Dịch giả: Phạm Đăng Phụng
Chương 14
Ông Pickwick trong cái xe cút-kít

     ai ngày sau, ông Pickwick và các bạn bè được ông Wardle mời tham dự cuộc săn bắn. Chủ nhân khu đất săn đã đi Tô Cách Lan, nhưng họ được người quản gia của ông nọ tháp tùng; ông quản gia này có nhiệm vụ giữ gìn cho khu đất săn bắn lúc nào cũng có nhiều chim. Người quản gia và con trai ông ta mỗi người mang theo một cái túi bự, họ còn dẫn theo hai con chó. Hai cha con ông quản gia không giấu được ngạc nhiên trước ông Winkle và ông Tupman, vì hai ông này kẹp súng của họ dưới cánh tay và be sườn có vẻ không được thận trọng chút nào.
- Các ông phải lưu ý hơn đến những khẩu súng này khi chúng đã được nạp đạn - Ông quản gia nói với giọng nghiêm nghị - Nếu không, các ông sẽ có thịt đông lạnh của vài người trong chúng tôi đấy.
Ông Winkle vội vàng đưa khẩu súng của mình cao lên ngang vai; và lúc hành động như thế, nòng súng của ông ta đập mạnh lên đầu Sam Weller.
- Hoi! - Sam kêu lên, dở cái nón đang đội ra và xoa một bên đầu - Ông mà còn làm kiểu đó một lần nữa thì, thưa ông, ông sẽ cho cháu vào cái bị với mấy con chim đấy ạ.
Nghe nói, thằng bé con ông quản gia khoái chí bật cười hích hích, nhưng khi mắt nó chạm phải mắt ông Winkle, nó cố làm bộ như nó đang cười một người nào khác.
- Ông dặn họ đón chúng ta ăn trưa ở đâu? - Ông Wardle hỏi người quản gia.
- Tại đồi Một Cây vào lúc mười hai giờ, thưa ông - Người quản gia đáp.
- Nhưng chỗ đó không phải vùng đất của chúng ta mà, phải không?
- Không phải ạ, thưa ông. Chỗ đó là đất hàng xóm, thuộc sở hữu của ông Đại úy Boldwig; nhưng ở đó có mấy bãi cỏ tuyệt lắm, và sẽ không có ai quấy rầy chúng ta đâu.
Giờ này đúng là lúc rất thích họp để bắt đầu săn bắn, nhưng ông Pickwick lấy làm tiếc ông không thể cùng đi với những người kia vì một chân ông vẫn còn đau nhức ê ẩm sau chuyến phiêu lưu trong khu vườn trường nữ trung học.
- Nếu ông ấy muốn đi với chúng ta - Thằng bé con người quản lý đề nghị - thì đằng kia có một cái xe cút-kít, sau cánh cổng, ông ấy có thể ngồi trong xe và anh giúp việc của ông ấy sẽ đẩy cái xe theo sau chúng ta.
Sam Weller cho rằng đây là một ý kiến rất có lý, vì anh chàng rất háo hức được xem trò sàn bắn - nếu ông Pickwick phải ở lại, anh chàng cũng phải ở lại với ông - nhưng người quản gia phản đối ý kiến đứa con, ông ta bảo rằng làm như thế là đi ngược lại tất cả những nguyên tắc và tục lệ săn bắn ở đây. Tuy nhiên, sau cùng, ông này đành phải nhanh chóng đổi ý, khi người ta xìa ra cho ông ta mấy đồng tiền xu; và rốt cuộc, cả đoàn người bắt đầu băng qua những cánh đồng trống.
Một lúc sau đó, hai con chó khởi sự lùng sục trong mấy bụi rậm trong lúc ông Wardle im lặng đứng chờ. Rồi đột ngột có tiếng đập cánh vội vã, và nửa tá chim mập mạp bay lên bầu trời trong xanh. “Pằng! Pằng!”, khẩu súng của ông Wardle nhả đạn.
- Có thấy chúng đâu? Ông chỉ cho tôi nên bắn lúc nào. Ồ, có thấy con chim nào đâu chứ? - Ông Winkle kêu lên với thái dộ bất lực.
- Chúng đây này - Ông Wardle trả lời, vừa nhặt lên hai con chim mà mấy con chó vừa mang đặt dưới chân ông ta.
- Không, không phải đâu, ý tôi muốn nói những con khác kìa. - Ông Winkle nói vội, tỏ ra rất bối rối.
- Bây giờ thì chúng ta bay biệt dạng rồi còn gì! - Ông Wardle vừa đáp vừa lắp đạn mới vào súng.
- Chúng ta sẽ thấy thêm một ít chim trong năm phút nữa - Ông quản gia nói - Nếu ông ấy bắt đầu bắn ngay lúc này, có lẽ ông ấy sẽ nhặt được đầu đạn từ nòng súng của ông ấy thoát đi khi bầy chim bay lên.
- Ha! Ha! Ha! - Sam rú.
- Không được cười, Sam. - Ông Pickwick ra lệnh, ông tỏ ra áy náy cho ông Winkle.
Sam rất khó khăn mới giữ yên nét mặt mình, nhưng trông anh chàng buồn cười đến nỗi tới phiên thằng bé lại bật cười sằng sặc. Thế là ông quản gia quay lại nguyền rủa thằng con trai một trận để cố ngăn lại cơn khoái trá của ông ta cũng chực nổ bùng ra.
Họ tiếp tục băng qua mấy cánh đồng, ông Winkle bám sát một bên ông Wardle sẵn sàng nổ súng ngay nếu có bất kỳ thứ gì xuất hiện.
- Từ giờ phút này phải giữ im lặng - Ông Wardle lên tiếng khi nhìn thấy bộ dạng mấy con chó cho biết họ đang đến gần chỗ có chim.
Ông Winkle rón rén bước tới vài bước, không gây ra tiếng động nào, rồi bầu không khí im lặng đột ngột bị phá vỡ bởi một tiếng nổ đinh tai, và viên đạn từ họng súng của ông Winkle rít ngang tai ông quản gia và thằng con trai ông ta.
- Ông bắn thứ quỷ quái gì vậy? - Ông Wardle hỏi.
- Tôi đâu có tính bắn - Ông Winkle khốn khổ trả lời - Súng tự động nổ mà.
- Tôi ước gì nó sẽ giết được một thứ gì đó theo ý nó - Ông Wardle nói, hoàn toàn thất vọng khi trông thấy cả bầy chim yên lành bay đi tứ tán trước khi ông đến gần chúng hơn, đúng khoảng cách để nổ súng.
- Ông ấy nói thật chứ không chơi đâu, mà cũng chẳng lâu lắc gì! - Ông quản gia nói ánh mắt nhìn ông Winkle với vẻ khinh thường - Nhưng xin ông đừng lo, thưa ông. Bản thân tôi không có gia đình; và ông chủ tôi sẽ cho mẹ thằng nhỏ này một túi tiền còm kèm theo vài lời an ủi, nếu thằng nhỏ bị giết trên đất ông ấy. Ông có thể nạp đạn mới, thưa ông.
- Đem khẩu súng của ông ấy đi nơi khác ngay! - Ông Pickwick hét lớn từ cái xe cút-kít - Đem nó đi ngay trước khi ông ấy giết chết một người khác.
Chẳng ai tỏ vẻ sẵn sàng làm theo lời ông Pickwick yêu cầu, rồi ông Winkle được phép nạp đạn lại, và họ tiếp tục đi. Thỉnh thoảng họ cũng tìm thấy vài con chim, và ông Winkle cũng nổ súng được vài lần, cố xoay xở sao cho khẩu súng của ông không làm ai bị thương, dù rằng ông ta có hai lần suýt bắn trúng mấy con chó. Ông Tupman có vẻ thành công hơn, ông này sớm nhận ra điều quan trọng nhất trong lúc nổ súng. Thế nên, ông quyết định thực hiện ý nghĩ hay ho nhất của mình là cứ nhắm tịt mắt lại và bắn thẳng lên không khí. Trong một lần bắn theo kiểu đó, lúc mở mắt ra, lại đúng ngay dịp để nhìn thấy một con chim rất mập bị thương đang rơi xuống đất. Ông ta vừa định mở miệng ngợi khen ông Wardle thì ông này bước thẳng lại chỗ ông và bắt tay ông.
- Bắn hay lắm, bác Tupman. Một cú bắn rất tuyệt. Con chim này bay cao lắm, nhưng tôi không thấy bác nhắm vào nó. Bác là một nhà thể thao rất cừ!
Ông Tupman trả lời mình chưa hề đụng tới một khẩu súng nào trước đây trong cuộc đời, nhưng ông Wardle lại nói ông ta chớ nên quá khiêm tốn như vậy, trong khi rõ ràng ông ta mới là một tay súng đầy kinh nghiệm ai cũng thấy. Đúng lúc ấy, ông Pickwick cũng vừa theo kip họ trong cái xe cút-kít của ông; và ông Wardle đón ông bạn mình với thái độ thật phấn khích:
- Hôm nay trời oi bức mới ghê gớm chứ, phải không? Nhưng đừng lo. Lúc này đang là giữa trưa mà, và chúng ta sẽ dùng bữa trên ngọn đồi cỏ xanh um đằng kia. Thực ra thì tôi có thể nhìn thấy thằng bé với cái giỏ đựng thức ăn trưa đã tới đó rồi.
- Tôi cũng vậy - Ông Pickwick vui vẻ reo - Lát nữa tôi sẽ cho thằng bé một cắc. Nào, Sam, đẩy tôi lên đồi đi!
- Nắm chặt vào, thưa ông chủ! - Sam trả lời, lúc này anh chàng cảm thấy đã hồi sức sau công việc nhọc nhằn của mình.
Anh chàng nắm hai càng xe và đẩy ông chủ lên đồi, rồi anh đỡ ông xuống bên cạnh cái giỏ và bắt đầu mở những gói thức ăn ra, nhanh tưởng chừng như không thể nào làm nhanh hơn được.
- Thức ăn nguội, trái cây, phó-mát, mứt dẻo - Sam xuýt xoa - toàn những thứ xịn được chọn lọc. Và chú mày chứa những của quỷ gì trong mấy cái chai này thế, chú bé?
- Chai này đựng bia - Thằng bé đáp, lấy từ sợi dây da đeo trên vai xuống hai cái chai cối bằng đá - và chai này chứa rượu vang.
Chẳng chút chậm trễ, các nhà thể thao đang đói lả ngồi xuống bãi cỏ dưới bóng mát rất rộng của cây sồi già độc nhất trên ngọn đồi để thưởng thức bữa ăn trưa. Sam Weller, ông quản gia và hai cậu bé ngồi lại với nhau cách đó một quãng ngắn, cũng làm y hệt mấy ông kia. Trước mắt họ, những cánh đồng và những khu rừng nhỏ nối nhau trải dài đến tận chân trời, tạo nên cảnh trí thật vui mắt.
- Thú vị thật, đúng là không có gì thú vị hơn! - Ông Pickwick nói.
Mặt ông Pickwick bị mặt trời thiêu đốt đến nỗi lớp da bắt đầu bong ra nhưng ông vẫn không ngớt mỉn cười. Cảnh đẹp trước mắt, lại có thức ăn ngon và rượu vang hảo hạng, nên ngay cả đến ông Winkle cũng cảm thấy phấn khích hơn.
- Tôi có hơi vụng về trong chuyện săn bắn - Ông ta nói, vừa cắt cánh gà rô-ti ướp lạnh với con dao xếp bỏ túi của mình - Tỏi sẽ cột một con chim chết lên đầu một ngọn sào rồi tập bắn vào nó, đầu tiên tôi sẽ đứng rất gần, rồi đứng xa gần ra.
- Cháu có biết một ông đã cố làm như thế - Sam nói - Ông ta bắt đầu với một khoảng cách gần hai mét, và con chim đáng thương bị trúng đạn nát bét văng tứ tung đến nỗi sau đó người ta không sao tìm ra một cọng lông nào của nó.
Câu chuyện làm hai thằng nhóc cười lăn cười bò đến khi hông chứng đau thắt lại, còn ông Pickwick thì yêu cầu anh chàng người làm của mình hãy để dành những câu chuyện tiếu lâm của anh ta lại mà dùng riêng cho mình. Rồi ông uống chúc mùng sức khỏe của mỗi người có mặt; sau đó, cho sức khỏe những bạn bè không có mặt. Rồi ông ráng hát một bài, nhưng ông chẳng nhớ nỗi một chữ nào của lời bài hát, vì vậy ông lại uống thêm một hoặc hai ly gì đó để phục hồi trí nhớ, nhưng hình như chuyện ông làm đã mang lại kết quả ngươc lại thì phải. Sau cùng, ông gượng đứng lên trên cái chân đau của mình để đọc một bài diễn văn; nhưng lúc ông mở miệng, lại không có một tiếng nào thoát ra khỏi cổ họng ông, rồi với một nụ cười hạnh phúc còn đọng trên gương mặt, ông ngã bật ngửa ra sau rồi lọt thỏm vào cái xe cút-kít của mình và mau chóng đánh một giấc ngon lành.
Bây giờ đã tới lúc các nhà thể thao lại tiếp tục cuộc săn bắn của họ, nhưng họ không tài nào đánh thức ông Pickwick dậy được. Sau khi bàn cãi một chặp họ quyết định cứ để ông ở lại nơi ông đang có mặt và sẽ trở lại đem ông đi theo trên đường về. Sam Weller nài nỉ các ông kia cho phép anh chàng được đi theo các nhà thể thao tham dự cuộc săn; và vì họ dự trù chỉ rời khỏi nơi này độ chừng một giờ, nên ông Wardle đồng ý. Đoàn người lên đường, và ông Pickwick được để lại với giấc mộng bình yên của ông. Nhưng rủi thay, giấc mộng an lành của ông Pickwick kéo dài chẳng được mấy chốc.
Đại úy Boldwig là một người nhỏ con nhưng lại hung hăng con bọ xít, lúc nào cũng chỉ thấy bận mỗi một cái áo khoác màu xanh cứng ngắc. Ông ta rất khoái đi bộ trên đất đai của mình, luôn luôn mang theo một cây gậy đi đường hai đầu bịt đồng theo sau là mấy tay làm vươn và phụ tá làm vườn của ông ta. Đầu óc ông đại úy này thường xuyên bận bịu với ý nghĩ mình là một nhân vật quan trọng.
Ông Pickwick ngủ chưa lâu mấy, khi ông đại úy nhỏ con đi ngược lên ngọn đồi với đám lau nhau theo sau ông ta. Đại úy Boldwig rất hãnh diện về ngọn đồi màu xanh mượt mà này với cảnh trí đẹp mắt của nó.
- Ngày mai anh phải xén cỏ ở đây nhé, Hunt - Ông ta bảo anh làm vườn - Phải giữ gìn nơi này cho thật sạch sẽ, và nhớ nhắc tôi cho dựng một tấm bảng thông báo ở đây để ngăn chặn những thằng cha vớ vẩn không được léng phéng vào nơi này.
- Tôi xin lỗi ạ, thưa ông chủ - Một anh phụ tá làm vườn lên tiếng. Anh ta vừa từ phía sau gốc cây bước ra - nhưng tôi sợ rằng những thằng cha vớ vẩn ấy đã léng phéng tới đây hôm nay rồi ạ.
- Lạy Chúa tôi, chúng đến rồi thật mà! - Đại úy Boldwig hét lên, vừa nhặt một cái xương gà từ bãi cỏ lên - Ước gì tôi tóm cổ được một thằng trong bọn chúng! - Rồi ông ta quay tít cây gậy lên không khí với vẻ hung hăng thấy phát ghê.
- Tôi xin lỗi ạ, thưa ông chủ - Gã kia nói tiếp - nhưng ông đã tóm cổ được một đứa rồi ạ.
- Cái gì? Đâu nào? - Ông đại úy gầm lên, và bất thình lình ông ta trông thấy ông Pickwick trong cái xe cút-kít - Anh là đứa nào, thằng cha thô lỗ kia? - Ông đại úy hỏi, vừa ấn đầu cây gậy của ông ta vào hông ông Pickwick - Tên gì, anh kia?
- Một chai nữa đi! - Ông Pickwick trả lời với giọng còn mê ngủ.
- Hắn bảo tên hắn là cái quái gì vậy? - Ông đại úy nhăn mặt hỏi.
- Chai (Bottle - ND) ạ, tôi nghe hình như thế, thưa ông chủ - Người làm vườn đáp.
- Chai hả, ê? - Ông đại úy giận dữ quát - Tôi không tin chuyện đó. Hắn không có ngủ, hắn xỉn đấy. Đẩy hắn cút khỏi đây ngay.
- Tôi biết đẩy hắn đi đâu bây giơ, thưa ông chủ? - Anh phụ tá làm vườn hỏi.
- Đi đâu hả - Ông đại úy nói - Đi đâu? Đẩy hắn vào chuồng nhốt súc vật đi lạc [1], và chúng ta sẽ nhanh chóng thấy hắn có phải là một cái Chai khi hắn hết xỉn không.
Lúc các bạn ông Pickwick trở lại đồi Một Cây sau cuộc săn bắn, họ sửng sốt khi nhận ra cả ông và cái xe cút-kít của ông cùng biến mất. Họ sục sạo tìm kiếm khắp nơi. Họ réo gọi tên ông và kêu thét om sòm, nhưng mọi cố gắng của họ chỉ là công dã tràng. Sau cùng, họ đành về nhà không có ông Pickwick.
Trong thời gian đó, ông Pickwick được đẩy tới chuồng nhốt gia súc bị lạc, và người ta bỏ mặc ông tại đó chung với bầy thú, trong lúc ông vẫn ngủ say như chết trên cái xe cút-kít. Cổng chuồng được người gác khóa kỹ lại, rồi đám làm vườn kéo nhau bỏ đi. Rất lâu trước khi ông Pickwick tỉnh rượu, gần như toàn thể dân làng đã nghe tin, lũ lượt kéo nhau đến để xem kẻ bị nhốt, sẵn sàng tham dự những trò vui lúc tù nhân tỉnh dậy.
Bỗng nhiên ông Pickwick ngồi thẳng lên trong chiếc xe cút-kít của mình, và ông gọi ngay cái tên “Sam” lúc ông vừa ngồi dậy.
Rồi ông ngạc nhiên nhìn dáo dác vào một rừng những gương mặt hả hê, nhăn nhở đang bao vây quanh anh phía ngoài chuồng nhốt thú đi lạc.
- Tôi ở đâu thế này? - Ông Pickwick lớn tiếng hỏi.
- Trong chuồng nhốt thú đi lạc - Đám đông cùng hét trả lời.
- Đưa tôi ra - Ông Pickwick hét - Sam đâu rồi. Các bạn tôi đâu.
- Ngài chả có bạn bè gì ráo. Hoan hô!
Và trong lúc đám đông reo hò cật lực, một trận mưa với những quả trứng ung và những trái táo thối bắt đầu rơi lên đầu cổ ông Pickwick bất hạnh.
Đúng ngay lúc đó, một chiếc xe ngựa dừng lại, rồi ông Wardle và Sam Weller nhảy xuống xe. Ông Wardle mở cổng chuồng rồi đỡ ông Pickwick ra đưa lên xe ngựa. Trong thời gian đó; Sam đang bận bịu săn sóc gã giữ chuồng nhốt thú lạc, gã này đã tìm cách gây trở ngại cho việc giải cứu ông Pickwick. Trước sau ba lần, Sam đấm anh chàng đáng thương kia nằm sóng soài trên mặt đất, rồi Sam nhảy lùi lại, phóng lên xe ngựa.
- Gọi cảnh sát mau! - Đám đông hét vang, ai nấy đều tỏ ra chán nản vì mất dịp tham dự một trò vui nhộn.
- Được lắm, cứ gọi cảnh sát đi - Sam Weller quát trả - Bảo họ tôi đã sửa đổi gương mặt thằng giữ chuồng thú cho dễ coi hơn đấy; và nếu họ cho thêm một thằng khác tới, bảo đảm tôi cũng sẽ sửa sắc đẹp cho hắn luôn.
Thoạt tiên ông Pickwick tỏ ra vô cùng phẫn nộ, nhưng ông bạn già Wardle không sao nín được cười khi hình dung ra cảnh ông bạn mình lúc bị đẩy trên xe cút-kít ngang qua làng mà vẫn ngủ ngon lành. Chẳng mấy chốc, trên mặt ông Pickwick cũng hiện ra nụ cười, rồi Sam và ông Wardle bị lôi cuốn theo, và cả ba người cùng cười sằng sặc. Vì vây, họ bảo người đánh xe dừng lại trước một quán rượu gần nhất, rồi ra lệnh mang lại cho mỗi người một ly Brandy bự, và một ly đặc biệt bự nhất cho anh chàng Sam Weller trung thành.
Chú thích:
[1] Chuồng nhốt súc vật đi lạc (Pound): Một khoảng sân có rào, người ta nhốt các gia súc đi lạc ở đó chờ chủ nhân đến lãnh về (ND).