Trong đêm, nhiệt độ tụt xuống thấp thêm năm, sáu độ nữa. Vào sáng thứ hai, gió băng mang mưa tuyết tới trút xuống đường Filbert, làm mù mắt bất cứ ai dám liều lĩnh ra đường. “Con không tin nổi là như thế này mà vẫn phải tới trường,” Charlie than van khi chật vật bước đi trong gió. “Cũng phải tin thôi, Charlie, xe buýt tới rồi kìa! Chúc con may mắn!” Mẹ Charlie gởi cho nó một nụ hôn gió rồi quay đi, hướng về phía cửa hàng rau quả. Charlie chạy tới đầu đường Filbert, nơi chiếc xe buýt đang chờ để đón những học viên khoa nhạc tới Học viện Bloor. Charlie được xếp vô khoa nhạc chỉ vì ba nó đã từng học ở khoa này. Nhưng anh bạn Fidelio của nó thì khác. Fidelio thực sự sáng chói. Fidelio đã xí chỗ cho Charlie trên xe buýt. Ngay khi trông thấy mớ tóc hoe vàng xõa hờ và gương mặt rạng rỡ của bạn, Charlie liền cảm thấy khá hơn. “Học kỳ này sẽ chán ngấy cho coi,” Fidelio thở dài. “Sau những chuyện sôi động vừa qua.” “Em nghĩ chả có gì chán cả,” Charlie nói. “Chắc chắn em sẽ không vô khu đổ nát nữa đâu.” Chiếc xe buýt đỗ lại ở một góc quảng trường rải sỏi, có vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá ở giữa. Khi xuống xe buýt, bọn trẻ nhận thấy mỏ đàn thiên nga lủng lẳng những cục nước đá, và cánh chúng viền toàn sương giá. Hóa ra chúng đang bơi trên mặt hồ đóng băng. “Nhìn kìa,” Charlie phấn khích la lên khi đi ngang qua vời phun nước. “Phòng ngủ chung sẽ giống như tủ lạnh,” Fidelio nghiêm nghị. Charlie tiếc là nó đã không mang theo bình nước nóng. Thêm một xe buýt khác tấp vô quảng trường. Chiếc này sơn màu tím, và một đám trẻ con mặc áo chùng tím ùa xuống tràn ngập các bậc thang. “Tới rồi kìa!” Fidelio kêu lên khi một nữ sinh nhuộm tóc màu chàm gần như bay về phía chúng. “Chào, Olivia!” Charlie reo mừng. Olivia Vertigo túm chặt cánh tay Charlie: “Charlie, rất vui là thấy đằng ấy còn sống. Cả anh nữa, Fido!” “Ừ, còn sống thì mừng rồi,” Fidelio đáp. “Nhưng sao lại gọi tôi là Fido?” “Em quyết định đổi tên anh,” Olivia tỉnh bơ. “Phát âm Fidelio lưỡi phải uốn đầy cả miệng, còn Fido nghe ngầu hơn. Anh không thích à?” “Đó là tên một con chó,” Fidelio nói. “Nhưng thôi, để anh nghĩ kỹ lại chuyện này.” Bọn trẻ áo chùng xanh lá cây giờ cũng đã nhập vô đám đông. Lũ học trò khoa hội họa không ồn ào như tụi bên khoa kịch, cũng không kiêu kỳ như bọn khoa nhạc. Thế nhưng, nhìn những chiếc áo chùng xanh lá cây của chúng bay tốc lên, để lộ khăn quàng gắn khoen xê-quin tròn lấp lánh, hoặc những đường chỉ vàng óng trên nền áo len đen, người ta dễ có cảm tưởng rẳng đám trẻ trông im im này có khi còn vi phạm nội quy tợn hơn, nghiêm trọng hơn bọn mặc áo chùng tím hoặc xanh da trời. Những bức tường xám cao ngất của Học viện Bloor giờ đã sừng sững trước mặt. Hai bên cổng vòm đi vô có hai tòa tháp nhọn và, khi Charlie bước lên những bậc thang dẫn tới cổng, chợt nó thấy mình cứ dán mắt vô cửa sổ trên cùng của một tòa tháp. Mẹ nó từng bảo bà cũng cảm thấy có ai đó đang nhìn mình từ cửa sổ ấy, và giờ Charlie cũng có cảm giác tương tự. Nó hơi rùng mình, bèn vội vã đuổi cho kịp tụi bạn – tụi này đã băng qua khoảng sân lát gạch và giờ đang lên một dãy cầu thang rộng khác. Ở trên đầu cầu thang, hai cánh cửa nặng trĩu được trang trí bằng những tượng đồng đang để mở, đón đàn trẻ đông đúc. Bụng Charlie bỗng quặn lên khi nó đi ngang qua cửa. Nó có nhiều kẻ thù trong Học viện Bloor nhưng nó không biết tại sao lại thế. Tại sao họ lại muốn trừ khử nó? Thường xuyên muốn trừ khử nó. Một cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau dẫn tới khoa nhạc. Olivia vẫy tay rồi biến mất qua một cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ, trong khi bọn trẻ áo chùng xanh lá cây thẳng tiến đến cuối hành lang, nơi có một cây viết chì với một cây cọ vẽ cho biết đây là khoa hội họa. Charlie và Fidelio vô phòng để áo khoác xanh da trời trước, sau đó đi vô hội trường. Vì là một trong những đứa nhỏ nhất nên Charlie phải đứng ở hàng đầu, bên cạnh thằng bé nhỏ nhất trong tất cả đám học viên – thằng bé bạch tạng Billy Raven. Charlie hỏi Billy ăn Giáng sinh có vui không, nhưng Billy ngó lơ. Billy là trẻ mồ côi, và Charlie hy vọng thằng bé không phải nghỉ lễ một mình trong Học viện Bloor. Theo như Charlie nghĩ, thì Billy có một số mệnh còn tệ hơn cả cái chết. Nó nhận thấy Billy mang một đôi ủng phủ lông. Một món quà Giáng sinh, không nghi ngờ gì nữa. Mọi người đang hát đến nửa bài hợp xướng đầu tiên, thì một tiếng thét vang lên từ trên sân khấu. “Dừng lại!” Dàn nhạc giao hưởng ngừng chơi. Tiếng hát cũng dứt liền. Giáo sư Saltweather, trưởng khoa nhạc, bước ra sân khấu, khoanh tay trước ngực. Ông là một người lực lưỡng, thật nhiều tóc trắng, quăn tít. Hàng giáo viên khoa nhạc đứng đằng sau ông lộ vẻ lo lắng. Giáo sư Saltweather sắp sửa la họ cũng như la bọn trẻ. “Các người gọi đó là bài hát hả?” Giáo sư Saltweather gào lên. “Đó là những tiếng rên khủng khiếp. Những tiếng rú kinh tởm. Các người là những nhạc công cơ mà, ôi trời ơi là trời. Làm ơn hát cho có hồn, có điệu một tí! Nào… lại từ đầu nào!” Ông gật đầu ra hiệu cho dàn nhạc giao hưởng ở góc sân khấu và giơ cây ba-toong lên. Charlie hắng giọng. Ngay cả những lúc thuận lợi nhất nó còn không hát được, nữa là hôm nay hội trường lạnh đến nỗi nó không sao giữ cho quai hàm đừng run. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến những đứa trẻ khác, ngay cả những đứa hát hay nhất cũng đang co ro và run bần bật dưới lớp áo chùng xanh da trời. Mọi người hát lại từ đầu, và lần này, giáo sư Saltweather không có gì để phàn nàn cả. Những bức tường ốp gỗ rung lên vì tiếng đàn hát. Các giáo viên cũng cố gắng hết sức. Thầy O’Connor vui tính ngả cả đầu ra sau mà hát say sưa, cô Crystal, cô Dance mỉm cười, lắc lư thân mình, trong khi thầy Paltry già nhíu cả mày lại để tập trung. Tuy nhiên, thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, lại không hề há miệng. Charlie nhận ra thầy Pilgrim không hề đứng lên. Thầy ở sát bên cô Dance, dáng nhỏ nhắn, và thấy vốn cao nên người ta khó mà nhận ra là thầy vẫn con đang ngôi. Có gì xảy ra với thầy vậy? Thầy không bao giờ nhìn vô mắt ai, không bao giờ nói chuyện, không bao giờ đi loanh quanh như những giáo viên khác. Xem ra thầy hoàn toàn không nhận thức được về những gì xung quanh mình. Gương mặt xanh xao của thầy không bao giờ biểu lộ một nét cảm xúc nào, dù thật nhỏ. Cho đến nay là thế. Nhưng lúc này, thầy Pilgrim đang nhìn chăm chăm vô Charlie, và Charlie có cảm giác lạ lùng rằng hình như ông thầy này biết nó, không phải như một học sinh, mà như một ai đó. Cứ như người đàn ông lặng lẽ, tăm tối này đang cố nhớ ra nó. Thình lình, một tiếng “rắc” ghê hồn phát ra từ phía cửa sổ. Lớn đến nỗi mọi người đều nghe rõ, át cả tiếng của dàn đồng ca sôi động. Thậm chí giáo sư Saltweather cũng ngừng chỉ huy dàn nhạc. Một tiếng “rắc” nữa xuyên thủng lớp băng tuyết bên ngoài, và rồi một tiếng “ầm” kinh khủng làm rung chuyển cả những bức tường và cửa sổ. Giáo sư Saltweather buông cây gậy xuống và chạy ào ra cửa sổ. Vài đứa trẻ nhào theo, ông cũng không buồn đuổi chúng. “Quái lạ!” Giáo sư Saltweather thét lên, “coi cây tuyết tùng già kìa!” Cái cây khổng lồ giờ nằm vắt ngang khu vườn, cành lá gãy văng, bộ rễ tua tủa bị tróc khỏi mặt đất. Thêm một tiếng “ầm” nữa khi cái cành dái đỡ chóp cây đổ sụp xuống, và với một tiếng rú thảm thiết, cả thân cây chìm ngập vô trong tuyết. Đã có biết bao trò chơi từng diễn ra dưới gốc cây này; biết bao lời thì thầm bí mật đã được những tán lá rậm rạp, râm mát của nó giữ kín. Đó là cái cây yêu thích nhất của tất cả bọn trẻ, giờ thì nó đã đổ rồi, và chỗ nó đứng chỉ còn là một cái hố tuyết rộng với quang cảnh lam nham của những thành lũy lâu đài bỏ hoang. Tuyết đã phủ những gờ cao và bám vô bề mặt lởm chởm của những bức tường, nhưng cái màu đỏ như máu của những viên đá lớn vẫn nổi rõ mồn một trong khung cảnh trắng xóa. Khi Charlie nhìn trân trân vô những bức tường lâu đài, bỗng có cái gì đó xảy ra. Đó có thể là do ảo giác vì ánh sáng, nhưng nó chắc chắn còn có một cây tuyết tùng khác, nhỏ hơn cây này, đang hiện ra ở cánh cổng hình vòm của lâu đài. Lá nó đỏ và vàng, trong khi cái cây đổ kia thì còn chiếc là nào mang màu sắc mùa thu nữa. “Anh có thấy cái kia không?” Charlie thì thào với Fidelio. “Cái gì?” “Một cái cây đung đưa,” Charlie nói. “Nhìn kìa, bây giờ nó đang đứng bên bức tường tòa lâu đài. Anh không thấy à?” Fidelio nhíu mày và lắc đầu. Charlie cố chớp mắt để xua cái cây đi. Nhưng khi nó nhìn lại thì cây vẫn ở đó. Không ai khác ngoài nó trông thấy cái cây. Charlie lại có cảm giác quặn lên quen thuộc ở bụng. Cảm giác này luôn xảy ra khi nó nghe thấy tiếng nói trong hình, nhưng lần này không có tiếng nói nào cả. Một tiếng “rầm” từ trêm sân khấu khiến Charlie ngoái lại nhìn. Thầy Pilgrim vừa mới đột ngột đứng lên, hất chiếc ghế đổ chỏng gọng. Thầy dòm lướt qua đầu bọn trẻ, nhìn ra vườn, bên ngoài cửa sổ. Rất có thể thầy đang nhìn cây tuyết tùng đổ, nhưng Charlie chắc chắn là thầy đang nhìn ra xa, tới những bức tường đỏ của tòa lâu đài. Phải chăng thầy cũng trông thấy cái cây lạ đang đung đưa? Giáo sư Saltweather rời khỏi cửa sổ. “Bài tiếp theo, bay,” ông vừa hô to vừa bước phăm phăm trở lại sân khấu. “Với cái đà này bọn bay sẽ không bao giờ lên lớp được.” Sau giờ tập họp, Charlie tới lớp học của thầy Paltry-Kèn-Sáo đứng tuổi và nóng nảy. Thầy than là dạy Charlie Bone chơi nhạc cũng chẳng khác gì ráng đổ cho đầy một cái thùng lủng đáy. Ông thầy già cứ thở dài sườn sượt, hết lau kính lại vụt cây gậy đen đét lên giá nhạc, trong khi Charlie đứng sát ngay trong tầm gậy. Charlie cho rằng, nếu thầy Paltry mà cứ tần công nó theo cái kiểu này, thì cuối cùng nó sẽ mất sạch răng – và có thế nó mới được giải thoát khỏi những giờ học nhạc khủng khiếp. “Đi, Bone, đi đi!” Thầy Paltry gầm gừ sau bốn mươi phút tra tấn lẫn nhau. Charlie sung sướng vô ngần. Tiếp theo là mang ủng vô và bươn ra ngoài vườn tuyết lạnh. Trong giá lạnh căm căm, bọn trẻ được phép mặc áo chùng ở ngoài trời; vào mùa hè, áo chùng phải để lại trong phòng để áo khoác. Fidelio ra khỏi lớp học vĩ cầm hơi trễ, cho nên khi hai đứa chạy ra ngoài vườn thì tuyết đã bị ba trăm đứa khác giày xéo rồi. Những thằng người tuyết đang được dựng lên, những trận chiến ném tuyết đang hồi gay cấn, và ông Weedon, người làm vườn, đang vất vả xua đuổi lũ trẻ tránh xa gốc cây gãy. “Em muốn xem cái gì ở cạnh lâu đài,” Charlie nói với Fidelio. “Em bảo là em không muốn đến gần khu đổ nát nữa mà,” Fidelio nhắc nhở. “Ừ, nhưng mà… như em nói đó, em thấy một thứ. Em muốn xem có dấu chân gì không.” “Thôi được,” Fidelio nhún vai một cách hiền lành. Khu chúng chạy ngang qua cây tuyết tùng gãy, Billy Raven gọi to: “Hai anh đi đâu vậy?” Gần như không suy nghĩ, Charlie vọt mồm: “Không phải việc của em.” Thằng bé bạch tạng liền sầm mặt lại, và nép mình vô đám cành lá tuyết tùng r!!!13144_24.htm!!!
Đã xem 108527 lần.
http://eTruyen.com