Dịch giả: Phạm Đăng Phụng
Chương 1
Chuyến phiêu lưu đầu tiên của ông Pickwick

     ng Samuel Pickwick, chủ tịch câu lạc bộ Pickwick của thành phố Luân Đôn, đang ngồi trầm tư trong chiếc ghế bành của mình và mỉm cười. Đối với những ai xa lạ, ông Pickwick không khác gì một con người bình thường, với cái đầu hói và cặp kính tròn, lớn; chỉ những bạn bè ông mới biết được bộ óc phi thường bên trong cái đầu bự của ông, cũng như đôi mắt lúc nào cũng ánh lên vẻ cười cợt và luôn luôn sáng long lanh đằng sau cặp kính to tròn đó.
Hôm ấy ngày Mười hai tháng Năm, năm Một ngàn tám trăm hai mươi bảy - Câu lạc bộ Pickwick tổ chức một cuộc hội thảo vô cùng quan trọng. Cuộc hội thảo này chỉ chú trọng vào một mục đích duy nhất: Câu lạc bộ quyết định thành lập một Ủy ban du lịch, nhiệm vụ của ủy ban là đi thăm thú khắp nơi trong nướcđể ghi lại mọi tất cả mọi sự việc đáng chú ý mà họ được chứng kiến và tham dự, rồi thường xuyên báo cáo những điều ấy cho Câu lạc bộ. Các thành viên trong ủy ban gồm có: chính ông Pickwick và ba người bạn đặc biệt là các ông Tracy Tupman, Augustus Snodgrass và Nathaniel Winkle.
Trong lúc viên thư ký ghi chép quyết định đó, ông Pickwick đảo mắt nhìn khắp mấy ông bạn thân “Hội viên Hội Pickwick” của mình, một cách nói mà các thành viên vẫn hay dùng để tự gọi câu lạc bộ của họ. Ngồi một bên Hội trưởng Pickwick là ông Tupman, một người luôn luôn quan niệm tình yêu là thứ quan trọng nhất trên đời này. Nhân vật lúc nào cũng tôn vinh tình yêu ấy, là một người béo trục béo tròn, béo đến nội mà ông ta không bao giờ cúi xuống nhìn thấy sợi dây đồng hồ quả quít bằng vàng của mình treo lủng lẳng ở cái túi áo khoác ngắn bằng lụa. Ngồi bên kia hội trưởng là ông Snodgrass, có vẻ rất thi sĩ trong cái áo khoác màu xanh và cái khăn quàng cổ màu lông chó; kế tiếp ông này là ông Winkle, có vẻ bề ngoài rất giống một nhà thể thao, bận một cái áo khoác ngắn của những người thợ săn màu xanh rêu, với cái cổ cồn rất hoa lá cành.
Ủy ban mới mẻ này hoàn toàn nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ được giao phó cho họ. Trước lúc hội thảo chấm dứt, cả bốn người đã sẵn sàng mọi thứ để bắt đầu cho chuyến đi, sẽ khởi sự ngày hôm sau.
Ngay khi mặt trời vừa thức giấc sánh hôm sau, ông Pickwick thức dậy cùng mặt trời và mở của sổ phòng ngủ của mình ra để nhìn thế giới bên ngoài. Rồi ông nhanh chóng cạo râu, mặc quần áo, uống cà phê sáng và vội vàng tống vài thứ quần áo vào túi xách du lịch. Sau đó với cái túi xách du lịch trên tay và cuốn sổ ghi chép trong túi áo, ông đã có mặt ngoài đường phố; và chẳng mấy chốc, ông đón được một xe ngựa chở khách thuê. Ông Pickwick bước lên, ra lệnh cho người xà ích đưa ông tới lữ quán “Cây Thánh Giá Vàng”.
- Con ngựa này già quá rồi phải không, anh bạn? - Ông Pickwick hỏi người xà ích, vừa cọ cọ mũi vào đồng xu Shilling mà ông cầm sẵn để trả tiền cuốc xe.
- Bốn mươi hai tuổi đấy. - Người đánh xe trả lời, liếc nhìn ông khách với đôi mắt ngờ vực.
- Cái gì? - Ông Pickwick ngạc nhiên kêu lên, bàn tay cũng vừa chạm vào cuốn sổ ghi chép.
Người xà ích lặp lại câu nói. Ông Pickwick nhìn chăm chú lên gương mặt anh ta để đánh giá xem anh chàng này nói năng có nghiêm chỉnh không. Rồi ông ghi điều vừa mới nghe thấy vào cuốn sổ của mình.
- Và anh định bắt nó làm việc bao lâu nữa mà chưa chịu cho nó nghỉ ngơi? - Ông Pickwick hỏi tiếp.
- Hai hoặc ba tuần lễ nữa. - Người xà ích đáp.
- Những mấy tuần lễ nữa cơ à! - Giọng ông Pickwick không giấu được ngạc nhiên, trong lúc ông ta ghi thêm một chi tiết mới.
- Nó sống bên kia sông - Người xà ích tiếp tục - nhưng chúng tôi cũng ít khi đưa nó về nhà lắm, chẳng qua vì nó cũng có chỗ yếu.
- Vì nó có chỗ yếu là thế nào? - Ông Pickwick lại hỏi, bây giờ thì ông cảm thấy bối rối thật sự.
- Vâng, nó cứ té lên té xuống mỗi khi người ta tháo nó ra khỏi cái xe - Người xà ích giải thích tiếp - Nhưng một khi đóng vào xe, chúng tôi buộc thật chặt vào hai càng xe, thế là cu cậu hết té. Ngoài ra chúng tôi còn lắp hai bánh xe thật bự, nên mỗi khi con ngựa chạy, hai bánh xe cứ bám sát đít và cu cậu đó dám dừng lại.
Ông Pickwick ghi không sót một chữ những điều người xà ích nói vào cuốn sổ ghi chép của mình, với mục đích sau này ông có thể tường thuật đầy đủ cho Câu lạc bộ về cuộc sống day dẳng và nhọc nhằn của một con ngựa kéo xe là như thế nào. Ông vừa ghi chép xong thì họ cũng vừa tới quán trọ “Cây Thánh Giá Vàng” và ông Pickwick xuống xe. Các ông bạn Tupman, Snodgrass và Winkle bu lại quanh ông hội trưởng, chào mừng rối rít.
- Tiền xe của anh đây. - Ông Pickwick nói và chìa ra đồng Shilling trị giá mười hai xu cho người đánh xe.
Các bạn thử tưởng tượng xem sự ngạc nhiên của ông Pickwick như thế nào, khi người đánh xe, thay vì nhận đồng shilling, lại ném đồng tiền xuống đất và bằng một thứ ngôn ngữ thật thô lỗ, hắn khiêu khích ông khách của mình hãy đánh nhau với hắn để giành lấy đồng xu.
- Anh điên mất rồi. - Ông Snodgrass nói.
- Hoặc anh xỉn. - Ông Winkle thêm.
- Hoặc cả hai thứ đó. - Ông Tupman kết luận.
- Nhào vô! - Người đánh xe quát lớn, vừa nhảy choi choi với vẻ khích động - Nhào vô!... Chấp cả bốn người luôn!
- Có trò nhộn để xem rồi, ê! - Độ nửa tá tên xà ích khác cùng hét lên - Làm cha nó một mách đi, Jim! - Rồi họ bu quanh người bạn đồng nghiệp, reo hò inh ỏi.
- Có chuyện rắc rối gì vậy, Jim? - Một người trong đám này hỏi.
- Rắc rối à? - Jim vặn hỏi lại - Tại sao lão ta lại ghi số xe của tôi chứ?
- Tôi có ghi số xe số xiếc gì của anh đâu? - Ông Pickwick nói với giọng giận dữ.
- Chẳng những lão đã ghi số xe của tôi - Người đánh xe nói tiếp, mặt quay về phía đám đông, chẳng cần đếm xỉa gì tới ông Pickwick - mà lão còn ghi ghi chép chép lia lịa không sót một chữ những gì tôi nói nữa!
Sau cùng, cho tới lúc này thì ông Pickwick cũng hiểu rõ đầu đuôi, nhưng đã quá trễ để tìm lời phân trần.
- Tôi phải trừng trị lão mới được - Người đánh xe lại quát - Tôi phải trừng trị lão ta, dù cho tôi phải đi tù sáu tháng vì chuyện này. Nào, nhào vô!
Vừa nói anh ta vừa giật cái nón trên đầu rồi ném xuống đất, đấm một quả đích đáng vào mũi ông Pickwick là văng mất cặp mắt kính. Quả đám thứ hai tống thẳng vào ngực ông hội trưởng, quả thứ ba bay tuốt tới cặp mắt ông Snodgrass, quả thứ tư làm văng cái áo khoác ngắn của ông Tupman, quả thứ năm làm ông Winkle hoàn toàn nín thở. Tất cả những hành động đó chỉ mất đúng mười hai giây. Rồi mọi người bắt đầu tranh nhau nói ỏm tỏi.
- Có ông cảnh sát nào gần đây không? - Ông Snodgrass hỏi.
- Đem nhét bọn chúng xuống dưới cái máy bơm nước. - Gã bán bánh nướng đề nghị.
- Rồi các người sẽ khốn khổ vì chuyện này! - Ông Pickwich hăm dọa.
- Chỉ nói phét! - Đám đông hét rần rần.
- Nhào vô nữa đi! - Người đánh xe lại quát, có vẻ anh ta còn khoái đánh nhau.
Lúc này đám đông hoàn toàn tin chắc các hội viên Câu lạc bộ Pickwick đều là những tay cảnh sát chìm, và đúng lúc họ chuẩn bị đem nhốt bốn người vào dưới cái máy bơm nước theo lời đề nghị của gã bán bánh nướng, thì một người lạ mặt xuất hiện trước mặt đám đông. Hắn là một gã trẻ tuổi, dáng gầy gò và khá cao lớn, bận áo khoác màu xanh lá cây.
- Có chuyện gì vui? - Gã lạ mặt hỏi.
- Bọn cảnh sát chìm! - Đám đông la lên.
- Chúng tôi đâu phải cảnh sát đâu! - Ông Pickwik gào to.
Người lạ dùng sức lách qua đám đông, bước vào; và ngay tức khắc, ông Pickwick vội vàng giải thích những gì đã xảy ra.
- Thế thì, đi theo tôi - Gã lạ mặt với cái áo khoác màu xanh lá cây vừa nói vừa kéo ông Pickwick theo sau hắn. Mỗi lần muốn nói gì, hắn tuôn ra thật nhanh với những câu cụt ngủn, đứt quảng - Này, anh đánh xe số 924! Nhận tiền của anh và cút khuất mắt. Tôi biết rõ những ông này. Dẹp trò càn rỡ của anh! Đi lối này, thưa ông. Các bạn ông đâu? Tất cả chỉ là hiểu lầm, quá rõ còn gì. Đừng lo lắng. Những thằng ngốc.
Trong lúc miệng nói tía lia, gã lạ mặt vẫn đi trước dẫn đường về phía phòng đợi dành cho khách du lịch tại quán trọ Thánh Giá vàng. Ông Pickwick và mấy người bạn nối gót theo sau.
- Này, hầu bàn đâu! - Người lạ mặt hét lớn, rung cái chuông thật hách dịch - Mang ly rượu mạnh và nước nóng ra coi! Mắt ông có sao không, thưa ông? Hầu bàn, mang một miếng thịt sống cho con mắt đau của quý ông đây. Thịt sống là thứ thuốc hay nhất để trị mắt sưng, thưa ông. Một cái trụ đèn lạnh ngắt cũng tốt đấy, nhưng - Ha ha! - trông ông sẽ rất buồn cười, nếu ông đứng ngoài đường và áp con mắt đau vào sát cột đèn trong nửa giờ.
Đó là câu nói dài dòng nhất của gã lạ mặt. Nói xong, chẳng cần dừng lại để lấy hơi, hắn nốc một mạch hết luôn nửa ly cối thứ rượu mạnh ph nước nóng, rối khoan khoái ném mìng xuống một cái ghế dựa, như thể chẳng có chuyện gì bất thường vừa mới xảy ra.
Trong lúc ba người bạn bận tíu tít cám ơn người lạ mặt về sự giúp đỡ của hắn dành cho họ, ông Pickwick có đủ thời gian quan sát dáng dấp bên ngoài của hắn. Gã đàn ông có chiều cao trung bình, nhưng vì thân thể gầy gò và cặp chân dài khiến hắn trông có vẻ cao hơn nhiều. Cái áo khoác màu xanh của hắn đã từng có lúc hợp thời trang đấy, nhưng rõ ràng nó được may cho một người thấp hơ hắn nhiều, vì hai ống tay áo không phủ tới cổ tay hắn. Cái áo trông thật bẩn và đã bạc màu, và vì hắn cài kín nút lên tới tận cổ họng, nên có vẻ như nó có thể sẽ bục toác ra chẳng biết lúc nào. Cái quần màu đen sờn mòn gần rách được buộc chằng chịt bằng những sợi dây da từ đầu gối đến tận đồi giày đã chữa đi chữa lại hàng bao nhiêu lần, như để che giấu đôi bít tất trắng dơ dáy bên trong. Mái tóc màu đen dài thậm thượt của hắn buông thõng tự do bên dưới một cái nón đã cũ rích. Gương mặt hắn gầy trơ xương và có vẻ mệt mỏi; tuy bề ngoài xơ xác như vậy, hắn lại làm người ta phải ngạc nhiên vì vẻ sống động và thái độ tự tin của hắn.
Nhận ra cặp kính của mình chẳng sứt mẻ chỗ nào, lúc này ông Pickwick mới chính thức lên tiếng cảm ơn người đã giúp đỡ mình.
- Ông chớ bận tâm! - Gã lạ mặt nói - Đừng nói gì thêm. Hắn rất ranh ma, thằng cha đánh xe ấy. Hắn sử dụng hai bàn tay rất cừ. Nhưng ông, thưa ông - Gã lạ mặt đưa mắt nhìn ông Winkle - với cái áo thợ săn ông đang mặc đây! Thì ông sẽ dễ dàng làm vỡ toác cái sọ của hắn thôi. Và cả cái đầu thằng cha bán bánh nướng nữa chứ.
Đang oang oang ba hoa, hắn chợt dừng lại, vì người đánh xe ngựa trạm Rochester vừa bước vào, ông này cho biết xe đã sẵn sàng lên đường.
- Rochester à? - Gã lạ mặt chợt kêu lớn và nhảy vọt lên - Đúng là xe của tôi. Đã đặt chỗ trước. Ông trả tiền rượu chứ? Rất tiếc, không có tiền lẻ. Chỉ toàn tiền lớn. Đâu có tiền thối, ê? - Rồi hắn lắc đầu với dáng đường bệ.
Thật đúng dịp, vì ông Pickwick và mấy người bạn cũng dự tính đến Rochester để viếng cảnh. Sau cùng để khỏi mất công đợi xe khác, họ đồng ý cả bốn người sẽ ngồi bên ngoài chiếc xe ngựa trạm.
- Thưa ông, chẳng có hành lý gì sao? - Người đánh xe hỏi.
- Ai, tôi à? Có một gói hàng bọc giấy nâu ở đây, thế thôi. Hành lý khác được gửi tới đây sau bằng tàu thủy, những hòm gỗ lớn. Bằng cả tòa nhà ấy chứ. Nặng, rất nặng - Gã lạ mặt trả lời. Trong lúc nói, hắn cố nhét cái gói bọc giấy vào túi áo. Có vẻ như gói hàng của hắn chỉ chứa một sơ mi và một khăn tay, không hơn.
- Đầu... đầu... coi chừng đầu các ông! - Gã lạ mặt kêu lên khi họ đi qua dưới một trần vòm dẫn ra phố - Một nơi nguy hiểm. Có lần một bà to lớn, đang ăn táo. Bà ta quên cái trần vòm. Bốp! Lũ con bà ta nhìn quanh. Cái đầu của mẹ chúng đã lìa khỏi cổ. Trái táo còn trong tay bà ta... nhưng còn miệng đâu mà ăn chứ. Buồn... quá buồn!
Sau đó gã lạ mặt hỏi những người đồng hành mới của hắn điều quan tâm chính của họ là gì. Ông Pickwick cho biết ông thích tìm hiểu về bản chất con người; ông Snodgrass thú nhận ông muốn trở thành thi sĩ; còn ông Winkle khẳng định ông rất say mê thể thao.
- Thể thao à, ê? - Gã lạ mặt hỏi - Mấy con chó hả, thưa ông?
Ông Winkle trả lời lúc này ông không còn nuôi chó săn nữa. sau đó gã lạ mặt kể một câu chuyện dài - vẫn bằng cái lối dùng những câu cộc lốc quen thuộc của hắn - về việc hắn từng có một con chó. Một hôm, theo lời hắn, hắn mang súng ra khỏi nhà. Hắn vào một khu rừng. Con chó không đi theo. Hắn huýt sáo gọi. Con chó không thèm nhúc nhích. Hắn gọi tên con vật: “Ponto!” Con vật vẫn ngồi bất động. Hắn quay lại chỗ con chó. Nó đang chăm chú nhìn một tấm bảng thông báo:
“Đất tư nhân. Bất cứ con chó nào lọt vào sẽ bị bắn bỏ”.
Vậy thì đâu có gì lạ, khi con chó không chịu đi qua! Con chó mới khôn gớm! Một con thú có giá trị. Rất giá trị.
Ông Pickwick bắt đầu ghi một điều mới mẻ nữa về con chó biết đọc này vào cuốn sổ, còn gã lạ mặt lại chuyển sự chú ý của hắn sang ông Tupman. Người đàn ông quý phái này không chịu thừa nhận mối quan tâm chính của mình là các bà, thế nhưng ông ta đang dán chặt đôi mắt đầy vẻ âu yếm vào một phụ nữ trẻ đang đi trên vỉa hè.
- Đúng là một cô gái xinh đẹp hả, ê? - Gã lạ mặt trầm trồ, rồi hắn bắt đầu kể một câu chuyện dài về một trong những chuyện tình của hắn. Ông Tupman chăm chú nghe với thái độ say mê. Gã lạ mặt vẫn tiếp tục kể hết chuyện này đến chuyện khác cho đến khi tòa lâu đài Rochester hiện ra trước mắt họ. đến lúc này cuốn sổ ghi chép của ông Pickwick đã đầy ắp những chuyện phiêu lưu lạ lùng.
Chiếc xe trạm dừng lại trước quán trọ “Con Bò Đực” trên đường High Street. Gã lạ mặt bảo hắn đã đặt phòng ở một nơi khác gần đó, vì thế ông Pickwick mời hắn đến dùng bữa tối với họ tại quán Con Bò Đực tối hôm đó.
- Rất vui lòng - Gã lạ mặt nhận lời - Vịt quay với nước xốt táo chứ? Món ăn ưa thích của tôi. Mấy giờ?
- Để tôi xem nào - Ông Pickwick đáp, mắt nhìn đồng hồ quả quít của mình - Bây giờ mới khoảng ba giờ chiều. Chúng ta sẽ ăn lúc năm giờ.
Gã lạ mặt giở nón ra thật sự, rồi cẩu thả đội lên lại, cái nón nằm lệch một bên đầu. Kẹp gói hàng bọc giấy nâu dưới nách, hắn bước nhanh ra ngoài, băng qua sân lữ quán và ra tới đường phố.