Dịch giả: Phạm Đăng Phụng
Chương 17
Một chuyến đi lạnh lẽo chấm dứt trong sự chào đón bên ánh lửa ấm áp

     hững hoài niệm mới đẹp biết bao, mỗi khi mùa Giáng Sinh trở lại với chúng ta! Ngày Giáng Sinh hạnh phúc, điều ấy gọi lại trong lòng một người già những niềm hoan lạc của thời trẻ trung; ngôi nhà cũ, những giọng nói vui tươi và những khuôn mặt luôn luôn điểm một nụ cười của những người mà ông ta từng yêu dấu. Ngày Giáng Sinh hạnh phúc, điều ấy có thể mang tâm hồn những chàng thủy thủ, từ nhiều ngàn dặm xa xôi, trở lại với ánh lửa nồng ấm bên lò sưởi trong ngôi nhà yên tĩnh của mình.
Thời tiết Giáng Sinh đã thực sự đến, khi ông Pickwick và ba người bạn thân - những người được ông già hào phóng Wardle mời đến Thung lũng Dingley để vui chơi giải trí trong mùa đông vui vẻ ấy - đang ngồi giữa bầu không khí giá buốt trong chiếc xe ngựa chạy về Muggleton.
Hành lý của họ - kể cả nửa tá những cái thùng đựng đầy sò, cá của ông Pickwick - đã được Sam Weller và anh phụ việc của người xà ích chất dưới gầm xe, rồi cả hai kéo nhau vào quán rượu. Lúc họ trở ra, hơi thở sặc mùi rượu mạnh; người xà ích, nhảy tót lên chỗ ngồi đánh xe của mình ở phía trước, Sam Weller và người phụ việc phóng lên băng ghế phía sau; các hội viên trong Câu lạc bộ Pickwick kéo chặt áo khoác quanh người để ngăn bót cái lạnh bên ngoài. Rồi người xà ích hét lớn một tiếng thật vui:
- Xong rồi!
Và họ lên đường.
Bánh xe lăn nhẹ nhàng trên mặt con đường đất đóng băng. Người xà ích đánh roi đen đét trong không khí, mấy con ngụa sải vó bon bon như thể cả cái khối nặng phía sau - chiếc xe, những ông khách, hành lý và tất cả những thứ vớ vẩn khác - chỉ nặng không hơn gì một cọng lông. Mỗi khi xe tiến vào một làng mạc, người phụ việc lại đưa cái kèn của anh ta lên thổi, và đám trẻ nít trong làng - chẳng sót một đứa nào - chạy đến cửa căn nhà lá của chúng để ngắm chiếc xe ngựa đang phơi phới chạy qua.
Lúc mặt trời đứng bóng, họ vào đến một phố huyện; lần này, anh chàng phụ việc bèn thổi một điệu nhạc thật vui nhộn với cái kèn của mình. Ông Pickwick, từ đầu vẫn giấu kín đầu mặt trong cổ cái áo khoác, lúc này mới thò đầu ra, dáo dác nhìn quanh. Chiếc xe ngựa đột ngột rẽ ngoặc chỗ góc đường để tiến vào khu chợ; xe quẹo gấp đến nỗi ông Winkle - lúc đó đang ngồi trên mép ghế, một chân buông lủng lẳng bên hông xe - suýt chút nữa rớt xuống mặt đường; chỉ mấy phút sau, họ dùng lại trong sân một lữ quán; tại đây, những con ngựa còn đang khỏe khoắn, đều được phủ chăn cẩn thận để chống cái lạnh, đã chờ sẵn.
Khi ngựa được thay xong, ai nấy lại sẵn sàng tiếp tục cuộc hành trình, chỉ trừ ông Pickwick và ông Tupman; hai ông này biệt dạng ở đâu chẳng ai biết. Người xà ích hỏi với giọng chán ngán “hai ông béo ấy” đi đâu nhỉ. Rồi ông ta và anh phụ việc, và Sam Weller, và ông Winkle, và ông Snodgrass, và tất cả những người đang đứng rảnh rỗi gần đó bắt đầu lấy hết gân cổ réo gọi í ới để tìm hai ông già mất tích. Người ta nghe có tiếng trả lời từ trong quán, rồi ông Pickwick lúp xúp chạy ra, ông Tupmam bám sát sau lưng, cả hai ông đều thở hổn ha hổn hển. Hai bàn tay ông Pickwick lạnh cóng đến nỗi ông phải mất đúng năm phút mới moi ra được một đồng sáu xu để trả tiền bia. Họ leo lên chỗ ngồi của mình, bẻ ngược cổ áo khoác lên, rồi chiếc xe một lần nữa nhanh chóng tiếp tục ngốn lấy con đường đang trải dài trước mặt. Không khí tươi mát của đồng quê ve vuốt mặt họ và làm tim họ đập rộn ràng trong lồng ngục.
Đến ba giờ chiều “Xe thư của Thành phố Muggleton” - như người ta vẫn gọi chiếc xe ngựa ấy an lành đến lữ quán Con Sư Tử Xanh tại thành phố Muggleton. Ông Pickwick còn đang bận rộn kiểm soát lại hành lý thì chợt cảm thấy có ai đó giật nhẹ đuôi áo khoác của mình. Ông quay lại và nhận ra anh chàng mập và hay ngủ Joe, người giúp việc thân cận nhất của ông Wardle tốt bụng.
- Hu-lô! - Ông Pickwick chào.
- Hu-lô! - Anh mập chào lại.
Miệng nói, nhưng mắt lại nhìn một cách thèm thuồng mấy thùng sò, cá rồi anh mập lại ngây ngô cười với chính mình. Lúc này e rằng anh ta còn mập hơn thời gian trước đây nữa.
- Xem nào, anh bạn trẻ, trông anh có vẻ khỏe gớm, mặt mũi hồng hào đến thế mà. - Ông Pickwick vui vẻ nói.
- Cháu vừa thức dậy sau một giấc ngủ rất đã ạ, ngay trước lò sưởi trong quán trọ mới sướng chứ. Chàng mập đáp - Ông chủ bảo cháu đánh xe tới để chở hành lý của ông, đáng lẽ ông ấy còn gửi đến mấy con ngựa đầy đủ yên cương nữa ạ, nhưng ông chủ cháu nghĩ rằng các ông nên đi bộ tốt hơn, vì hôm nay trời lạnh lắm.
- Ờ, ờ - Ông Pickwick nói, chợt nhớ lại chuyến phiêu lưu với mấy con ngựa trước đây khi ông và các bạn đến thăm ông Wardle - Đúng thế đấy, chúng tôi nên đi bộ thì tốt hơn nhiều. Lại đây, Sam!
- Thưa ông chủ?
- Giúp anh hầu của ông Wardle chất hành lý lên xe, rồi cậy cùng đánh xe với cậu ta. Chúng tôi đi bộ, và đi ngay thôi.
Sau khi ra lệnh cho Sam và trả tiền cuốc xe xong, ông Pickwick cùng mấy ông bạn bắt đầu băng qua những cánh đồng. Hai anh chàng giúp việc sẽ đánh xe đi với nhau. Đây là lần đầu Sam trông thấy anh mập Joe. Anh chàng nhìn anh kia không thể không ngạc nhiên, nhưng chẳng hề nói tiếng nào. Rồi Sam bắt đầu chất hành lý lên xe, trong lúc anh mập đứng im nhìn Sam làm.
- Xong rồi - Sam nói trong lúc ném kiện hàng cuối cùng lên xe - Xong cả rồi.
- Ờ - Anh mập nói, rồi anh lặp lại câu nói của Sam với giọng hài lòng vì mình chẳng phải nhọc nhằn nhúng tay vào một công việc chẳng thích thú gì - Xong cả rồi.
- Thế đấy, con voi nhỏ của tôi, cậu đúng là một mẫu thanh niên lý tưởng, chính cậu ấy!
- Cám ơn anh. - Chàng mập nói.
- Hình như cậu đang lo lắng điều gì phải không? - Sam hỏi - Trông cậu có vẻ mơ mộng gớm, và tớ sợ rằng không chừng cậu bị thất vọng trong một mối tình vớ vẩn với một cô nàng nào chứ gì?
Chàng mập chỉ trả lời bằng mấy cái lắc đầu.
- Nào - Sam giục - Tớ rất khoái nghe chuyện ấy.
- Nhưng khoan, cậu có bao giờ nhậu nhẹt chưa?
- Tôi khoái ăn hơn. - Anh mập đáp.
- A! - Sam gật gù - Tớ đã nghĩ thế mà, nhưng tớ muốn nói điều này, có phải cậu chả bao giờ làm một giọt bất kỳ thứ gì làm cậu ấm lên một chút, phải không? Hay vì cậu quá mập, mỡ dầy hàng tấc, nên cậu không hề biết lạnh lẽo là gì?
- Đôi lúc tôi cũng thích làm một giọt thứ gì đó lắm chứ - Anh mập nói - nếu thứ đó ngon lành.
Sam đi trước dẫn đường và cả hai bước vào quán; tại quầy rượu, anh chàng mập được người bạn mới phục lăn khi anh ta làm một hơi cạn sạch vại bia cối mà chẳng cần dừng lại để thở một hơi nào. Sam cũng không chịu kém, rồi cả hai kéo nhau ra khỏi quán và trèo lên xe.
- Anh biết đánh xe không? - Anh mập hỏi.
- Quá biết đi chứ. - Sam đáp.
- Nói thế mới nghe được, vậy thì - Anh mập nói và đưa tay chỉ con đường - con đường này chạy thẳng một lèo, anh sẽ không lạc đường đâu.
Dứt lời, anh mập bèn nằm dài xuống sàn xe, gối đầu lên một gói hàng có vẻ mềm và nhanh chóng thả hồn vào giấc ngủ. Sau một lúc tìm cách đánh thức anh mập chẳng có hiệu quả gì, Sam Weller leo lên ngồi vào chỗ đánh xe phía trước, bắt đầu ra roi cho mấy con ngựa chạy tới, tiến thắng về hướng Thung lũng Dingley.
Thói quen bất di bất dịch của ông Wardle là, hàng năm, cứ vào đêm trước Giáng sinh, ông mở một tiệc lớn mang tính cách gia đình ngay trong nhà bếp, và ông mời tất cả những người giúp việc và những người làm công trong nông trại đến dự. Nhưng mùa Giáng sinh năm nay, đám tiệc còn rình rang hơn bao giờ hết, vì cô cháu gái rượu của ông, cô Isabella, vừa thành hôn sáng hôm đó; nên ngôi nhà đông nghẹt bạn bè và thân nhân quyến thuộc, những người đến chúc mừng đám cưới.
Lò sưởi trong bếp được đốt lên với những khúc gỗ lớn, nổ lốp bốp; trên tường được trang trí bằng những cành cây còn nguyên lá. Ông Wardle đưa bà mẹ già của mình vào căn phòng đã được chuẩn bị đâu vào đó, rồi hôn bà với một nụ hôn của ngày Giáng sinh để khai mạc buổi lễ. Sau đó, ông Wardle hôn một người phụ nữ còn trẻ có đôi mất đen như nhung, tên cô này là Arabella Allen. Ông Snodgrass hôn Emily Wardle. Còn Sam Weller hôn các cô hầu gái, không bỏ sót cô nào. Đáng ra, mọi người đều phải hôn tất cả những người khác, chỉ trừ anh chàng mập, vì anh ta đang quá bận với chuyện lo nhét đầy các thứ mứt dẻo ngon lành vào bụng.
Trong suốt thời gian một giờ hoặc hai giờ gì đó tiếp theo, mọi người cùng tham dự trò chơi. Trò chơi “Bịt Mắt Bắt Dê” rất dễ và phổ biến hơn cả. Ông Pickwick được chỉ định làm người khai mạc trò chơi trong vai Người Mù, thế là người ta buộc kín một cái khăn lụa quanh mắt ông. Lần đầu ông chộp trúng ngay cái đồng hồ cổ lỗ sĩ tám-ngày-mới-lên-dây-một-lần nằm chỗ góc phòng; sau đó ông húc đầu vào một bức tương đau điếng; sau cùng, ông cũng ôm cứng được một bà trong đám các bà, cô trẻ nhất; và ông già sướng rơn người khi được buộc cái khăn lụa quanh gương mặt xinh đẹp của bà này.
Không khí vui nhộn và sôi động làm người ta cảm thấy thời gian trôi qua thật nhanh. Chẳng mấy chốc đã tới giờ ăn xúp. Tới lúc này thì ai nấy đều cảm thấy đói meo trong cảm giác thích thú. Bàn ăn được bày ra cạnh lò sưởi, và họ cùng ngồi xuống thưởng thức món ăn với niềm hân hoan trọn vẹn. Khi bữa ăn chấm dứt, rượu vang được mang ra thêm, và không có người nào chịu để ly của mình lưng hơn ly người khác.
- Phải thực tình mà nói, hôm nay không có điểm nào đáng chê được - Ông Pickwick nói; nhìn ông, ai cũng nhận thấy ông đang cực kỳ cao hứng.
- Tục lệ nhà này vẫn thế mà. - Ông Wardle đáp - Sau bữa xúp, tất cả chúng ta sẽ ngồi lại cạnh lò sưởi, rồi kể chuyện, rồi hát hỏng cho đến lúc đồng hồ gõ nửa đêm. Nào, Winkle, ông bạn già thân mến, chúng ta ném thêm vài khúc củi vào lò sưởi đi.
Những ngọn lửa màu vàng nhảy múa trên những khúc gỗ, ánh lửa ấm cúng tạo một màu hồng vui mắt trên những khuôn mặt tươi hơn hớn của mọi người có mặt. Chính ông Wardle bắt đầu bài hát Giáng sinh vui tươi đầu tiên, và ông già được hoan hô nồng nhiệt; rồi mọi cái ly lại được rót đầy một lần nữa, và những khúc củi được ném thêm vào lò sưởi.
- Tuyết rơi mới khiếp chưa kìa! - Một ông nào đó lên tiếng với giọng trầm, thấp.
- Tuyết rơi nhiều lắm à? - Ông Wardle hỏi.
- Thật là một đêm lạnh kinh khủng, ông chủ à - Một ông khác trả lời - và gió thổi bông tuyết qua những cánh đồng trông cứ như là những đám mây trắng khổng lồ ấy.
- A! - Bà cụ mẹ ông Wardle kêu lên, vẻ mơ màng hiện ra trên mặt bà - Một trận mưa tuyết tầm tã và một cơn gió mạnh đang ra sức hoành hành! Có một đêm chẳng khác gì đêm nay, từ rất lâu lắm rồi, lúc ấy chúng tôi cũng đang ngồi cạnh cái lò sưởi này, cũng trong một đêm Giáng sinh, đúng năm năm trước khi ông chồng tôi mất; đêm đó ông ấy kể cho chúng tôi nghe câu chuyện Lão già Gabriel Grub đã bị Quỷ Sứ bắt đi như thế nào.
- Thế ông Gabriel Grub là ai ạ, thưa bác? - Ông Pickwick hỏi.
- Ồ, đó là một lão già làm nghề đào huyệt - Ông Wardle giải thích thay bà cụ - Lão biến mất vào một đêm mùa đông có trăng ngay trong khu nghĩa địa nhà thờ, lúc ấy lão đang đào một mộ huyệt ở đó. Lão Gabriel Grub là một lão già hung dữ và độc ác, và mọi người cư trú quanh vùng này đều tin rằng lão bị Quỷ Sứ bắt đi; nhưng câu chuyện này dài dòng lắm.
- Còn lâu chán mới đến nửa đêm mà. - Ông Pickwick nói và những người khác cùng lên tiếng ủng hộ ông.
Thế là họ lại rót rượu đầy ly của mình, ngồi thẳng lên trên ghế, im lặng lắng nghe câu chuyện thần bí mà định mệnh đã danh cho lão già Gabriel Grub.
Sau cùng, lúc ông Wardle chấm dứt câu chuyện, căn phòng còn tiếp tục lặng yên một lúc lâu. Rồi tiếng đồng hồ báo nửa đêm. Ánh lửa chợt bừng sáng hơn. Ai nấy cùng đứng lên và chúc nhau một mùa Giáng Sinh vui vẻ.