CHƯƠNG 64

     au khi Stone đi khỏi, Max Himmerling thở phào nhẹ nhõm, rồi chợt nghẹn lại. Bọn bảo vệ. Chúng sẽ biết có người đến. Chúng sẽ gọi... ông chạy đi thu dọn đồ đạc. Ngày định mệnh đã đến. Lối thoát duy nhất là phải bỏ đi thật xa. Mười phút sau, ông chạy ra cửa với tẩm thẻ thông hành vừa được in ra và thẻ căn cước giả. Tiếng chuông điện thoại khiến ông dừng lại. ông có nên trả lời hay không? Linh tính mách bảo ông nên trả lời. ông nhấc điện thoại. Giọng nói quen thuộc ở đàu dây bên kia vang lên.
“Chào Max. Cậu đã nói gì với hắn ta?”
“Tôi không biết anh đang nói gì cả.”
“Max, một kẻ thông minh như cậu mà sao nói dối trơ trẽn thế. Tôi không trách cậu đâu. Tôi đoán là hắn đã đe dọa cậu. Chúng tôi biết con người hắn nguy hiểm như thế nào. Thế cậu đã nói gì với hán?”
Một lần nữa Himmerling phải nói sự thật.
“Cảm ơn Max, cậu làm đúng rồi.” Điện thoại mất tín hiệu.
Chiếc điện thoại trên tay Max rơi xuống khi cánh cửa mở tung.
“Đừng,” ông van xin. “Xin đừng.”
Khẩu sũng giảm thanh khai hỏa. Một viên đạn ghim thẳng vào trán ông. Thi thể được đặt trong một chiếc bao màu đen. Một phút sau, có một chiếc xe tải đến chở đi. Ngay sau đó, thi thể Himmerling được phép vận chuyển đến một cảng ở nước ngoài. Đợi đến khi có chiếc phi cơ nào của Mỹ đáp xuống bất kì nơi nào trên thế giới thì cái thi thể không hình hài ấy sẽ được thả xuống. Đó là đoạn kết của một cuộc đời gần bốn mươi năm phục vụ đất nước.
ít nhất ông ta không còn phải lo lắng về đồng lương hưu còm cõi của mình.

***

Ngồi trong căn hầm bí mật, Carter Gray tung quả đấm vào lòng bàn tay. Mất đi Himmerling là một tổn thất nặng nề, nhưng đó là giải pháp duy nhất. Gray biết đáng lẽ phải giải quyết ông ta từ trước nhưng đã muộn.
Ông quay nhìn lại màn hình trước mặt. ông nhận được hồ sơ khai sinh của tất cả các bệnh viện ở hàu hết các thành phố lớn của Canada. Dù đã được máy tính xử lý nhưng cả một biển thông tin hiện ra. ông buộc phải sàng lọc chúng. May mắn thay, ông biết khá rõ Rayfield Solomon. Họ từng là bạn thân và cạnh tranh lành mạnh. Thực tế thì chỉ có Solomon là người duy nhất trong thế hệ của Gray ngang tài với ông. Gray phải thừa nhận rằng trên chiến trường Solomon là một cấp trên tài ba lỗi lạc. Việc tìm ra con trai ông ta không dễ dàng chút nào; nhưng Gray vốn quá hiểu bạn mình.
Ông tập trung vào tên của người bố đăng kí trong hồ sơ khai sinh. Dĩ nhiên, Lesya đã không dùng tên thật. Tên người con trai càng không có manh mối, vì Gray biết chắc rằng cậu ta sẽ đổi tên. Vì thế hãy bắt đầu bằng tên người bố. Rayfield Solomon vốn rất tự hào về dòng máu Do Thái của mình. Dù yêu cầu công việc không cho phép ông hành lễ theo đúng truyền thống nhưng ông là một con chiên ngoan đạo. Thời ấy, Gray và ông thường xuyên trao đổi về thần học.vợ Gray cũng là một tín đồ công giáo. Gray không hề tôn sùng tín ngưỡng cho đến khi vợ và con gái ông thiệt mạng trong sự kiện 11/9. Solomon vẫn thường nói với ông rằng, “Hãy tìm cho mình một đức tin, Carter, ngoài công việc của cậu. Bởi vì khi rời khỏi cõi đời này, cậu sẽ phải bỏ công việc ở lại. Nếu nó là tất cả những gì cậu có, thì cậu trở về với Chúa chỉ với hai bàn tay trắng.” Gray bỏ ngoài tai những lời khuyên sâu sắc ẩy.
Những ngón tay ông lướt thoăn thoắt trên bàn phím, cố gắng kết hợp cái này với cái kia. Danh sách ngày càng ngắn lại. ông tiếp tục rà soát danh sách cho đến khi bắt gặp một cái tên của người cha nghe rất đỗi tự hào.
David p. Jedidiah, II.
Ông mỉm cười. Sai lầm của anh là ở đây, Ray à. Anh đã để tình cảm lấn áp lý trí rồi. Sau nỗi đau mất mát gia đình, Gray bỗng trở nên dam mê đọc Kinh thánh. Cái tên ấy hoàn toàn phù hợp với con người anh ta.
Solomon là con trai thứ hai của vua cha David. Và ông có đứa con trai danh chính ngôn thuận đầu tiên với Bathsheba. Jedidiah là tên gọi thân mật mà người thầy của đức vua kế vị Solomon đặt cho. Theo tiếng Do Thái, Solomon có nghĩa là “hòa bình” ^, bắt đầu bằng chữ p. Rayfield Solomon đã sử dụng tên David p. Jeddiah II trong giấy khai sinh. Carter Gray nhìn tên mẹ và tên đứa con trai, ông nhấc điện thoại. “Phải theo dõi đứa con trai đó”, ông ra lệnh.
Ông đặt điện thoại xuống và hét lớn, “Mày ở đâu thế, con trai của Solomon?”