lắc mông rẽ vào những lối cửa. Môi họ đỏ tươi. Những tấm áo khoác đỏ ôm lấy những tấm lưng rộng của họ. Những người đàn ông mặc áo khoác đen đi qua để lộ những chiếc mũi đỏ và những bàn tay đỏ. Những cô gái có mắt cá chân tai tái. Mình tiếp tục đi. Đi nhanh hơn. Đi dọc phố Lower Baggot. Rẽ nhanh về bên phải, ngoặt sang Pembroke và đi qua Square nơi có những cánh cửa Georgia đẹp mắt. Mình đi qua Fitzwilliam Place vừa đi vừa đưa tay sờ những thanh sắt hàng rào. Mình đi cho tới khi mình mở một cánh cổng hẹp và bước xuống những bậc dốc. Mình gõ cửa. Không ai trả lời. Mình gõ kiểu S.O.S lên cửa sổ. Gõ kiểu này nhất định ông ta sẽ ra. Mình chắc Tony là một người giàu kinh nghiệm đi biển. Đèn bật sáng. Cánh cửa mở và Tony Malarkey thò đầu ra.
- Lạy Chúa, Sebastian, tôi phải biết chắc là ai mới dám mở cửa.
- Tốt thôi. Chào Tony.
- Nhiều tuần rồi người ta gọi cửa tôi không trả lời.
- Ông không cho trọ nữa sao?
- Tôi mệt. Cậu khỏe không? Vào đi để tôi chốt cửa.
Sebastian đứng đợi phía sau Tony, quan sát ông ta đóng cửa, hạ một tấm ván cứng xuống chèn cửa, chêm thêm mấy cái nêm cho chắc.
- Eeeee cừ đấy, Tony. Cừ đấy.
- Ôi Chúa ơi, việc này làm tôi tốn bao sức lực. Bọn họ cứ gõ lốp cốp, cứ cố phá cửa. Tôi phải vất vả cả đêm mới phòng thủ được như thế này để ban ngày họ không làm gì được. Họ đến cùng hai cảnh sát, hai tên cớm thộn, và họ không thể làm cho cánh cửa nhúc nhích. Họ đành đứng ở bên ngoài lẩm bẩm đọc giấy tờ gì đó còn tôi thì đứng ngay sau cánh cửa này sẵn sàng cho cái đầu đầu tiên thò vào về chầu trời. Chỉ khổ cho bọn trẻ, tôi không thể để chúng ra ngoài.
- Này, Tony, chuyện gì đã xảy ra vậy?
- Tôi đã chuyển mọi thứ đi rồi. Tôi gửi Terry và bọn trẻ về nông thôn rồi. Tôi ở trong cái hầm này cố thủ ở đây đợi họ bỏ cuộc. Tốt đấy chứ.
Sebastian ngồi trên bệ cửa sổ. Tony đứng dựa người vào bếp lò, khoanh tay trước ngực, vắt chéo đôi chân đi giày da sống, cười xếch cả miệng. Trong căn phòng trống này chỉ có duy nhất một chiếc xoong treo phía trên bếp và giọng nói của họ dội lại qua những bức tường dày ẩm ướt. Họ nhìn nhau. Dangerfield cúi gập người. Cười the thé. Tony ngửa đầu ra sau, cười thành tiếng. Những cánh cửa sổ rung lên.
- Tony, ông sẽ nói chuyện này sẽ không kết thúc chứ? Ông sẽ nói thế chứ?
- Lạy Chúa, tôi sẽ nói như vậy và tôi thậm chí tôi không có lấy một viên đạn dự trữ cho khẩu súng của tôi.
- Ông sẽ nói ông đã sẵn sàng cho giấc ngủ ở “Nevin” (1) chứ? Đây thân thể của Tony người chỉ thốt ra mỗi một tiếng rên. Ông sẽ nói thế chứ?
- Sebastian, chúng tôi tiêu rồi. Cái tháng cuối cùng này thực sự là quãng thời gian tồi tệ nhất. Khi mọi chuyện trở nên tồi tệ cậu tự bảo mình rằng mọi chuyện không thể tồi tệ hơn được nữa. Thế rồi mọi chuyện cứ tồi tệ hơn. Và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi cậu kiệt sức đến nỗi cậu thậm chí không thể lo lắng được nữa. Tình hình là như vậy đó. Tệ đến nỗi cậu phải vui lên hoặc là chết. Clocklan đúng, gã điếm đó đúng. Giờ gã ở trên kia bán rẻ hào quang của Chúa.
- Kenneth đã nói cho tôi biết rồi.
- Đó là cách kết thúc đấy. Nốc một chai Jameson rồi nhảy khỏi tàu. Từ bấy đến nay tôi cứ tìm đọc báo để xem liệu họ có đăng tín gã điếm đó bị sóng đánh giạt vào đâu đó không. Chưa biết chừng mùa hè tới xác gã lại giạt vào một bãi tắm nào đó làm cho bọn trẻ con ở đó sợ hết hồn.
- Ông có thực sự nghĩ anh ta đã nhảy khỏi tàu không, Tony?
- Tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Từ đó có ai biết được tin tức gì của gã đâu. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu gã nhảy xuống đâu đó như Cardiff chẳng hạn cho đáng vài bảng gã bỏ ra mua vé tàu. O’Keefe cuối cùng cũng đã đi. Đúng là một điều hổ thẹn.
- Cậu ta đang lênh đênh trên biển.
- Tiếc thật.
- Này, Tony, ông định sẽ làm gì?
- Tôi không có ý nghĩ của một gã điếm đâu.
- Ông ngủ ở đâu?
- Lại đây tôi chỉ cho mà xem. Cậu sẽ bật cười cho mà xem.
Sebastian đi theo ông ta dọc hành lang dài, giọng nói của họ dội lại từ những phòng nằm sâu dưới lòng đất. Sebastian dừng lại trước một cánh cửa. Malarkey đi đến sát bức tường bật diêm thắp một ngọn đèn măng xông.
- Lạy Chúa. Tony, thật đúng là không thể tưởng tượng nổi.
- Tôi biết cậu sẽ bật cười mà.
Họ ở trong căn phòng dài màu hồng. Ở hai đầu phòng có những thanh sắt kiểu thanh đóng đường ray được đóng vào tường buộc những sợi dây thừng to treo một chiếc võng lớn có lót một tấm áo choàng đen.
- Tony, cầu thánh Oliver che chở cho tất cả chúng ta.
Tony thực hiện một cú nhảy điệu nghệ lên giữa võng. Ông ta chìa tay ra.
- Đưa cho tôi sợi dây thừng kia nào, Sebastian.
Malarkey miệng cười rộng hoác giật lấy cái dây thừng đu người về phía bức tường, thả dây ra cho nó trượt qua những ngón tay. Chiếc võng khẽ đung đưa. Từ ngoài cửa Dangerfield kêu ré lên.
- Tony, nếu đây không phải là Catacombs, nếu không phải tôi đang ở sâu dưới này với một người đàn ông trung thực như ông, không tận mắt thấy cảnh này thì tôi sẽ không tin đâu.
- Tôi sẽ nói cho cậu biết một điều. Sebastian ạ, nếu không nhờ cái này thì tôi đã chìm vào quên lãng rồi. Nó cứu tôi đấy. Tôi không có nơi nào để mà ngủ, chỉ có cái áo khoác này và cái võng cũ này thôi. Dưới sàn kia lũ chuột vùng ngoại ô này không để cho tôi có nổi một đêm yên giấc. Vì thế với cái áo khoác mà một người Mỹ giàu có đã cho tôi và với sợi dây thừng tôi tim thấy trong lúc tìm thứ gì đó đem đi cầm đồ, tôi có thể cầm cự qua ngày được.
Tony nhấc chiếc áo khoác lên.
- Tôi bện cái võng này tịằng những sợi dây và những mảnh giẻ rách. Tốt đấy.
- Tony, ông cừ đến nỗi chẳng gì thành vấn đề đối với ông hết.
- Không đến mức ấy đâu, Sebastian. Nói cho tôi biết đi, có tin gì mới không?
- Tôi sắp đi Luân Đôn.
- Cậu không đùa chứ?
- Tối nay tôi sẽ lên tàu chở thư.
- Có chuyện gì vậy?
- Chuyện phức tạp lắm.
- Công bằng đấy.
- Tony, tất cả chúng ta đều thất bại cả.
- Hơn một năm nay người ta tìm đủ cách hòng trục xuất tôi khỏi nơi này mà họ đã làm được đâu. Không làm được trừ khi tôi chết. Họ muốn xoáy lấy cái nhà trọ này. Nhưng tôi nói cho cậu biết, Sebastian ạ, chừng nào cái đất Ai Len này còn một củ khoai tây thì chừng đó tôi chưa chịu thất bại. Trước khi tôi tiêu, vô khối cái mặt sẽ bị ăn đập.
- Tony, cho bọn họ biết tưởng bố mày khôn hơn ông á.
- Vấn đề là bọn trẻ. Tôi không biết tôi sẽ phải làm gì. Bọn trẻ cần một nơi để sống. Tôi phải tìm chỗ cho chúng. Chỉ cần kiếm được vài bảng thôi. Vài bảng thôi là tôi có thể mua một trang trại nhỏ ở Wicklow.
- Làm găng-tơ đi.
- Sebastian, tôi không thể.
- Tony, ông phó mặc mình cho lòng tự trọng nó định đoạt.
- Cho những điều vớ vẩn thì có.
- Tony, tôi nghĩ làm một panh bia chúng ta sẽ thấy dễ chịu hơn đấy.
- Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên cậu đúng kể từ lần cuối cùng cậu nói câu đó.
- Đợi tôi đi vệ sinh đã.
- Cậu không thể.
- Gì cơ, Tony?
- Chúa ơi, tôi lột cái thứ chết tiệt ấy mang ra khu bến cảng bán lấy ba mươi siting rồi.
- Khốn thật.
- Bán cả một ít chì tốt, được tám bảng sáu đấy.
- Chúng ta sẽ được thấy kết thúc chứ.
- Tôi thấy tệ quá.
- Này, Tony, nói cho tôi biết đi. Tôi thực sự quan tâm đấy. Làm thế nào ông mang được một thứ như thế tới tận khu đó chứ?
- Tôi lấy xe nôi chở nó đi. Buộc dây vào. Phủ gối và chăn lên.
- Tôi nghĩ chúng ta có thể nói xe nôi đâu phải chỉ để dùng để đẩy trẻ con.
- Terry đã nổi cơn tam bành đấy.
- Bà ấy thế nào?
- Khỏe.
- Còn bọn trẻ?
- Bọn chúng không biết gì hết. Tuyệt lắm. Những đứa trẻ xinh xắn. Chúng chỉ thiếu tình yêu và thức ăn thôi.
- Này, Tony, vẫn còn một củ khoai tây đấy chứ?
- Cậu nói đúng.
- Làm một panh bia đi. Đến lúc nên uống rồi đấy.
Họ dừng ở cửa trước. Tony tỉ mẩn thực hiện các động tác cũng cố phòng thủ.
- Sebastian, giờ cậu hãy xem nhé.
Tony chỉnh tấm ván làm cho nó ép thẳng đứng vào cạnh cửa. Sebastian bước ra ngoài, chăm chú quan sát Tony. Tony đóng cửa lại. Bên trong vọng ra tiếng tấm ván trượt trở lại chỗ cũ.
- Lạy thánh B.O.P.
- Cừ đấy chứ?
- Tôi sẽ không thích anh làm đối thủ của tôi đâu, Tony ạ. Làm thế nào anh vào được bên trong?
- Nhìn đây.
Tony mở cánh cửa hầm để than. Vừa cười ông ta vừa sờ tay lên tường. Ông ta đã nắm được một sợi dây thừng.
- Cái này được luồn qua tường và cậu chỉ cần giật nó là tấm ván chẹn cửa được nhấc lên và việc dễ như bỡn. Tôi đã phải mầy mò mãi đấy.
- Tony này, có người nói với tôi rằng ông có thể cho điện áp sáu mươi nghìn vôn chạy từ tai này sang tai kia trong khi hát bài Phương tây thức tỉnh mà không hề hấn gì.
- Của nợ nào nói với cậu thế hả? Tôi không muốn người ta đồn thổi về tôi như thế đâu đấy.
- Eeeee, chúng ta sẽ chiến thắng. Chiến thắng chiến thắng chiến thắng. Ông có nghe tôi nói không hả? Chiến thắng.
Họ đi xuống phố Lower Baggot. Bước vào một quán rượu ở góc phố. Malarkey quàng một chiếc khăn màu mận chín điểm những kẻ sọc nhỏ màu vàng sáng và xanh lá cây che đi một phần bộ đồ đã từng trải qua những ngày tốt đẹp của một người Mỹ giàu có. Dangerfield mặc chiếc áo mưa của phụ nữ được cài bằng chiếc ghim băng to tướng.
- Sebastian này, một người đáng tin cậy cho tôi biết rằng cậu tằng tịu với người ở trọ nhà cậu.
- Tôi xin ông, Tony.
- Đồ chơi gái láu cá nhà cậu.
- Cô Frost sẽ gia nhập dòng tu Carmelites.
- Ý cậu nói là đồ thải rồi chứ gì.
- Tony, tôi đảm bảo với ông, giữa chúng tôi không xảy ra chuyện ăn nằm, thèm khát tình dục hay gì khác. Trái lại, cô Frost và tôi thường đọc Kinh Tạ ơn cùng nhau. Bọn tôi xức nước thánh lên má. Lên mặt. Ông có biết cô ấy có chất giọng rất hay không. Hơi giống giọng nam trung nhưng rất tình cảm. Đúng, rất tinh cảm. Cô ấy cầu kinh rất thành tâm. cầu bằng tình cảm từ tận đáy lòng.
- Tôi sẽ bỏ rượu nếu không phải cậu dính với cô ta cả ngày lẫn đêm và hầu hết đêm nào cũng làm chuyện đó.
- Eeeeeee.
Gã nhặt mấy đồng xu từ mặt quầy bar và họ đi đến một quán rượu khác ở phố Baggot. Sebastian nói rằng gã cảm thấy hơi lạnh và đó là lí do để gã làm vài ly Brandy đúp.
- Sebastian này, cậu có biết khi tôi có tiền trong tay tôi phải mua ngay một trang trại không. Đó là cách duy nhất để sống. Đó là cách hái ra tiền.
- Tony này, tôi nghĩ chúng ta đặt quá nhiều niềm tin vào trang trại. Cứ mua một trang trại đi và rồi tờ mờ mở mắt ra đã phải dậy cho lợn cho bò ăn và bị húc vào mông.
- Cậu nói đúng.
- Tôi rất tiếc phải đi, Tony ạ.
- Không sao đâu mà.
- Tôi cảm thấy hơi buồn. Một chiếc tàu an táng. Nhưng tôi cần sự thay đổi. Tôi sẽ ở trên biển, sẽ đi xa. Màu xanh tươi của cây cỏ sẽ biến mất. Lạ nhỉ, Tony, làm sao ông, hậu duệ của vị vua đầu tiên, hiểu nhiều về tổ quốc ông thế mà không có đất cũng chẳng có khoai tây.
- Nếu không phải vì dòng máu hoàng tộc truyền đời của mình thì tôi đã đến bệnh viện bán máu từ lâu rồi.
- Nhưng đừng bao giờ pha trộn nó, Tony ạ. Đừng bao giờ làm điều đó. Thời vận của chúng ta rồi sẽ tới. Cứ cố để khỏi chết đói và gắng vượt qua một số chuyện khác nữa rồi thì thế nào thời vận của chúng ta cũng sẽ tới.
Đã hai giờ ba mươi và các quán rượu đã đóng những cánh cổng sắt lại để ngăn những kẻ khát rượu. Họ đi tới khu Green Cinema và ngồi tại một cái bàn màu trắng ngốn cả đĩa giăm bông, trứng và khoai tây chiên. Khi họ bước ra khỏi đó, dòng xe cộ trên đường ngừng chuyển động. Những cái đầu thò ra khỏi xe hơi và tiếng còi thét lên inh ỏi. Một người đàn ông to lớn nằm chềnh ềnh giữa đường ngủ khì. Có người nói ông ta say quá. Những người khác nói ông ta đang lắng nghe xem có thể nghe thấy nhịp đập của thành phố hay không. Sebastian vừa nhảy vừa kêu ăng ẳng. Mấy thằng bé bán báo đứng trong đám đông hỏi gã đang làm gì vậy. Gã đáp, ta nhảy điệu nhảy chó, con trai ạ.
Họ đi xuống phố Grafton ngày thứ Sáu đông đúc và đi qua những người đang đợi để vào rạp chiếu bóng. Những đám mây dày phủ kín bầu trời thành phố. Tối và tối. Ánh sáng từ những ngọn đèn của Grafton Cinema Cafe tỏa ra lấp lánh. Thiên đường của mình. Những chiếc xe đạp đổ về điểm tắc đường có vẻ như đang lan ra khắp thành phố. Trong các quán rượu rặt những gã đàn ông trông lôi thôi lếch thếch quệt mũi bằng ống tay áo và bằng những ngón tay phát cước. Những người đứng quầy phục vụ khách đến là vất vả. Phục vụ những giọng nói phảng phất sự hiên ngang của ngày phát lương, và phục vụ những cái miệng câm bặt vào ngày thứ Hai. Và giờ bọn mình đi xuống phố Wicklow bởi vì ở phố này có một quán rượu mình luôn thấy rất đặc biệt. Nó nổi trội về đồ ăn và những thùng rượu. Khi mình đến đó có người đối với mình tử tế lắm, thậm chí còn mời mình đi xem kịch nữa. Mình đã không nói dối một cách thẳng thừng, mình nói không. Khi mình dối trá mình nói gì nhỉ? Để mình nói cho mà biết. Mình nói tên mình là Gooseky và mình đến từ Westsky every Leapsky.
Dangerfield đưa tay ra đón hai panh bia Guinness trào bọt. Họ rút vào một góc quán. Họ đặt những panh bia lên một cái kệ. Tony lấy ra một chiếc hộp đựng những mẩu thuốc lá.
- Lạy Chúa. Tony.
- Tôi cời những mẩu thuốc này từ lò sưởi của một người Mỹ ở Trinity đấy. Chưa hút hết họ đã ném đi.
- Vứt chúng đi đi. Vứt đi, Tony, cho phép tôi một phút hào phóng đãi ông hai mươi điếu!
Họ chụm đầu vào nhau hút thuốc và uống bia. Đã đến lúc thành phố Dublin rộn lên tiếng ly cốc leng keng. Buổi sáng tuyệt vọng và kết quả đau đớn tiêu cực của buổi chiều được thể hiện trong hình thái vui mừng. Những bí mật rò rỉ ra khắp nơi khi vui mừng sau đó tan biến. Mình nhìn khuôn mặt của Tony, chính là Ai Len.
- Tony, ông sẽ làm gì nếu ông có tiền. Có nhiều tiền.
- Cậu muốn tôi nói thật chứ?
- Tôi muốn ông nói thật.
- Trước tiên, tôi sẽ đi may một bộ vét. Sau đó tôi sẽ tới quán Seven Ts đặt tờ một trăm bảng lên quầy bar. Uống đã đời luôn.
Tôi sẽ gửi một trăm bảng cho O’Keefe và bảo cậu ấy quay lại đây.
Có thể, nếu tôi uống đủ say, tôi sẽ đặt một tấm biển trên lề đường ở góc phố Harry và Grafton. Percy Clocklan, người bảo vệ nhà trọ đã đánh rắm ở chính chỗ này, R.I.E Sebastian ạ, sau đó tôi sẽ bắt đầu đi từ College Green, tôi sẽ bước từng thốn từ đó đến tận Kerry, vào mọi quán rượu uống cho thật say. Sẽ phải mất cả năm trời đấy. Sau đó tôi sẽ đến bán đảo Dingle, lên tận cùng mũi Slea, mệt lử, ướt át và không một xu dính túi. Tôi sẽ ngồi đó khóc, nhỏ lệ xuống biển.
- Tony, cầm lấy này.
Dangerfield đặt tờ bạc một bảng gấp nhỏ vào tay Malarkey.
- Chúa ơi, cảm ơn Sebastian.
- Tạm biệt, Tony.
- Chúc may mắn.
Họ bắt tay nhau. Sebastian uống cạn ly của gã. Chỉnh lại áo khoác, gã bước ra đường. Gã đứng ở góc đường. Gã ngước mắt nhìn lên bầu trời tối đen, hoang vắng. Gã cài ghim băng để áo mưa ôm khít cổ. Gã đút tay vào túi áo ẩm ướt. Mình cố làm cho người nóng lên bằng cách cọ xát những đồng xu trong túi. Mình có hộ chiếu rồi. Hai giờ nữa mình sẽ đi. Mình nhìn thấy những ả điếm bước đi dọc phố này. Ở đằng kia người ta bán đồ ăn. Và kia cái cửa hàng to rộng của người bán đồ sắt. Mình nghĩ đến những cái chậu rửa ở đó, nghĩ đến hàng dặm ống nước bằng đồng, những chiếc bồn tắm và máy xén cỏ. Mình thích nơi này. Mình muốn chết ở chốn thôn quê nơi có nghĩa trang không xa lắm. Thôn quê là nơi dành cho mình. Chuyến xe cuối cùng ở chốn thôn quê. Một chiếc quan tài loại tốt không có móc quai. Tất cả những gì mình đòi hỏi là đừng có đóng đinh quan tài quá chặt.
Sebastian bước vào cửa phụ của quán Bleeding Horse. Gã uống cạn một ly Powers Gold Label. Một người đàn ông ăn mặc kiểu Anh nói tiếng Pháp đi tới. Mình nói với ông ta rằng mật của mình màu xanh. Ông ta nói, anh nói tiếng Pháp hả. Anh chàng Ai Len đáng yêu.
Mình bước ra khỏi quán đó. Bước ra phố. Bước xuống các bậc. Ngó vào cửa sổ này. Gõ cửa. Và mình nghe thấy tiếng dép của cô nàng. Sự ngập ngừng day dứt. Trong căn phòng đó có thân thể đàn bà mà mình từng ôm ấp. Mình liếm, cấu, thúc, cù nó. Ồ phải, cặp vú của cô nàng. Và một khi mình đã sờ vào một cặp mông như mông của cô nàng, mình sẽ không quên nhanh đâu. Ta yêu cầu mi, trái tim ta, đừng có đập như búa nện thế. Đầu cô nàng ló ra cửa rồi kìa.
- Anh đây.
- Anh vào được không? Cho anh vào đi. Anh biết anh là một thằng đáng ghét. Anh là đồ súc sinh. Đúng vậy. Anh biết. Nhưng.
- Anh sặc mùi rượu.
- Chris, anh xin thề, như bất cứ giáo đồ thiên chúa La Mã nào.
- Vào đi. Ngồi xuống đi. Anh không cần phải đứng thế đấu. Ngồi xuống đi. Em không muốn bị lợi dụng. Giống như giày anh xỏ vào chân ấy. Tại sao giờ anh mới tới tìm em?
- Một giờ nữa anh sẽ lên tàu đi Luân Đôn. Vui lên em.
- Em không vui lên đâu. Em sẽ không vui lên vì cái hạng người có tâm hồn bằng da thuộc như anh.
- Ôi chao. Khoan đã. Giờ anh không muốn em như vậy đâu. Làm ơn đừng. Tầm hồn anh không phải bằng da thuộc đâu. Có lẽ bằng thạch cao hay ngọc bích đấy.
- Tại sao từ bấy tới giờ anh không thèm liên lạc với em? Chuyện của anh rối rắm lắm và có những hiểu lầm chứ gì.
- Đúng. Làm ơn đừng như vậy nữa. Đi uống với anh một ly đi.
- Không.
- Đi nào.
- Anh nghĩ em là gì chứ? Ngày lại ngày em ở đây. Cô đơn. Hi vọng anh sẽ đến. Vậy mà anh lặn mất tăm. Anh có biết em phải chịu đựng như thế nào không? Anh biết gì về cảm giác của một người đàn bà? Anh chẳng biết cái quái gì về cuộc sống hết.
- Anh biết chứ. Anh cũng sống mà.
Cô nàng quay đi, vuốt vuốt một chiếc quần xilíp. Miết bàn là lên đường viền đăng ten. Gấp nó lại và đặt nó lên xấp quần áo được gấp gọn gàng. Sebastian ngồi xuống, mặt thể hiện vẻ chăm chú lắng nghe. Gã ngồi đó chống khuỷu tay trên đầu gối. Hai chân giạng ra cho thoải mái trong dáng điệu có phần chán nản trong khi tì tay chống cằm.
- Anh không thể viết được vài dòng sao?
- Anh cũng muốn viết lắm chứ.
- Và giờ anh đến đây nói với em rằng anh sắp đi. Chỉ thế thôi chứ gì. Anh chưa từng phải chịu đựng sao? Chưa bao giờ đau khổ sao?
- Anh đã phạm phải những sai lầm. Anh không biết lúc nào người ta sẽ tóm cổ anh. Anh không phải là hạng người nhẫn tâm. Nếu anh dễ thở một chút anh sẽ đền bù cho em tất cả. Anh không quên những lúc người khác đối tốt với anh đâu. Nhưng khi anh bị khốn đốn, bị truy lùng và bị đánh đập, anh phải làm những gì tốt nhất có thể. Anh sẽ bắt đầu lại từ đầu ở Luân Đôn. Anh chỉ có một chút tiền để mua vé tàu thôi. Anh không phải là một kẻ xấu đâu.
- Đừng có ngốc thế.
- Ai Len với anh thế là quá đủ rồi. Anh đã bị quấy rầy và bị xỉ nhục. Em có thể đến Luân Đôn.
- Hãy viết cho em kể về nơi đó nhé.
- Em sẽ đến chứ? Vì Chúa, hãy đến đó đi.
- Hãy viết cho em. Cái áo khoác này trông buồn cười quá.
- Chiếc áo choàng màu nhiệm của anh đấy. Hôn anh một cái nào.
Họ hôn nhau trong gian tầng hầm cô quạnh. Tiếng bước chân vang lên ngoài hành lang. Gã nắm bàn tay mềm mịn của cô nàng. Mình đã làm lành rồi. Đi thôi. Nhìn nhau lần cuối nào. Tạm biệt.
Một luồng gió thổi tớỉ và mưa quất vào lưng mình. Mình sang đường để bước lên chiếc xe buýt sáng đèn ấm áp kia và ngồi lắc lư trong xe. Mình nhìn Chris đóng cửa. Tiếng chuông của người lái xe buýt và không khí nóng ẩm ướt. Mình đưa tay lau hơi nước trên cửa sổ xe bởi ngoài kia có những cửa hàng bán đồ chơi, sườn cừu và có những ô cửa ám màu bí mật của những quán rượu.
Mình ở trên bến cảng giữa những người tay xách nách mang, hối hả đi xuống những bậc đá, đi qua những dãy đèn soi lối dẫn ra những con tàu neo đậu. Những con mòng biển rung rung những đôi cánh trắng trong bóng tối. Dưới ngọn đèn kia, các hành khách thốt lên những lời từ biệt giữa những chiếc tắcxi và những thằng nhóc bán báo. Mình mua tờ Bưu điện buổi chiều cuối cùng trên đất này. Mình đi về phía đông. Đến một nơi văn minh hơn.
- Hành lí, thưa ông?
- Không có.
- Ông có gì cần kê khai không?
- Không.
Mình bước đi giữa lan can tàu hẹp và dốc. Dưới ánh đèn vàng lạnh lẽo của con tàu. Dọc boong tàu là những ô cửa sổ che chắn gió biển. Gần tám giờ rồi. Mình sắp đi rồi. Mình đi vòng ra phía mạn tàu hướng ra sông Liffey. Dưới đó những con nước đua miệt mài chảy tói từ mạn Blessington. Một người đàn ông kéo sợi dây cáp sang phía kia của con tàu. Mình muốn thấy sự điều khiển tàu lão luyện của những người đi biển, muốn thấy các thủy thủ làm việc. Giỏi đấy. Với những cái cọc chèo kia họ tạo ra nhiều tiếng động thế. Đằng kia, chếch về phía nam, là trường Trinity, khách sạn Balls-bridge, khu Donnybrook, khu Milltown, cảng Windy và xa hơn nữa. Mình biết tất cả những chỗ ấy. Gió lạnh chết người luồn qua giữa hai đầu gối mình. Những đỉnh núi hình chóp tuyền một màu đen kia. Mình ở trong thảm ánh sáng. Tất cả những nỗi tuyệt vọng buồn thảm nhỏ mọn của mình. Mình như thể đang nhìn ra ngoài từ ngọn tháp của riêng mình. Tập hợp những con tàu của mình trên bờ biển. Gọi chúng đến từ cái nơi chúng đang hấp hối. Mình không muốn đi. Nhưng nếu mình không đi thì sao? Mình không có nơi nào gọi là nhà của mình nữa rồi. Mình có thể nói gì đây? Nói xem. Mình có thể nói gì đây? Có rất nhiều thứ mình muốn giữ mãi mãi. Những hạt nước rơi xuống từ những chiếc lá nguyệt quế bóng dầu hay những tiếng bước chân của mình trong không gian tĩnh lặng của buổi sáng hay lúc đêm khuya. Hay những lúc mình nằm trên đất Ai Len nhìn lên trời. Có một ngày hè mình đi lên núi và đứng ở Kilmurry. Mình đi từ cuối cánh đồng xanh thoai thoải đến tận bãi Moulditch Bank, cái riềm màu xanh pha trắng rung rinh của biển. Vào cái ngày này có một chuyến tàu hỏa từ Wicklow đến Dublin. Bò ngang qua tay mình. Trải mình trên mũi đất tận cùng toàn là đồng cỏ này. Mặt trời chiếu vào trong xe. Mang trái tim mình đi xa. Họ huýt còi làm mình giật mình. Tiếng còi đó vọng lại từ những ngôi nhà đổ nát dọc bến John Rogerson. Mình nghe thấy tiếng kéo dây xích. Lách cách và gầm gừ. Bọt trắng xòe theo hình quạt trên mặt nước. Irôi êm nhẹ ra giữa dòng. Gần đó có những chiếc tàu khác và đảo Ringsend. Có ánh lửa và cảnh gia đình quây quần phía trong những ô cửa sổ kia không? Con tàu này trôi đi giữa những ngọn hải đăng của đảo Bailey và đảo Muglins. Một ngưòỉ đàn ông đạp xe trên đường Pigeon House. Howth và Dalkey. Mình cảm thấy biển ở phía dưới mình.
Mình lên tàu đi
Trong cái ngày thứ Sáu bị đóng đinh câu rút này
Trong cảnh trời giông gió
Và biển sóng xô dữ dội
Và tim mình
Quằn quại
Hấp hối.
Chú thích:
(1) Nevin viết tắt của "Glasnevin" tên một nghĩa địa nổi tiếng. Trong tiếng lóng của dân Dublin từ này ám chỉ cái chết.
v