Chương Mười Ba

Mịt mù trong gió mạnh và sóng lớn, chiếc ghe của chúng tôi tiếp tục lệch sang hướng Đông Bắc thay vì phải đi theo hướng Đông. Lắng nghe những lời trao đổi của những người đàn ông về chuyện thay nhau chèo để bẻ mũi ghe đi đúng hướng, tôi đã kỳ vọng rất nhiều về sự hợp sức và tinh thần “còn nước còn tát” của họ. Tôi nghe anh Thảo nói là chiếc ghe sẽ không làm sao kham nổi với sức gió mạnh để bẻ ngược mũi chèo, cho nên cần phải làm một chiếc đuốc để đánh tín hiệu SOS cầu cứu với các tàu thuyền gần đó. Sau lời đề nghị của anh là tiếng i ới của ông chủ ghe gọi các người phụ tìm cây, giẻ, dầu, và quẹt. Chẳng mấy chốc, một ngọn đuốc sáng rực hiện ra. Lúc đó, tôi tưởng ánh sáng của ngọn đuốc xé khoảnh đen của đêm được lâu lắm, ai dè nó chỉ huơ qua lại được vài phút bị gió thổi tắt ngay. Thời gian ngọn đuốc cháy sáng chỉ đủ cho tôi thấy được vài cái đầu lố nhố trên buồng lái chứ không thể thấy được gì thêm. Dù là vậy, tôi không hề nghĩ là có chiếc tàu nào gần chiếc ghe của chúng tôi. Hình ảnh trơ trọi của chiếc ghe trên mặt nước tím thẫm mênh mông lúc ban chiều vẫn còn khảm trong tâm trí tôi và đủ để cho tôi khẳng định là không có chiếc tàu lớn đi ngang vùng biển này vì họ đã biết trước nơi có giông tố. Những người đàn ông cố gắng tìm mọi cách giữ ánh sáng của ngọn đuốc để đánh tín hiệu cầu cứu, nhưng ngọn đuốc chỉ sáng được vài giây là tắt ngay nên họ phải tháo ra để sửa hay quấn thêm giẻ mới để đốt lại rất nhiều lần. Tắt rồi lại sáng, sáng rồi tắt, ngọn đuốc luân phiên bật lên niềm hy vọng và nỗi thất vọng liên hồi trong lòng chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng khi nghe những người đàn ông than thở là không còn giẻ và dầu để làm đuốc nữa và anh Thảo cho biết là ghe đã lệch hướng rất xa. Tôi cảm thấy như tim mình như bị bóp nghẹt vì hiểu rằng đây chính là lúc tôi phải nhận lấy hậu quả cho sự quyết định của mình. Những người nằm gần chúng tôi, cũng im lặng chẳng khác nào vì có lẽ tất cả đều hiểu rằng đi vượt biển có nghĩa là mang theo cái chết theo mình. Quanh chúng tôi lúc này chỉ còn tiếng gió, tiếng sóng và tiếng khóc thút thít. Rất buồn bã và thê lương.
Bất chợt, tiếng nói của ông chủ ghe và anh Thảo vang lên từ buồng lái. Thì ra họ đã không từ bỏ vai trò tài công và hoa tiêu trong lúc đối phó với tình trạng nguy khốn của chiếc ghe. Mặc dù không thể đổi mũi ghe đi đúng hướng, họ đã hết lòng hợp lực cùng nhau trong lúc thay phiên cầm lái, chèo và tát để đưa chiếc ghe vượt qua các cơn sóng dữ. Tôi căng mắt nhìn về phía họ trong khi tiếp tục lắng nghe những lời đối thoại. Niềm hy vọng hồi sinh trong lòng tôi khi tôi nghe lời báo của người hoa tiêu:
“Mấy anh em có thấy chỗ sáng đèn kia không? Chỗ đàng kia kìa.”
 Không những chỉ có những người được gọi báo, vài cái đầu của những người đàn bà chúng tôi ngẩng lên từ dưới sàn ghe, đưa mắt tìm kiếm. Lòng tôi rộn ràng vui sướng khi thấy một vùng sáng rực trên mặt biển đàng xa.
“Đúng rồi! Hình như là một chiếc tàu rất lớn.” Ông chủ ghe đáp lại.
“Không phải đèn tàu! Đâu có tàu nào có nhiều đèn như vậy! Tôi nghĩ đó là chỗ khoan dầu và đèn tự động sáng về đêm. Nhưng mà anh cứ cho mấy anh em chèo đến đó đi! Biết đâu có người ở đó giúp mình.
 Anh Thảo nói với giọng thuyết phục trong khi ông chủ ghe đáp lại lời anh bằng lời hối thúc rất hào hứng: “Mấy đứa nghe không? Cố gắng lèo mũi lái về phía dàn đèn chỗ đó mau đi! Đến được đó rồi nghỉ.”
Dù lời kêu gọi của ông chủ ghe phấn khởi thế nào, người cầm lái và người phụ chèo không hề đổi được hướng tiến của mũi ghe. Vẫn lệch so với chỗ đến dàn đèn khoảng chín mươi độ, chiếc ghe vẫn tiếp tục lao về phía trước. Đồng thời với sự lạc hướng, tốc độ của chiếc ghe tự dưng tăng lên một cách bất ngờ, nhanh hơn cả thời gian ghe chạy bằng máy kèm với buồm. Hốt hoảng, ông chủ gào những người đang cầm lái chèo theo cách chỉ dẫn của ông. Nhưng ông càng gào thét bao nhiêu thì chiếc ghe càng phóng xa chỗ có đèn sáng bấy nhiêu. Đang thất vọng trong lúc ngoái cổ nhìn về phía dàn đèn sáng, tôi bỗng giật mình vì tiếng rột roạt cọ sát bên ngoài mạn ghe nơi mình tựa lưng. Càng lúc tôi càng thấy nơi mình đang co ro nằm như được nâng cao hơn và hơi nghiêng ngược về phía sau một chút. Chỗ mạn thuyền nơi tôi tựa đầu và vai vào hình như bị chúc xuống trong lúc chỗ tôi đang cố gắng duỗi chân ra thì ngược lên cao hơn. Ngạc nhiên với sự lạ, tôi có cảm giác là ngay dưới đáy ghe chỗ mình nằm có một vật gì đó đang tạo sức đẩy cho sự di chuyển của chiếc ghe. Vật đẩy này đích thực là nguyên nhân của sự tăng tốc và là vật xúc tác đối với sự ù lì và chậm chạp của chiếc ghe giữa những đợt sóng lớn. Tôi chẳng hiểu lý do nào mà cái vật đẩy kỳ lạ ấy thực hiện điều này nhưng rõ ràng là nó đã kích thích chiếc ghe chúng tôi chạy nhanh hơn mà không cần biết đàng trước mũi ghe có bị cản trở gì hay không. Ghe chúng tôi vùn vụt lao trên mặt biển chẳng khác nào như chiếc xe máy đứt thắng đang vô định trên đường với một tốc lực kinh hồn. Cũng may là con đường mà tôi giả dụ chỉ là mặt biển mênh mông và trống vắng nên cái vật đẩy gì đó muốn đẩy chiếc ghe chúng tôi băng băng đến hướng nào thì đẩy mà không hề bị tai nạn giao thông vì sự va chạm trước mặt. Màn tối mù mịt của đêm và nước bắn tung tóe khiến tôi không thể nhìn thấy gì bên ngoài cái sườn ghe mặc dù nỗi tò mò trong lòng tôi càng lúc càng tăng theo tiếng rột roạt dị kỳ đang hòa lẫn vào trong tiếng ròng ròng đều đặn của nước chảy. Tốc độ cao tột cùng của chiếc ghe đã khiến cho tôi cảm tưởng sẽ bị rớt xuống biển một cách dễ dàng nên tôi đã phải bám chặt vào người cạnh bên và nhắm chặt mắt để đỡ bớt chóng mặt. Trong khi ói thốc tháo vì say sóng, tôi đã phải thụt chân về vì cái đạp của một người đang chập choạng bước qua. Lờ mờ qua đóm đèn pin hay đèn bão gì đó, tôi thấy khuôn mặt dáo dác của ông chủ ghe. Tưởng rằng ông muốn bước qua để đến chỗ đi tiêu, tại cuối đuôi ghe, nhưng tôi chỉ thấy ông len qua những người nằm cạnh, rảo mắt dò xét ngoài mạn. Không hiểu ông đã thấy gì và điều đó tốt xấu như thế nào, nhưng sau một hồi chăm chú soi rọi, ông đã lặng lẽ trở lại buồng máy. Tiếng anh Thảo vang to:
“Cố gắng bẻ mũi lái đi mấy anh em ơi! Mình đi xa chỗ dàn đèn quá rồi.”
 Một người phụ lái nào đó đáp lại:
“Hình như ghe mình bị vào luồng nước ròng, không ra khỏi được.”
 Tiếng ông chủ ghe vang lên:
“Có phải là ghe vướng vào trong nước ròng đâu, nhưng cái đà này thì hết còn cơ hội đến chỗ đèn sáng đó được nữa rồi!”
Tiếng rột roạt bên hông ghe từ từ nhỏ lần khi tiếng nước chảy ròng ròng vang to và đều đặn. Âm thanh như tiếng nước reo như khi thuyền rẽ ngang sóng lớn. Chỗ tôi nằm vẫn còn ở độ nghiêng không bình thường và mũi ghe vẫn chếch lên cao hơn so với mức trung bình khi lao về phía trước. Tôi không còn nghe tiếng đối thoại của ông chủ ghe và anh Thảo, và cũng rất hiếm khi nghe tiếng nước tạt. Dường như hai người đầu tàu này và những người đàn ông thanh niên khác đều bó tay trước tốc độ kỳ lạ của chiếc ghe. Khi chiếc đèn lù mù ở buồng lái tắt hẳn, nhiều tiếng ói, tiếng khóc và tiếng cầu nguyện vang lên liên hồi. Im lìm trong bóng tối, tôi thấy lòng quặn thắt khi nghe lời khẩn cầu thống thiết của ai đó:
“Xin ơn trên thương xót phù hộ cho con của con! Xin trời phật cứu mạng cho chúng con. Chúng con là những người hiền lành vô tội, trời phật ơi!”
  Ôm chặt Tinô trong lòng, tôi khóc rất thảm thiết. Trong lúc tuyệt vọng vì không nghĩ ra cách để giúp con mình thoát khỏi cảnh hiểm nghèo đang có, tôi lại nghe nhiều tiếng cầu nguyện thống thiết của những người đàn bà nằm gần vang lên liên tiếp. Chúng gợi cho tôi nhớ lại câu chuyện của chị Lan, người hàng xóm của tôi, và cuộc đối thoại của chúng tôi. Chị kể cho tôi nghe lý do chị cạo trọc đầu là chị được qua khỏi căn bệnh ngặt nghèo sau khi nguyện cầu phật bà Quan Thế Âm cứu giúp. Lúc đó, tôi nói với chị là nếu tôi cầu với trời phật điều gì thì tôi thì chỉ nguyện ăn chay vài tháng chứ không bao giờ hứa cạo đầu. Khi nói vói chị Lan như thế, tôi nghĩ lời nói của mình chắc chắn như đinh đóng cột, thế mà trong tình trạng hiểm nghèo lúc ấy, tôi đã thành tâm nguyện với Phật tổ và Phật bà Quan Thế Âm là tôi sẽ cạo trọc đầu khi gia đình tôi được đến bờ bình yên. Bờ mà tôi mong mỏi được đặt chân đến là chỗ sáng đèn của giàn khoan dầu mà anh Thảo phỏng đoán; nhưng, càng lúc nó càng xa tít cho đến khi chỉ còn là một đốm mờ rồi mất hẳn. Rã rời trong tuyệt vọng, tôi ôm Tinô chặt hơn, nhất quyết không buông nó ra dù phải chìm vào trong lòng biển lạnh. Những người nằm cạnh ép chặt vào tôi hơn nhưng không phải chỉ vì kiếm thêm hơi ấm hay để khỏi phải rơi xuống biển như trước đó. Tất cả đều chuẩn bị cho số phận cùng chết chung. Chẳng mấy chốc, tiếng cầu nguyện và than khóc từ từ vơi đi rồi chìm mất. Trong bóng đen của đêm chỉ còn tiếng gió gào và tiếng đều đều của nước chảy. Chúng tôi lần lượt thiếp dần vào giấc ngủ; mặc cho chiếc ghe lao đến những nơi mà biển trời định đoạt.