Dịch giả: Nguyễn Bích Lan
Chương 21

    
hứ Tư. Buổi sáng Dangerfield nhặt những tờ hóa đơn nằm rải rác trên sàn hành lang cùng một tấm bưu thiếp có cảnh hồ Killarney in lồng một bài thơ.
Trái tìm tôi khao khát
Được thấy cảnh quen thuộc
Của hồ xanh thân yêu
Trên mảnh đất xa xôi tràn ngập màu xanh.
Gã lật mặt sau của tấm bưu thiếp.
Tớ tiêu rồi. Gặp tớ ở quán Jury, thứ Tư, lúc bảy giờ.
Công tước của Serutan(đã về vườn)
Dangerfield ngồi trên chiếc xe điện kêu inh tai chạy tới Dublin. Đến cuối đường Dawson gã vội vã xuống xe. Gã bước nhanh, giữ cho mặt lệch về bên trái hướng vào các cửa hiệu, tránh những cặp mắt. Đấy hiệu Brown và Nolans, mình thấy họ có những cuốn sách đẹp thế, chẳng cần đọc cũng biết là hấp dẫn. Nên như vậy, tiết kiệm thời gian. Mình từng nhận được giấy từ cái công ty này. Lịch sự ra phết. Không giống những nơi khác. Họ viết, thưa ngài có lẽ ngài quên mất khoản nợ mọn đó hay là để chúng tôi gửi hóa đơn thanh toán cho ngài theo năm nhé. Phải đấy, mình bảo họ hãy thanh toán theo năm. Thời gian trôi vùn vụt ấy mà.
Có mùi gì thật dễ chịu tỏa ra từ nhà hàng này. Ngó một tí xem, những người giàu hạnh phúc Ida. Vài người đang đi ra. Họ chui vào chiếc xe đẹp đẽ đó. Sự thanh lịch này tốt cho tim mình đây. Nhờ chịu khó rèn độ khéo léo cho đôi chân, trong khi bước vào quán rượu này mình vẫn có thể quay đầu nhìn lại phía sau. Một cô nàng dễ thương mang cho mình một ly rượu mạch nha bởi mình không thể đối mặt với cuộc chiến ở phía trước mà không có thứ gì đó làm dịu cái cảm giác thất vọng không lúc nào chịu yên của mình.
Gã đi sang khu College Green. Liếc nhìn chiếc đồng hồ của trường Trinity. Bảy giờ năm phút. Một thằng bé bán báo đứng chắn đường mình. Xin ông cho chúng tôi một xu. Tim ta đây này, con trai. Mẹ nhóc cũng là người Ai Len phải không? Này con trai, bán cho ta một tờ Bưu điện buổi chiều nào. Và đây, nửa xu cho chú mày. Cầu chúc cho ông không bao giờ phải trải qua một ngày khốn khổ.
Sebastian vào quán Jury theo lối cửa phụ. Ngồi đó, ở một góc xa, bị che khuất bởi một chiếc lá cọ, là ngài công tước đã về vườn. Trên bàn, trước mặt ngài là một ly Brandy.
- Ơn Chúa, chào Kenneth.
- Cậu đấy à.
- Ôi Kenneth, tôi thấy rồi.
- Cậu thấy một thằng đàn ông tuyệt vọng rồi chứ gì. Tớ sẽ uống cho đến khi say khướt mới thôi.
- Đó là những lời khôn ngoan nhất cậu từng nói đấy.
- Tớ tiêu rồi.
- Nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
Dangerfield ngả người thoải mái trên chiếc ghế bằng liễu gai, khoanh tay trước ngực nghe câu chuyện của người đàn ông râu đỏ như thể một linh mục nghe con chiên xưng tội.
- Tớ đã đi nộp mình.
- Gì cơ?
- Tớ đã tới Lãnh sự quán bảo họ tống tớ về bên kia.
- Cậu nói giỡn đấy thôi, Kenneth.
- Đêm mai tàu sẽ rời bến. Giờ tàu đang đậu ở Alexander Basin rồi. Một hành khách bị ốm và tớ thế chỗ của ông ta. Bà Éclair là đồ vô tích sự. Vừa đến chỗ bà ta tớ đã biết ngay là sẽ chẳng ăn thua gì. Tớ cảm thấy điều đó từ trong xương. Tốt quá hóa ra không thực. Nhìn thấy tớ bà ta suýt ngất. Còn tớ thì thất vọng. Tớ bảo bà ta đưa cho tớ ba mươi siling và tớ sẽ đi bởi bà ta làm tớ cáu tiết.
- Bình tĩnh đi, Kenneth. Chuyện xảy ra thế nào?
- Bà ta cứ nghĩ tớ là người Pháp. Bà ta không cho tớ lấy một cơ hội bắt đầu và cái giọng ngoại quốc của tớ cứ rời rạc rời rạc, nghe cứ như thể tớ vừa mới chân ướt chân ráo bước xuống khỏi một chiếc tàu đến từ nước Mỹ vậy. Tớ còn có thể làm gì? Trong tình cảnh như thế thì có kéo dài sự khổ sở cũng chẳng ích gì. Cả tớ và bà ta rốt cuộc đều chẳng đi đến đâu cả vì thế tớ bảo bà ta đưa cho tớ ba mươi siling tiền lộ phí đến Dublin và tớ sẽ đi. Vậy là tớ đi khỏi đó, sự thể là thế đấy.
- Vui lên nào. Cười đi nào. Sau cơn mưa trời lại sáng, cậu biết mà.
- Tớ chán ghét mọi người. Trong quãng đời còn lại tớ càng ít dính líu đến người khác bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Có chết tớ cũng cóc quan tâm.
- Vớ vẩn. Vậy từ lúc bấy giờ cậu đã ở đâu?
- Đó lại là một chuyện khác. Tớ ở chỗ Malarkey, lạy Chúa, chán quá. Cậu có biết chuyện gì đã xảy ra không?
- Chuyện gì?
- Clocklan tự tử rồi.
- Lạy Chúa.
- Hôm thứ Hai sau khi chia tay cậu, tớ đến chỗ Tony ngủ trọ. Tớ không ngủ được bởi vì có ai đó cứ gõ vào cửa sổ, rồi tớ nghe thấy tiếng cãi cọ ở bên ngoài. Tớ không biết chuyện quái quỷ gì đang xảy ra. Tớ muốn được ngủ một đêm yên tĩnh để chuẩn bị cho ngày hôm sau đi phỏng vấn xin việc. Tớ tưởng đầu óc tớ vỡ ra mất vì tất cả những chuyện xảy ra ở đó. Chúa ơi, kì cục lắm. Rồi khoảng mười giờ kém mười lăm bọn tớ nhìn thấy một người mặc đồng phục bước xuống các bậc dẫn vào tầng hầm. Bọn tớ mở cửa và thấy một cảnh sát và ông ấy hỏi có phải Tony Malarkey sống ở đây không. Theo nguyên tắc tất cả bọn tớ đều nói không, thế nhưng đúng lúc đó Tony từ bên trong gào toáng lên đòi uống trà và viên cảnh sát hỏi, ông Malarkey đó phải không? Tony bước ra cửa và viên cảnh sát hỏi ông ta có biết một người đàn ông tên là Percy Clocklan không và Tony trả lời một cách lập lờ. Sau đó viên cảnh sát nói rằng người đàn ông tên là Percy gửi một mảnh giấy cho ông Tony Malarkey ở địa chỉ này, và mảnh giấy đó được một người ở Portmanock Strand vớt được. Người đó nói mảnh giấy được tìm thấy trong một chai Whisky Power bị sóng đánh giạt vào bờ biển. Sau đó viên cảnh sát thò tay vào túi ngực - tất cả bọn tôi đứng sau cánh cửa chăm chú theo dõi - và lấy ra một mảnh giấy đã nhàu đưa cho Tony. Tôi nghĩ lúc đó mặt Tony trắng bệch. Rồi viên cảnh sát hỏi ông ta có biết chuyện gì không, Tony trả lời rằng ông ta chỉ biết khoảng một tuần trước Clocklan đã lên tàu sang Anh và từ đó ông ta không nhận được tin tức gì từ anh ta. Viên cảnh sát hỏi trước khi ra đi anh ta có biểu hiện chán nản hay không, Tony nói ông ta không nhận thấy điều đó bởi vì lúc nào anh ta cũng say mèm và viên cảnh sát nói rằng ông ấy chỉ kiểm tra thôi và rằng nếu cảnh sát nhận được bất cứ tin gì họ sẽ cho Tony biết. Tony đi vào trong nhà, đứng đó và nói, gã khốn Clocklan đã nhảy từ tàu chở thư xuống biển và nếu gã nghĩ tôi sẽ phí thời gian mà đi nhận xác gã thì gã đúng là đồ điên.
- Xin thánh Oliver thu xếp giúp chúng con.
- Tony dường như không thèm quan tâm đến chuyện đó nhưng tớ cảm thấy rất tệ. Ông ta nói rằng nếu Clocklan muốn tự tử thì cứ việc tự tử tại sao lại còn ủy mị thế và lại còn gửi giấy cho ông ta. Trong giấy đó anh ta nói rằng anh ta chán đời lắm rồi và không thể chịu đựng hơn được nữa, rằng chỉ có một cách duy nhất là giải thoát và rằng anh ta muốn Terry và bọn trẻ sẽ nhớ đến anh ta. Chúa ơi, tớ thực sự buồn. Tony đứng đó uống trà, nói rằng nếu ông ta hiểu đúng Clocklan, thì ông ta chắc rằng con người đó sẽ không bao giờ nhảy khỏi tàu trước khi tàu đến Liverpool bởi nếu mà nhảy xuống biển giữa chừng thì anh ta cảm thấy anh ta không hưởng hết giá trị đồng tiền anh ta đã bỏ ra mua vé tàu. Thề có Chúa, tớ thấy chán nản quá. Đó là nguyên nhân tại sao toàn bộ chuyện với bà Éclair đi đến kết cục thảm hại như thế. Tớ nghĩ nếu một người đàn ông vô tư lự như Clocklan mà còn tự tử thì thử hỏi còn hi vọng gì dành cho tớ chứ?
- Còn chuyện xin tống khứ cậu về bên kia thế nào?
- Tớ bắt xe buýt đến Round wood. Ngồi trong một quán rượu chờ đợi. Rồi cuộc phỏng vấn diễn ra. Tớ không biết điều gỉ đã xảy ra với tớ. Vài ngày trước tớ còn háo hức mong chờ buổi phỏng vấn. Tớ mơ đến những chiếc bàn mạ kền, những chiếc chảo, bát đĩa, những cô nàng phụ bếp. Tớ mơ tớ làm công việc của mình - những luồng khói - khói. Tớ căng thẳng như một con mèo con. Tớ cứ nghĩ đến thi thể Clocklan nổi lềnh bềnh trên biển Ai Len. Rồi tớ biết chuyện xin việc như thế là hỏng bét. Tớ đi xe buýt về khu bến cảng, xuống xe, đi thẳng đến Lãnh sự quán. Tớ vào đó yêu cầu họ hãy trục xuất tớ về Mỹ. Phó lãnh sự là một tay tốt bụng. Ông ta gọi điện, tìm tàu và thế là tớ được thu xếp về bên kia. Giờ tớ sắp về Mỹ. Một thằng đàn ông thất bại và chán nản. Malarkey nghĩ được về bên kia là một điều tuyệt vời. Với tớ việc đó còn tệ hơn cả cái chết.
- Percy tội nghiệp, lạy trời. Tôi thích anh ta.
- Ừ.
- Kenneth này, có lẽ với tất cả những tin tồi tệ mà chúng ta phải chịu đựng, chúng ta nên uống gì đó.
- Ừ.
Dangerfield búng ngón tay, O’Keefe xoay xoay ly rượu trên bàn.
- Đừng để chuyện đó làm cậu chán nản, Kenneth ạ.
- Trong đời tớ chưa bao giờ cảm thấy chếnh choáng như thế này. Tớ đang bắt đầu hưởng hai mươi tiếng cuối cùng trên mảnh đất này. Khi tớ trở lại nhà trọ Catacombs tớ đã được mọi người đón mừng. Cậu có tưởng tượng ra cảnh đó không?
- Tôi nghĩ tôi có thể.
- Tony không hiểu được đâu.
- Có lẽ ông ta nghĩ đến những món ăn ngon cậu sẽ được thưởng thức khi trở về bên đó.
- Tớ xin nói một điều tốt về ông ta. Ông ta hào phóng. Đó là một điều đáng nhớ về cái nhà trọ của Malarkey. Khi cậu ghé vào cái nơi đó, cậu thấy chẳng có gì là quá tốt hóa không thật.
Ở lại cái nhà hầm đó chẳng ai đòi cậu một xu nhưng tất cả đều gọn ghẽ, sạch sẽ và khi người ta mời cậu ăn thứ gì đó, cho dù là bánh khoai tây, chắc như chì, cậu vẫn cảm thấy cậu được mời ăn một bữa ăn tử tế. Thật khó dứt ra khỏi cái đất nước này và tớ ghét phải rời khỏi đây nhưng nếu tớ không rời khỏi đây tớ sẽ chết mất.
- Chuyện xảy ra với Percy thật đáng tiếc. Nếu còn sống anh ta có thể thu xếp cho cậu một chỗ ở Iveagh House.
- Dấu sao thì mọi chuyện cũng kết thúc rồi, mà này, cậu định sẽ làm gì?
- Kenneth ạ, tôi định lên một chiếc tàu chở thư, khởi hành vào đêm thứ Sáu.
- Tớ không hiểu. Chuyện của cậu rối rắm đến nỗi tớ không nghĩ rằng cậu biết cậu sẽ làm gì. Cậu định đi Luân Đôn thật sao?
- Đi để tránh những con mắt. Cậu đã bao giờ để ý thấy những con mắt trên đường chưa. Đã bao giờ cậu để ý thấy chưa? Những con mắt tìm kiếm cái gì đó. Và trong cái thành phố giàu văn hóa này thì cái mà người ta tìm kiếm là tôi. Marion ở Scotland với con bé con. Ố vui vẻ rồi, Marion cao quý. Tất nhiên tôi sẽ có cơ hội tiếp tục việc học hành và có lẽ còn có cơ hội đi xem ba lê vào các buổi tối nữa.
- Gì cơ?
- Kenneth, cậu có biết tôi nghĩ cậu có cái mông của một người hầu không.
- Tớ có đấy. Còn cậu, cậu có biết chuyện của cậu rất đáng nghi không. Tớ đã nói chuyện với Malarkey và ông ta kể người ta xì xào rằng cậu nghiện ngập và Marion bỏ cậu, và rằng có chuyện trái lễ giáo, có chuyện quan hệ bất chính xảy ra trong ngôi nhà ở đường Geary. Người ta cũng đồn rằng cậu tằng tịu với một ả ở
Rathmines làm trong tiệm giặt ở Blackrock và một ả khác ở Cabra. Như Tony nói đó chỉ là lời đồn thôi nhưng những chuyện đó không có thật đấy chứ?
- Tôi có thể thấy lòng tin của cậu đối với Malarkey mạnh mẽ lắm vậy nên có nói gì đi nữa cũng vô ích. Nhưng tôi muốn chỉ ra rằng cuộc sống của tôi không có gì phải giấu giếm hết. Đúng, không có gì phải giấu giếm.
- Dangerfield này, đừng có cho tớ là thằng ngốc. Mai tớ rời khỏi cái đất nước này rồi vì vậy cậu có hủy hoại bản thân cậu như thế nào thì với tớ cũng chẳng có gì quan trọng nhưng để tớ nói với cậu điều này. Gái gú, rượu chè, và những chuyện bê bối nói chung sẽ làm hỏng cuộc đời cậu đấy. Tớ nghĩ rồi cuối cùng cậu sẽ kết thúc đời cậu ở viện tâm thần Gorman thôi.
- Cứ lo chuyện của cậu đi, Kenneth ạ.
Cô phục vụ tươi cười mang hai ly rượu đến đặt trên bàn của họ.
- Rượu của ông đây, thưa ông.
Dangerfield giật giật người.
- A.
O’Keefe thở dài.
- Bao nhiêu, bao nhiêu?
Cô phục vụ chau mày vẻ suy tính.
- Bảy siling, thưa ông.
O’Keefe buồn bã.
- Còn đây là một xu từ một người đàn ông khốn khổ bởi vì tôi sắp rời khỏi cái đất nước Ai Len này và tôi chẳng cần đến nó nữa.
Một nụ cười nở trên khuôn mặt ửng đỏ.
- Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi rất tiếc vì ông sắp rời Ai Len.
O’Keefe nhìn cô gái.
- Cô nói rất tiếc nghĩa là thế nào? Cô thậm chí không quen biết tôi.
- Ồ, có đấy. Năm ngoái ông từng đến quán này nhiều lần mà. Tất cả chúng tôi vẫn còn nhớ ông. Dạo ấy ông không để râu. Tôi nghĩ ông để râu hợp đấy ạ.
O’Keefe kinh ngạc, dựa lưng vào chiếc ghế liễu gai. Anh ta mỉm cười.
- Cô có biết tôi thực sự cảm kích không. Cảm ơn.
Cô phục vụ đỏ mặt, rút lui.
- Khỉ thật, Dangerfield ạ. Tớ là một thằng khốn kiếp nhưng cậu biết không, tớ nghĩ tớ sẽ quỳ xuống mà hôn mông của một thày tu dòng Tên nếu như làm thế tớ có thể ở lại đây.
- Cậu mà làm thế thì tôi sẽ mở một cuộc quyên góp.
- Chúa ơi, ở đây người ta quan tâm đến mình.
- Người ngoại quốc mà.
- Dẫu vậy, ở Mỹ người ta ỉa vãi vào người ngoại quốc. Sáng nay tớ dậy sớm đi xuống phố Fitzwilliam. Lúc ấy trời vẫn còn tối. Tớ nghe thấy tiếng xe ngựa lóc cóc và tiếng người đưa sữa hát nghêu ngao. Thật là tuyệt. Chúa ơi, tôi không muốn về bên kia chút nào.
- Đó là xứ sở của những người giàu sụ mà. Giàu ghê gớm. Ở bên đó có đôla mà.
- Tớ cảm thấy mỗi phút ở trên cái đất Mỹ ấy đều uổng phí.
- Này, này, đó là cái nơi đầy rẫy cơ hội dành cho những người có tâm hồn trẻ trung như cậu đấy, Kenneth ạ. Có lẽ ở đó cũng có chút buồn và người ta thích gào hét bên những ô cửa sổ. Nhưng cũng có những khoảnh khắc vui vẻ lạ lùng. Có lẽ ở bên đó cậu sẽ giải quyết được vấn đề của cậu.
- Nếu ở đây tớ chẳng thể giải quyết được thì ở đó tớ sẽ chẳng bao giờ làm được.
- Nó cứ ám ảnh cậu thì cậu chịu đựng thế quái nào được chứ. Tôi không nghĩ là tôi cường điệu khi nói rằng gái ở bên đó rất đẹp.
- Tớ có thể đợi.
- Còn Tony thế nào?
- Cả ngày làm đồ chơi cho bọn nhóc. Sáng mở mắt dậy là đòi trà. Uống xong ra ngoài gặp người đánh cá ngựa thuê, bỏ ra một siling đặt cược cho một con ngựa. Sau đó ông ta hào hứng cổ vũ cho đến khi con ngựa đó thua. Và ông ta tự nói với mình, khi nào con ngựa mình cá thua, mình sẽ về đấu khẩu với Clocklan. Khi tớ ở đó tớ cố lái Tony quan tâm đến chủ đề dùng vũ lực chiếm miền Bắc. Và Tony kể với tớ rằng có lần bọn họ đã vượt qua biên giới. Ai cũng quyết tâm bắn chết một cảnh sát, không thể cản được họ, đi để tuyên bố miền Bắc đã ở dưới bóng cờ tam tài (1). Họ vượt qua biên giới, túi quần nhét đầy bom tự chế, tay cầm lựu đạn và những thanh chất nổ gêlinhít. Sau đó họ gặp một cảnh sát. Bốn mươi người bọn họ đối mặt với một cảnh sát và người cảnh sát bước tới nói, này, này, đây là đất của đức vua, các anh nên cư xử cho phải phép nếu không tôi sẽ nhốt cả lũ các anh vào đấy. Họ nghệt mặt ra, cuốn cờ lại, cất bom đi và vào quán rượu đầu tiên họ nhìn thấy uống say túy lúy, và tất nhiên người cảnh sát cũng đi uống với họ. Như thế thật là tốt. Tớ không nghĩ có lúc nào đó họ còn muốn chiếm miền Bắc. Barney nói họ là những người tốt nhất trên trái đất. Cậu có biết có lẽ miền Bắc nên chiếm miền Nam không.
- Như thế thì chí ít khi đó chúng ta cũng có bao cao su mà dùng, Kenneth ạ.
- Cậu đi Luân Đôn rồi những người đàn bà của cậu sẽ ra sao?
- Cậu nghĩ là tôi có cả một hậu cung à, Kenneth? Tôi sống một cuộc sống tiết dục khổ hạnh. Cô Frost là một trong những người tốt nhất mà tôi biết, một người Cơ Đốc giáo ngoan đạo và đứng đắn.
- Malarkey nói rằng trong chuyện này tình láng giềng không được ưa lắm đâu.
- Cô Frost và tớ sẽ không bao giờ hạ thấp phẩm giá. Cũng không bao giờ khuyến khích ham muốn nhục dục. Chúng tớ không vượt quá giới hạn của thẩm mỹ và sự đứng đắn. Hơn nữa tớ muốn chỉ ra rằng cô Frost sẽ đi tu.
- Cậu là đồ khốn.
- Cậu đã bao giờ thấy tôi dính vào chuyện gì mà phải giấu giếm chưa, thấy chưa? Nói đi, O’Keefe? Gàn dở. Kenneth ạ, cậu đói cái đó, thế nên cậu mớỉ tưởng tượng ra chuyện này chuyện nọ. Cậu nghĩ tôi là kẻ tội đồ chứ gì. Còn lâu.
- Cậu dính vào đó như một quả chuối ở trong vỏ của nó. Tony nói rằng cậu cho cô ta nhiều đến nỗi sáng ra cô ta không bò dậy nổi để đi làm.
- Xúc phạm ghê gớm đấy. Cô Frost nhón chân đi trên hoa tulip.
- Cậu nghĩ cậu sẽ thoát được cái đó chắc. Rượu ấy.
- Chắc chắn chỉ vì thích giao du tôi mới uống rượu.
- Cậu có biết khi tớ có tiền, tham vọng của tớ là gì không? Chuyển đến ở trong khách sạn Shelbourne. Tớ sẽ đàng hoàng bước vào cửa trước và nói với tay khuân vác, anh đưa Daimler của tôi vào gara nhé.
- Ồ không, Kenneth. Phải nói, anh đưa xe hơi của tôi vào gara nhé.
- Chúa ơi, cậu nói đúng. Phải nói như thế. Xe hơi của tôi. Anh đưa xe hơi của tôi vào gara nhé. Và tớ bước vào trong khách sạn Shelbourne. Người ta nói ở đó có quầy bar đẹp nhất thế giới. Tớ sẽ nhắn Malarkey đến đó gặp tớ. Chào Tony, mọi chuyện ở Catacombs thế nào?
- Phải đấy, Kenneth, cậu có cái mông của một tên đầy tớ.
- Cậu muốn nói là tớ có cái mông để cưỡi ngựa chứ gì. Mông để cưỡi ngựa. Cậu có biết rằng nếu không nhờ người Anh thì nơi này nhan nhản những thứ mọi rợ không.
- Tôi mừng là cậu nhìn nhận theo cách đó.
- Người Ai Len cảm thấy rằng sở dĩ trẻ con được đưa xuống trái đất cho họ là do sự nổi giận của Chúa Trời. Cậu vẫn nghe thấy các ông bố bà mẹ nói con mình, nếu không vì lũ chúng bay thì cuộc sống của bọn ta đâu đến nỗi nào, bọn ta sẽ được vui vẻ. Nhưng vì chúng bay mà bọn ta phải làm việc và phải đầu tắt mặt tối để dành cho lũ chúng bay nhiều hơn cả những gì bọn ta có và giờ hãy xem lũ chúng bay đấy, không đứa nào mang về nhà được một xu. Lũ lười biếng chúng bay cứ phí thời gian vào những cuốn sách đó trong khi có khối việc làm tốt ở công ty đường sắt kia kìa.
- Dở hơi.
Tám giờ, trong quán Jury với những âm thanh và mùi vị đặc trưng, hai người bọn họ ngồi duỗi chân, ngón chân giật giật trong giày, hơi ẩm trên người họ dần dần tan đi trong không gian được sưởi ấm của quán. Trong quán lác đác có những vị linh mục, mặt đỏ, mắt ướt ướt nung nấu giận dữ. Những chiếc cổ áo sạch sẽ làm nghẹt những cái cổ đỏ của họ, những tu sĩ đau khổ. Không phải bản thân cái ở trong này mà là cái ở ngoài kia làm cho cái ở trong này thành ra thật tốt, thật đáng thèm muốn. Bởi ở ngoài kia, ẩm ướt u ám phủ lên tất thảy. Và cái ẩm ướt đó luồn cả vào trong giày, ngấm vào tất và rúc vào các kẽ ngón chân. Ngay gần đây là ngân hàng Ai Len. Một tòa nhà lớn xây bằng đá granít. Ngoài kia có một con điếm và một tên ăn mày.
- Kenneth này, chúng ta chọn cái nơi ấm cúng này mà ngồi trong ngày chia tay quả là thích hợp.
- Cô gái phục vụ đó, cậu có có để ý răng của cô ấy không? Răng trắng thế.
- Mắt cô nàng cũng rất đẹp.
- Sao tớ lại cảm thấy tớ không bao giờ có thể cưới một trong những cô gái kia nhỉ?
- Thời buổi này chẳng có gì hợp mốt hơn là kết hôn, Kenneth ạ.
- Làm sao cưới được một cô, đó là vấn đề đấy.
- Tôi thích tính khí của cậu, bạn thân mến ạ.
- Ừ. Toàn bộ đời sống tình dục của tớ phụ thuộc vào những sắc thái của sự giàu có. Tớ hình dung ra tớ vừa kết thúc một vòng tuần tra quanh lãnh địa của tớ truy tìm những kẻ săn trộm.
O’Keefe chìm trở lại giấc mơ về tương lai huy hoàng, tiếp tục nói với giọng tự tin êm tai.
- Tớ đi qua phòng rửa bát ở phía sau nhà, gọi, Tessie, có gì cho bữa tối nhỉ và Tessie hối hả đi lo việc nấu nướng. Phu nhấn O’Keefe đã nói cho tớ biết bữa tối có những món gì rồi nhưng với cái cách cư xử dân chủ của mình tớ cứ hỏi đùa những cô hầu như thế. Phu nhân O’Keefe ngồi ở một đầu bàn còn tớ ngồi ở đầu kia và chúng tớ bàn bạc về đất đai và lũ ngựa. Tớ hỏi cô ấy đã làm những gì tại hội chợ hoa và hỏi hoa của nhà chúng tớ có giành được giải thưởng không. Sau bữa tối vợ chồng tớ vào thư phòng uống cà phê expresso(2) pha kèm vài lát chanh, và một chai Hennessy. Vợ tớ đọc cho tớ nghe một vở kịch đến mười giờ đêm. Sau đó cô ấy đi về phòng. Tớ đợi trong thư phòng khoảng mười phút rồi đi về phòng mình. Tớ để ý thấy cánh cửa giữa hai phòng của bọn tớ hé mở. Tớ đợi hết mười phút rồi nhón chân đi tới, khẽ gõ cửa nói, anh vào được chứ, em yêu? Vâng, anh yêu, anh vào đi. Ha.
- Eeeeeee. Kenneth này, nếu cậu mà phát giàu thì đó sẽ là một sự tụt dốc.
- Có Chúa mới biết được.
Trên đầu Kenneth O’Keefe là chiếc mũ nỉ màu nâu bẩn thỉu. Những người phụ nữ có mặt trong quán rượu đều nhìn hai người bọn họ ngồi giạng chân nói chuyện. Và những người đó vểnh tai lên nghe người đàn ông để râu thao thao nói về những điều tưởng tượng bằng cái giọng lạ lùng của anh ta và tự hỏi còn cái anh chàng mang cái vẻ ngạo mạn và cái giọng Anh rất chuẩn kia, cái anh chàng ngồi gõ ngón tay vẻ sành điệu và ngả đầu ra sau phun ra những tràng cười kia là ai. Hai người bọn họ tự tin biết bao.
Và ngồi xen giữa những linh mục và những mệnh phụ bĩu môi là những nhà kinh doanh đến từ Manchester, những người làm đồ nội thất bán cho những viên chức nhà nước để họ bày trong phòng khách và giờ mặt những người ấy hơi đỏ rồi, giọng đã phảng phất chút huênh hoang rồi. Họ mặc những chiếc áo sơ mi kẻ sọc màu xanh dương có cổ cồn và những bộ vét trang nhã có sọc trắng nhỏ và những chiếc áo khoác ngắn, bên trong là những dây đeo, đỏ, xanh da trời, xanh lá cây và những lớp len chồng lên nhau và những chiếc cúc ở đây ở kia và ở khắp nơi. Và những người đàn ông đến từ Bradford và Leeds quan sát xung quanh bằng khóe mắt bảo thủ. Tôi biết các vị giàu có, các vị mặc đồ lót lụa và vừa chén những miếng thịt ngon cùng với hàng đống nấm, cà rốt, đậu và những thứ khác.
Kenneth O’Keefe bảo cô phục vụ mang cho anh ta cà phê. Anh ta nhìn quanh phòng xem những ai đang nhìn và đang nghe anh ta nói. Anh ta rướn người về phía trước, bỏ mũ ra, dùng ngón tay vuốt vuốt đám tóc màu nâu nhạt phía sau đầu. Dangerfield nửa nằm nửa ngồi, cằm tựa ngực nhìn O’Keefe bằng ánh mắt ủ ê.
- Đây là những khán thính giả của đêm cuối cùng, Kenneth ạ.
- Ừ.
- Sau cảnh này màn sân khấu sẽ hạ xuống.
Những người làm kinh doanh đến từ Bradford và Leed kia sống giữa những tòa nhà xây bằng đá màu nâu trên những con phố mù sương thiếu ánh mặt trời, sờ và định giá vải vóc bằng những con mắt nhanh nhạy, chiều chiều dùng nhiều thời gian uống trà và chỉnh complê trong những biệt thự xây bằng đá với màn sương mù mùa đông giăng bên ngoài cửa sổ. Những người đàn ông này ngả lưng trên ghế, rút từ trong túi quần may bằng lụa ra những chiếc khăn tay nhẹ như lông tơ, và gỡ kính xuống, nhẹ nhàng lưa khăn trên mắt kính, lưa vòng tròn, rồi khẽ chạm lên mặt kính sáng loáng, cầm kính bằng những ngón tay dài giơ lên ánh sáng rồi đeo kính trở lại. Trong cuộc vật lộn với giá cả và sự sa sút của thị trường họ mỉm cười, cười yếu ớt thôi nhưng vẫn là cười, những người đàn ông giàu nhất trên thế giới.
- Kenneth ạ, tớ sẽ tiễn cậu ra bến tàu.
- Tùy thôi.
Kenneth O’Keefe nở nụ cười cuối cùng dành cho cô phục vụ quyến rũ. Họ uống cạn cà phê rồi đứng dậy. Đèn trong phòng sáng hơn. Tất cả mọi người ngừng nói. Trong im lặng, hai người bọn họ bước đi. Những cô phục vụ đeo tạp dề màu đen đứng dọc bức tường gần phòng phục vụ. Một người trong số họ nghé đầu vào phía trong nói rằng hai ông khách sắp rời quán. Thêm ba khuôn mặt với những cặp mắt long lanh xuất hiện. Tất cả họ đều dậm gót. Miệng họ thốt ra tiếng hoan hô. Những ngọn đèn càng sáng hơn và tất cả mọi người cùng vỗ tay. Những quý ông đến từ Bradford và Leeds đưa khăn tay lên lau những giọt lệ đang trào ra khóe mắt họ, rồi họ chớp chớp mắt nhìn theo hai người đàn ông đang đi ra khỏi phòng. Cuối cùng các linh mục cũng đứng lên. Mình biết họ nghĩ hai thằng mình rất vẻ vang. Cảnh nhộn quá. Chúng mình bước qua cánh cửa quay, bước ra con phố hẹp có những kho chứa hàng và những văn phòng của những người làm nghề môi giới suốt ngày bận rộn với tiền bạc và đi qua một ngõ phố đêm vắng vẻ.
- Kenneth này, khi nào cậu quay trở lại đây, tớ sẽ cởi trần, đội một chiếc mũ quả dưa màu xanh lá cây đi bộ ra bến tàu đón cậu. Tớ sẽ mang theo một chiếc xe lừa kéo treo đầy cờ đuôi nheo và cỏ ba lá nhập từ Czechoslovakia cùng một dàn nhạc sáo nữ thổi như điên. Cậu có biết người ta nhập khẩu những con chim sẻ Anh vào Mỹ để chúng ăn cứt ngựa trên đường phố không?
- Không.
- Xem đấy. Phải đấu tranh, Kenneth ạ. Phải kháng cự nếu không sẽ bị đánh gục. Và có lẽ chẳng bao lâu nữa một trong hai thằng mình sẽ được hưởng chút giàu có. Và khi cậu ở ngoài biển kia tớ muốn cậu hãy nhớ cầu nguyện. Bởi vì tớ sẽ ở Luân Đôn đấy, mà Luân Đôn lại đang thèm khát tình dục. Cậu nghĩ thế nào?
- Chẳng nghĩ gì cả. Tớ ghét nơi đó. Chỉ cần nhìn cái nhà ga Victoria là tớ đã phát ngán rồi. Chết tiệt thật, rồi cậu sẽ hiểu ra thôi.
- Phải đấu tranh. Kenneth ạ, có những cuốn sách nói với chúng ta rằng chúng ta phải đấu tranh. Và cũng có những cuốn sách nói về những sinh vật chết đi. Chết đi mà không đấu tranh. Họ viết một từ xuống cuối trang sách để nhắn nhủ với người đọc một điều. Tuyệt chủng. Biết để mà tránh.
- Tớ phải chia tay cậu ở đây thôi.
- Ôi, Kenneth, thật là mỉa mai. Phải chia tay cậu ở Bắc Dublin này. Mình chưa bao giờ nghĩ điều này sẽ xảy ra với chúng ta.
- Chuyển lời hỏi thăm của tớ đến Tony và mọi người nhé. Dù tớ nghĩ khó có khả năng điều đó sẽ xảy ra, nhưng tớ vẫn hi vọng sẽ được thấy cậu ở Tòa án Old Bailey.
- Cứ hi vọng đi Kenneth ạ.
- Chúc may mắn.
- Giữ gìn sức khỏe nhé.
O’Keefe buồn bã bước đi rồi khuất dạng trên đường phố Seville Palace tối tăm ảm đạm. Dangerfield bước trở lại cầu Butt trong màn mưa lắc rắc. Cơ thể mình mang những khớp nối rệu rã. Ai Len là thiên đường gắn liền với cái kiểu thời tiết tồi tệ này. Mình phải xoa bóp các khớp ngón tay bởi nhiệt độ thấp thế này chỉ dành cho não mà thôi. Nhìn những con sếu và những cột buồm ở dưới sông kia. Phía bến Aston những chuyến xe buýt cuối cùng bắt đầu khởi hành về các vùng nông thôn. Và những đám đàn ông khom người trong những chiếc áo khoác dài màu đen rít thuốc và khạc nhổ. Mũi giày của mình há hoác ra như miệng của con chó đói. Lúc này đây mình sẽ đổi bất cứ thứ gì lấy một ly rượu. Mình phải khoác trên người cái thứ rẻ rách đáng buồn, đáng thất vọng này đây. Quần áo gì mà bẩn thỉu và thủng túa lua. Cái lạnh lẽo và ẩm ướt tràn qua vai mình. Người ta nói không có gì kéo dài mãi cả. Quanh mình toàn một màu xám ảm đạm. Màu xám tượng trưng cho cái gì nhỉ? Màu xám tượng trưng cho mưa. Còn màu hồng tượng trưng cho những con chó xù. Màu sắc tượng trưng cho mọi thứ. Người ta nói màu xanh lá cây tượng trưng cho công việc. Gì nhỉ? Màu gì tượng trưng cho sự lười nhác? Mình nghĩ đó là màu đen. Mấy người trên những boong tàu kia, các người cầm cờ hiệu màu đen chạy lên chỗ tôi đi. Sao? Màu nào tượng trưng cho ham muốn nhục dục. Người ta sẽ nói gì? Màu đỏ? Không. Không phải màu đỏ. Mình nghĩ là màu nâu. Màu nâu tượng trưng cho ham muốn nhục dục. Màu đỏ tượng trưng cho tiền bạc còn màu xanh dương tượng trưng cho cái chết.
Hãy mang cái chết
Đi thật xa.
Hãy tấu nhạc lên đi
Tấu lên đi.
Chú thích:
(1) Cờ Ai Len có ba màu: Xanh lá cây, trắng, da cam. Màu xanh tượng trưng cho người Cơ Đốc giáo, màu trắng tượng trưng cho người theo đạo Tin lành, và màu da cam tượng trưng cho khát vọng hòa bình giữa hai tôn giáo này.
(2) Cà phê expresso: Một loại cà phê có nguồn gốc ở Ý