goài điếm, mưa càng rơi càng lạnh lẽo, men hiên nhà mái ngói, chảy miết không ngừng. Qua một phen náo nhiệt, kẻ gan bé sợ phiền sớm đã trốn về phóng, mấy bàn còn người ngồi lại đều là hạng to gan cả. Người trong tiêu cục vẫn ở lại, Kim hòa thượng, Vương Mộc cùng ba anh em Trương gia tụm vào một chỗ, hẳn họ vốn đã có hẹn trước; hai lão già Đỗ, Tiêu vẫn ngồi nguyên xi trong góc, thiếu niên mặc áo đen vẫn ngủ gục chưa tỉnh; ông cháu lão đầu mù chẳng có nơi nào để đi, đành cứ ngồi cạnh lò sưởi; còn có Thẩm Phóng, Tam Nương Tử cùng mấy kẻ qua đường to gan lớn mật từng trải thế đời. Chỉ khó xử cho Hà bổ khoái cùng Lai Phúc sáu người kia, đi cũng không được mà ở cũng không xong, cứ phải gượng gạo tại chỗ. Tam Nương Tử thấp giọng nói với Thẩm Phóng: “Đỗ Hoài Sơn kia hiệu là Động minh thủ, Tiêu Tứ Ẩn trên giang hồ hiệu là Luyện đạt kiếm, là hai nhân vật cực kỳ lợi hại trong giang hồ, nghe nói mấy năm gần đây chuyên lo liệu lương thảo, chiêu binh mãi mã cho nghĩa quân Hoài Thượng. Hai người này đều là cáo già, Động minh, Luyện đạt một đời rất ít giao thủ với người khác, đánh không lại thì tuyệt đối không đánh, đã đánh thì nhất định không thua.” Thẩm Phóng khẽ gật đầu, Tam Nương Tử lại ngầm chỉ Tần lão gia tử nói: “Vị phó tổng tiêu đầu Lâm An tiêu cục kia họ Tần tên Ổn, ngoại hiệu Ổn như Thái Sơn, áp tiêu ba mươi năm, thời buổi binh đao loạn lạc nhưng trước giờ chưa thất thủ lần nào, tên tuổi lẫy lừng quyết không phải hạng thùng rỗng, mấy người Kim hòa thượng so với họ vẫn non lắm.” Thẩm Phóng hỏi: “Nàng làm thế nào mà biết hết thế?” Tam Nương Tử bật cười: “Chàng quên thiếp chính là nữ cường đạo giết người phóng hỏa sao?” Đèn dầu trong quán tối tăm, ánh lửa chiếu trên nền đất vốn có chút quái dị nhưng ánh lên mặt Tam Nương, chỉ cảm thấy xinh đẹp động lòng, phong tình vô hạn. Người bên cạnh cũng thấy kỳ lạ, không hiểu sao đôi vợ chồng văn sĩ này lại can đảm như thế. Tần lão gia tử phía tiêu cục bên kia bỗng ngẩng đầu, nghiêng tai nghe ngóng, sắc mặc khẽ biến. Không hẹn mà cùng, Đỗ, Tiêu hai người nhìn nhau một cái, thần sắc tựa cũng kinh ngạc, vành tai trái của Tiêu Tứ Ẩn càng đột nhiên vểnh lên, hơi thở cũng nín lại. Qua một hồi, mọi người mới nghe thấy trong tiếng gió mưa bên ngoài vọng tới từng hồi từng hồi nhạc ngựa, thấp thoáng trước sau, lẫn trong tiếng gió mưa, di chuyển không ngừng. Đây tuyệt đối không phải một con tuấn mã, nói không chừng phải là ba hoặc bốn chục con tuấn mã, tiếng vó giẫm loạn, không biết vì sao lại phải phi chạy trong đêm mưa. Sắc mặt Vương Mộc liền động, nghĩ một chút, chợt nói: “Đề kỵ?” Sắc mặt Kim hòa thượng liền trở nên căng thẳng, vểnh tai lắng nghe, gật đầu, bực bội nói: “Hình như đúng.” Vương Mộc lẩm bẩm: “Sao lại nhiều như thế?” Ba anh em Trương gia cũng cảm thấy lo lắng, Kim hòa thượng trước nay hiên ngang, giờ cũng phải vươn tay cầm lấy thiền trượng, Vương Mộc bặm chặt môi, dù là Tần Ổn bàn bên kia cũng chẳng hề thoải mái. Thẩm Phóng lấy làm lạ, không biết vì sao người trong quán ai nấy đều hoảng hốt, chỉ có mấy người Hà bổ khoái là trên mặt lộ vẻ vui mừng. Một lúc sau, Tần Ổn bên kia mới thả lỏng chân mày, nói: “Không phải tới bên này.” Đỗ Tiêu nhị lão bên kia cũng gật đầu, hai bên bọn họ vốn không liên quan gì tới nhau, rõ ràng vì chuyện Đề kỵ bất ngờ xuất hiện đã phá đi lằn ranh giữa hai bên. Mọi người nghe thế mới yên lòng một chút. Lại thấy Tần Ổn quay đầu nhìn sang phía hai người Đỗ, Tiêu gật đầu, khuôn mặt lộ vẻ hàm súc, xem như một nụ cười, thấp giọng hỏi: “Là vây giết?” Hai người kia sắc mặt ngưng trọng, trầm ngâm một lúc rồi gật đầu. Đây là mấy lão gia tửng hồ dựa vào kinh nghiệm mà phán đoán, xung quanh tự nhiên tin phục. Ba người kia cũng không nói tiếp, trong lòng lại đang nghĩ: là nhân vật nào đáng giá đến mức Đề kỵ hiệu úy phát ra ba, bốn chục thiết kỵ đêm mưa tập kính, dốc sức vây giết. Cơn mưa đêm nay đúng là càng rơi càng thê lương rồi. Lúc trước, Thẩm Phóng nghe nói Phùng Tiểu Phì Tử là người trong cái gì mà “Đề kỵ tam thập nhị vệ”, đám con cháu bám ống quần cha ông theo hầu Hoàng đế, một đám hư danh, cũng chẳng ra gì, bây giờ nghe mấy người kia khẩu khí trịnh trọng, nói chuyện cũng không dám to tiếng, xem ra trong Đề kỵ nhất định có không ít nhân vật phi thường, thậm chí là cao thủ tuyệt đỉnh, tổ chức lại dày đặc, nếu không sao có thể bức ép đám người lang bạt kỳ hồ này bất an? Hắn mới hỏi Tam Nương Tử: “Đám Đề kỵ rốt cuộc là hạng người nào?” Sắc mặt Tam Nương Tử cũng nghiêm túc hiếm thấy, nàng nghĩ một chút rồi đáp: “Tướng công,... chàng còn nhớ mười năm trước, ở Cao Thăng lão điếm?” Thẩm Phóng gật đầu, đương nhiên hắn nhớ, mười năm trước hắn chính ở Cao Thăng lão điếm gặp gỡ Tam Nương, khi ấy, Tam Nương đang mang bệnh rất nặng, trên người còn bị thương, một thân nữ nhi lâm bệnh chốn tha hương, Thẩm Phóng cũng từ thương thành yêu, sau lại từ yêu mà kính, cuối cùng nên nghĩa vợ chồng với nàng. Tam Nương Tử im lặng một thoáng mới nói: “Khi ấy là lúc Đề kỵ vừa mới tổ chức thành, thanh thế còn xa mới được như hôm nay nhưng kể cả như thế cũng đã không thể xem nhẹ được. Lần ấy, lúc thiếp gặp chàng, không phải là thiếp ốm mà là thụ thương. Thiếp chính là bị thương trong tay bọn chúng. Tập tra hiệu úy Nhan Kỷ Cương, một đời này thiếp không thể quên, lợi hại, thật lợi hại! Ngũ bộ sưu hồn thủ của hắn, thiếp tình nguyện đời này không gặp lại nữa. Có biết vì sao thiếp gả cho chàng không? Từ khi Đề kỵ trải khắp, trên giang hồ gần như không còn thân phận nào có thể trà trộn vào, đặc biệt là một dải Mân Chiết Ngô Cán, càng là bát nước không lọt. Bọn chúng tổ chức rất chặt chẽ, cũng rất phức tạp, trong đó có con em quan lại thương buôn, cũng có đám trộm cướp giang hồ được chiêu hàng, có cao thủ trong các môn phái, lại có cả ngục thừa từ Đại Lý Tự. Gã Phùng Tiểu Phì Tử kia chính là đại biểu cho đám có bối cảnh thế lực quan trường, tới hắn cũng nói e sợ Viên lão đại, đó thật sự có thể gọi là cao thủ tuyệt đỉnh, võ lâm thiên hạ, thất môn tam phái còn chưa nghe có ai dám nói là đối thủ của hắn. Hắn là lão đại của Đề kỵ tam thập nhị úy, năm xưa mới hơn ba mươi, vậy mà “Nhất kiếm tam tinh” nổi tiếng từ trước hồi nam độ chết trong tay hắn. Từ khi hắn tới Đề kỵ, quân kỷ ngay ngắn, thế lực bành trướng. Có bọn chúng, địa vị của Tần Thừa tướng yên ổn hơn nhiều, bất luận quan lại hay thương buôn, quân đội hay thổ phỉ, trong triều đình hay ngoài thôn dã, kẻ thuận theo được hưng vượng, kẻ đối nghịch thì tiêu vong. Nhắm vào nơi nào, ắt giết không tha.” Trước nay, Thẩm Phóng chưa từng nghe Tam Nương kể chuyện ngày trước, hắn tôn trọng Tam Nương nên cũng không hỏi. Không ngờ hôm nay Tam Nương hình như muốn kể cho mình nghe rồi. Chỉ thấy Tam Nương Tử nghĩ một chút rồi lại nói: “Mười năm rồi, cuối cùng thiếp cũng rút cây Tử kinh mộc thoa ấy ra.” Ánh mắt nàng mê man, ngập ngừng: “Chàng biết không? Tên của thiếp là Kinh Tử. Năm xưa cái tên này trong võ lâm Giang Chiết cũng xem như có chút tiếng tăm. Hồi bé, thiếp cũng giống tiểu cô nương hát rong kia, chịu không ít khổ cực. Thuở ấy, đang trong cơn loạn li, thiếp theo một gánh tạp kỹ biểu diễn đi trên dây. Nhưng thiếp may mắn hơn nó, thiếp gặp được một vị lão nhân, ông ấy biết võ công. Thật ra thiếp chỉ theo ông ấy trọn ba tháng, ông ấy cho thiếp một cây chủy thủ, còn truyền cho thiếp một bộ võ công, một thiên khẩu quyết, dạy xong ông ấy nói: “Tư chất con không tồi, đáng tiếc ta không thể ở lâu.” Sau đó hỏi thiếp: “Về sau gặp phải kẻ ức hiếp đám tỷ muội các con, con làm thế nào?” Thiếp nói: “Giết!” Ông ấy cười ha ha, nói: “Được, ta không dạy nhầm người.”, rồi đi mất.” “Bọn thiếp làm nghề này, người ta gọi là nữ kỹ, có múa võ, đi trên dây, xiếc gậy, ca hát, thêu hoa. Tỷ muội bọn muội có Trương Chân Nô đánh đàn, Thẩm cô cô hầu cờ, Lâm Tứ Cửu Nương bắn nỏ, Sử Tuệ Anh hát tạp kịch, Hắc ma ma diễn rối bóng cũng xem như mỗi người một tuyệt kỹ, nức tiếng thiên hạ. Thiếp giao hỏa với họ, kẻ khác đều nói bọn thiếp là đám tiện nữ, khinh rẻ bọn thiếp. Có điều làm cái nghề này, bọn thiếp cũng đã nghĩ thoáng nhiều rồi, không bận tâm kẻ khác khinh hay không khinh. Nhưng dù có vào chốn phong trần cũng không thể để kẻ khác ức hiếp. Đám người giàu thường hay nói: “Vị tha”, nhưng việc Kinh Tam Nương thiếp muốn làm là báo thù!” “Bọn thiếp tổng cộng có mấy chục tỷ muội, mỗi người một nghề. Có người biết dăm ba chiêu, cũng có người yếu ớt hoàn toàn không biết võ công, nhưng đều có một tấm lòng, cốt cách quật cường. Nam nhân các người lúc nào cũng bàn đại nghĩa xa vời, nếu thấy được tỷ muội bọn thiếp khi ấy một người gặp nạn người bên cạnh nhảy vào dầu sôi, bỏ mình cứu giúp chỉ sợ đều xấu hổ muốn chết! Trong đám tỷ muội chúng thiếp có người chết thảm dưới côn uy trên công đường, có người vung dao tự vẫn trước bọn dâm ô... Vừa rồi cô bé kia kể chàng cũng nghe thấy rồi, thiếp không biết nàng là ai, là vị tỷ muội nào!... Trong đám chị em, thiếp giết người phạm tội nhiều nhất, chúng tỷ muội vì che chở cho thiếp mà đã bỏ mạng mất bảy người.” Tam Nương Tử cười thảm: “... Cho nên cây Tử kinh mộc thoa kia chính là nhuốm máu mà thành! Người trong giang hồ gọi bọn thiếp là “Bồng môn”, cây mộc thoa đó chính là phù hiệu của thiếp, máu nhuốm trên cây thoa ấy không phải chỉ là máu huyết của mình thiếp, mà còn là máu tươi của các tỷ muội. Năm xưa, cây Tử kinh thoa lệnh này trong đám nữ tử yếu đuối trên giang hồ cũng có thể coi là không ai không biết, không ai không hiểu, mười bước giết người, nghìn dặm báo thù... Phàm là nghe thấy chuyện bất bình, thiếp không hề để yên, nào sợ liên lụy nhiều người bỏ mạng. Mấy kẻ bọn thiếp đây tuy sống tạm bợ trên đời nhưng cũng không thể để kẻ khác tàn hại, chỉ cần đạo nghĩa vẫn còn, đó đây nào có tiếc gì.” Thở dài một tiếng, nàng chỉnh lại tâm tình, lại kể: “Năm đó, có một vị tỷ muội bị một đám côn đồ cưỡng hiếp đến chết ngoài thành Vô Tích, quản phủ bắt được bọn chúng, chỉ phán sung quân, bởi trong lòng mọi người giết hại nữ kỹ không giống như giết hại con gái nhà lành. Đây cũng không nói làm gì, một vị tỷ muội của thiếp ở Vô Tích lại nghe bảo, đám côn đồ kia một mực khẳng định lúc bọn chúng cưỡng gian, người đó đã chết rồi, với lại y phục trên người không chỉnh tề, là một vị quản gia trong phủ Tri phủ Vô Tích ném cái xác này ra ngoài thành, bọn họ thực ra chỉ xem là cưỡng gian xác chết. Bọn chúng nói vậy, tội sung quân liền phán thành tội tử hình. Thiếp nghe được chuyện này, biết bên trong nhất định có uẩn khúc, vị tỷ muội bỏ mình kia của thiếp sống đời trong sạch, giữ mình như ngọc, tính khí của thiếp khi đó không ngồi yên được một khắc, lập tức chạy tới Vô Tích, nghe ngóng được cái ngày vị tỷ muội kia chết, nàng được Tri phủ triệu tới hầu tiệc, tiệc mời Tả đô ngự sử, mấy vị quan trong Binh mã ti đều là đám trác táng, phường vô sỉ. Thiếp liền đoán được có thể là chuyện gì rồi. Hai ngày sau thiếp nghe nói Tả đô ngự sử muốn đáp lễ, những kẻ có mặt hôm người tỷ muội kia của thiếp bị hại đa số đều sẽ đến, thiếp bèn nhờ người giới thiệu, cải trang làm người đi dây mãi nghệ trà trộn vào. Hôm ấy, một bàn yến tiệc nhỏ được bày trên đình ở hậu sơn nhà hắn, mấy đứa quan lại ấy y quan nhẹ nhàng ngồi đấy, đại khái là nghe bảo thiếp tư sắc không tệ, liền chỉ gọi mình thiếp tới, đầu tiên vẫn còn làm bộ làm tịch, bảo thiếp mắc dây lên cột đình, đi tới đi lui cho bọn chúng xem, thiếp cũng biểu diễn. Chẳng mấy chốc thiếp nghe một đứa trong bọn chúng nhỏ giọng bảo: “Con nhỏ này không tệ, bảo đám hạ nhân lui xuống hết, thế nào, bọn mình lại chơi nó một trận như bữa trước ấy.” Tả đô ngự sử kia cười gian rồi sai hạ nhân lui xuống hết, bảo: “Xuống hết chân núi cả đi, bất kể nghe thấy cái gì, dù có là giết người cứu mạng cũng thế, cũng không đứa nào được phép lên.” Trong lòng thiếp liền rõ là chuyện gì rồi, đây đúng là một bầy cầm thú! Mới cười lạnh mà nghĩ: “Càng hay!” Đợi bọn người hầu kia lui hết, mấy kẻ làm quan kia mới lộ ra vẻ bẩn thỉu, mê mẩn nhìn thiếp, hỏi xem thiếp có còn món gì hay không, dâng hết lên đi. Thiếp nghe ra bọn chúng đang đùa cợt mình, mới nói: “Tiểu nữ còn có thể múa chủy thủ.” Bọn chúng nghe thấy một đứa con gái có thể múa chủy thủ, càng thấy vui vẻ, vội nói: “Mau, mau”. Thiếp chăng thừng thành từng đường vây quanh đình, bọn người bên trong vẫn cứ cười, cho rằng thiếp đang tự bủa lưới chính mình mà không biết bản thân chẳng thoát ra được nữa rồi. Thiếp mới bắt đầu múa chủy thủ, trong lòng nhớ tới người tỷ muội đã mất, tâm tình phẫn hận, vị sư phụ dạy thiếp năm xưa từng nói bộ võ công đó cảnh giới chiêu số cao nhất chính là “u buồn nhịp nhàng, cảm kích mênh mang”, lúc trước thiếp không hiểu nhưng ngày đó tựa như thấu được chút gì rồi. Thiếp nghe mấy bọn quan kia vỗ tay cười nói ồn ào, nhìn tới nhỏ nước dãi, cực kỳ đáng ghét. Thiếp múa đến thế cuối cùng “Bài như giang hải”, thân thể theo chủy thủ lao đến, một đao cắm vào cột đình, ngập tới tận cán, mấy kẻ kia nhìn mà hoảng hốt, mặt biến sắc, thiếp đứng giữa đình hỏi: “Hôm đó rốt cuộc là kẻ nào gian sát Như Ngọc?” Bọn chúng còn định tỏ quan uy, thiếp đã rút chủy thủ chém chết một đứa tiểu nhân cáo mượn oai hùm rồi cười hỏi: “Là kẻ nào?” Bọn chúng giờ mới thấy hoảng, định chạy nhưng lại bị thừng cản lối, muốn kêu, thiếp cười bảo: “Các ngươi dặn dò rồi đấy thôi, đám dưới kia bất kể nghe thấy gì cũng không dám lên đâu, kể cả hô “cứu mạng” cũng vô dụng. Các ngươi nói coi, có phải đứa nào cũng có phần không?” Bọn chúng thấy thiếp vẫn còn thân thiện, đứa nào đứa nấy liền quỳ xuống dập đầu, nhận tội. Thiếp hỏi: “Hôm đó cô ấy có hô cứu mạng không?” Bọn chúng mặt vã đầy mồ hôi mà gật đầu, thiếp rơi lệ rồi cất giọng hô to “Cứu mạng”, bọn chúng đều cho rằng thiếp điên rồi, thiếp kêu một tiếng giết một mạng, rồi lại thổi rơi máu dính trên chủy thủ, bọn chúng đúng là đám nhát gan, đến kêu cũng không dám, đều sợ rúm người, chỉ ảo tưởng rằng không lên tiếng rúm ró một chỗ thì cuối cùng thiếp có thể bỏ qua chúng. Nhìn bộ dạng thảm hại của chúng, thiếp thật vui vẻ, cho tới khi thiếp giết tới thằng cuối cùng, bên dưới chẳng có ai dám lên, thiếp vẫn một mực cao giọng gào “cứu mạng”.” Tuy nàng chỉ nhỏ nhẹ kể lể nhưng Thẩm Phóng nghe mà kinh tâm động phách. Tam Nương Tử mặt mũi đỏ bừng, đưa tay vén mai tóc. “Cứ thế thôi thì không nói làm gì, hôm ấy, tuy thiếp toàn vẹn rút lui nhưng chẳng phải cũng đã phạm vào phép vua lệ trời của Triệu lão nhi rồi sao? Đề kỵ tam thập nhị vệ vừa mới lập nên, bèn lấy chuyện này lập thành đại án xử lý, thiếp thân gái yếu ớt đấu không lại bọn chúng, bị thương, bị bệnh, nhưng bọn chúng cuối cùng vẫn không tìm nổi thiếp. Ai mà ngờ được đứa dạ xoa ma nữ như thiếp ấy thế mà lại có bậc danh sĩ Trấn Giang phong lưu nho nhã chịu cưới về chứ?” Nói rồi, đôi má nàng ẩn tình, cười nói: “Thiếp độc ác, tàn nhẫn như thế, chàng biết được nhất định là hối hận rồi.” Thẩm Phóng chỉ cảm thấy chưa bao giờ yêu kính Tam Nương tới nhường này, bèn nắm lấy tay nàng, nói: “Tam Nương...”, rồi lại không thốt nên lời. Mưa vẫn luôn làm bầu không khí thêm nặng, đêm đã khuya, tiếng nhạc ngựa bên ngoài thi thoảng vang vọng, đông tây nam bắc, kêu loạn khắp nơi. Kim hòa thượng vỗ đùi, nói: “Đánh tới rồi!” Chỉ nghe tiếng nhạc ngựa vang lộn xộn, tựa như vây được ai đó, chợt có tiếng hô nhỏ, liền có một tiếng nhạc ngựa đứt lặng, Đỗ Hoài Sơn ngồi trong góc nhướng mày nói: “Xuất thủ thật nặng, người chết đến kêu đau cũng chẳng kịp.” Hẳn người bị vây kia là một cao thủ. Chợt lại nghe có tiếng hô nhỏ khác, lại một lần người chết ngựa vong, cũng bớt đi một vòng nhạc ngựa. Tiêu Tứ Ẩn nói: “Đề kỵ còn ác hơn, người là do địch nhân giết, ngựa lại do bọn họ một đao chém chết, thà giết ngựa còn hơn có ngựa trống để người kia cướp chạy đi mất.” Bên ngoài có tiếng gió, tiếng mưa, tiếng nhạc ngựa, trong phòng có ánh nến, ánh lửa, ánh sáng phản chiếu trong mắt người, mấy kẻ giang hồ lão luyện vểnh tai nghe ngóng, thi thoảng bình luận một câu, cực kỳ thỏa đáng, cũng rúng động kẻ khác. Chợt nghe nhạc ngựa đuổi gấp về phía đông, sắc mặt mấy người đều giãn ra: “Chạy về phía đông rồi!” Mọi người đều thống hận Đề kỵ, đoán rằng người bị bọn chúng vây bắt kia quá nửa là người tốt. Đỗ Hoài Sơn nghĩ một chút rồi chợt nói với Tiêu Tứ Ẩn: “Huynh cảm thấy ta so với hắn thế nào?” Lão chỉ vào người bị vây kia, hai người là tri giao cho nên Tiêu Tứ Ẩn có thể thẳng thắn dứt khoát, chỉ thấy Tiêu Tứ Ẩn lắc đầu. Đỗ Hoài Sơn lại hỏi: “Huynh thì sao?” Tiêu Tứ Ẩn càng lắc đầu. Đỗ Hoài Sơn nổi hứng hỏi: “Hai lão già chúng ta liên thủ thì sao?” Tiêu Tứ Ẩn nghĩ một lúc. “Kém một đoạn, kém một đoạn.” Đỗ Hoài Sơn ngược lại càng cực kỳ cao hứng: “Phen này Đề kỵ rắc rối to rồi, có nhân vật bậc này đối đầu với chúng, chúng ắt phải cuống cuồng một trận đây.” Lời còn chưa dứt, trong phòng bỗng có gió thổi rung đèn, mọi người ngẩng đầu, lúc ánh đèn tỏ lại, ở cửa đã có thêm người, nói người này đứng ở cửa thì cũng không phải, hắn mặt mũi trắng bệch, phải tựa vào tường mới miễn cưỡng đứng vững, dưới nách vẫn còn cắp một đứa nhỏ, Thẩm Phóng nhìn qua, hóa ra chính là vị hán tử dọa lui Văn Đình Các, Cảnh Thương Hoài. Thương thế của hắn rõ ràng càng nặng hơn rồi, máu trên người bị nước mưa xối vào, màu sắc nhạt đi nhưng cũng càng thêm sống động. Hắn hít vào vài hơi mới từ từ bình phục lại, thả đứa bé xuống, nhất thời không nói năng gì. Tần Ổn đã đứng dậy, ôm quyền gọi: “Cảnh đại hiệp!” Hán tử kia lắc đầu: “Ta không phải tới vì tiêu ngân.” Lúc ấy, Tần Ổn mới như yên lòng. Trong quán đều là cao thủ, nhưng bị ánh mắt của hán tử người mang thương tích này quét tới đều cảm thấy trong lòng phát lạnh. Cảnh Thương Hoài nhìn người trong điếm, tựa đã hơi an tâm, ôm quyền hành lễ một vòng: “Huynh đệ vì đứa bé này mà bị Đề kỵ đuổi giết, thân lại mang trọng thương, huynh đệ có chết vốn cũng chẳng đáng tiếc, chỉ tiếc cho chút máu mủ của cố nhân này. Đề kỵ thiết vệ bên ngoài đã tưởng lầm ta chạy về phía đông, nhất thời còn chưa tìm được tới đây, cho nên huynh đệ muốn lưu đứa bé này tại đây, hy vọng nó qua được phen kiếp nạn này, đây cũng là cách khi không còn cách nào, bằng như có vị nào chịu trượng nghĩa thu nhận, đấy chính là tạo hóa của nó, huynh đệ tự sẽ dẫn dụ truy binh, không để liên lụy đến mọi người.” Hắn lòng dạ thẳng thắn, tuy gặp hung hiểm, phải cầu người khác nhưng vẫn cứ đem lợi hại trong đó nói ra rõ ràng, để người khác tự lựa chọn, không để người ta ngày sau hối tiếc. Chúng nhân thấy võ công tới bậc Cảnh Thương Hoài mà cũng trọng thương thế này, có thể thấy cứu đứa bé này không khỏi can hệ rất lớn. Người đang ngồi đây ai ai cũng vẫn là kẻ có lòng, nhưng muốn vừa lo toan cho bản thân, lại phải chiếu cố cho đứa trẻ, một tiếng đáp ứng này biết là rất nặng nề nên đều trầm ngâm khó quyết. Qua một thời gian, Cảnh Thương Hoài thấy không ai tiếp lời, cười khổ nói: “Là mệnh của đứa bé này thôi! Thời gian không nhiều, chỉ mong các vị liệu bề che chở, cũng đừng hại thêm.” Hắn tuy như hùng sư trước khi chết nhưng dư uy vẫn khiếp người, mắt nhìn đứa bé một cái, lắc đầu, quay người định đi. Bỗng nghe có tiếng nữ nhân trong trẻo cất lên: “Cảnh huynh cứ đi, đứa trẻ ta sẽ chiếu cố.” Chúng nhân kinh ngạc, nhất tề quay đầu, thấy người lên tiếng lại là một cô gái, chính là Kinh Tử Kinh Tam Nương. Hán tử kia gật đầu với Tam Nương Tử, dường như rất cảm kích, ngẩng mặt hít một hơi, bỗng dưng xuất thủ, xông về phía Hà bổ khoái đằng sau lưng, Hà bổ khoái cả kinh, vội vàng xuất thủ theo nhưng sao đánh trúng được Cảnh Thương Hoài? Hán tử đó tay kia liền hướng tới bốn công sai thủ hạ của Hà bổ khoái vung tới. Hà bổ khoái xuất thủ sau, mắt thấy Cảnh Thương Hoài đã chế trụ xong bốn thủ hạ của mình mà mình vẫn còn cách người kia một bước, lòng càng thêm hoảng, bèn xoay eo rút đao, lại thấy Cảnh Thương Hoài tóm một cái đã bắt được đơn đao của mình, kế đến bản thân cũng bị hắn chế trụ bịch một tiếng ngã xuống đất. Giờ mọi người mới biết ánh mắt Cảnh Thương Hoài cực chuẩn, trước khi đi muốn quét sạch lối cho Tam Nương Tử, miễn mấy người này gây họa, bèn không khỏi vừa kính trọng vừa khâm phục. Cảnh Thương Hoài xuất thủ xong, kìm không được hít vào một hơi, hẳn vì vết thương trên lưng khá nặng, mặt tỏ vẻ đau đớn, chuyển thân ra khỏi cửa đi mất. Tam Nương Tử nhìn theo bóng hắn rồi cười tủm tỉm, bế đứa bé về chỗ mình, nói với Thẩm Phóng: “Thế này chàng hài lòng chưa?” Thẩm Phóng biết nàng đang nói tới việc thu nhận đứa bé, lắc đầu bật cười: “Tự nàng muốn rước lấy phiền phức, lại cứ muốn quàng lên người ta.” Tam Nương cũng bật cười. Hai người đều biết việc này hung hiểm, nhưng chỉ cảm thấy có tri âm bầu bạn, chết thì có sao? Ngày tháng sau này, chỉ cầu thoải mái một đời thống khoái, thống khoái, thống khổ ngày khác vị tất không phải khoái lạc hôm nay. Đứa bé kia cực kỳ yếu ớt, sớm đã hôn mê rồi, Tam Nương Tử lấy rượu hơ dưới mũi nó một lúc, lại nhấn huyệt Nhân Trung, lát sau đứa bé mới tỉnh lại. Vừa thấy trước mặt chỉ có Thẩm Phóng với Tam Nương, lại còn ở một tiểu điếm xa lạ, không thấy Cảnh Thương Hoài, trong mắt đứa bé không khỏi lộ vẻ hoảng hốt. Tam Nương Tử tuy chưa có con nhưng vẫn là phụ nữ, bèn đưa tay xoa nhẹ đầu nó, nói: “Đứa bé ngoan, đừng sợ, Cảnh bá bá của con ra ngoài lo chuyện rồi, giao con cho ta chiếu cố.” Nàng vốn định nói Cảnh Thương Hoài “một lúc nữa sẽ quay lại”, có điều chính mình cũng khó biết Cảnh Thương Hoài đi chuyến này còn có thể quay lại được nữa hay không. Đứa bé yên lòng một chút, nó cực kỳ tin tưởng Cảnh bá bá, nghe nói hắn giao mình cho người phụ nữ này liền cảm thấy người phụ nữ này thân thiết hơn một chút. Tam Nương Tử hỏi: “Bé con, con tên là gì?” Đứa bé kia đáp: “Con tên Tiểu Lục Nhi.” Tam Nương Tử bật cười: “Thế nhà con ở đâu? Có phải ở Lâm An không? Cha con là ai, họ gì?” Sở dĩ nàng hỏi như vậy bởi đã nghe ra đứa bé nói khẩu âm Lâm An. Đứa bé không đáp, nắm tay nhỏ siết chặt, sau đó mím môi rồi bật khóc, hồi lâu mới nói: “Cha con họ Hứa, người chết rồi!” Nhìn dáng vẻ nó thì hình như phụ thân qua đời chưa lâu cho nên mới đau lòng như thế. Tam Nương lấy làm lạ, hỏi: “Cha con làm gì? Sao lại chết? Mẹ con đâu?” Đứa bé quệt nước mắt, nói: “Cha con là vệ sĩ cung Minh Thành, sáng hôm đó người nói với con “Tiểu Lục Nhi, cha trực ban lần này không về được nữa, sau này con có nhớ cha không?”, con đang muốn nói “nhớ” thì cha lại nói: “Có điều, con hẳn cũng chẳng có sau này nữa rồi”.” Hẳn là cha đứa bé vô cùng yêu thương nó, cho nên đối với việc hôm đó, đứa bé cũng nhớ rất rõ: “Hôm trước, con nghe thấy mẹ lau đao cho cha cả một tối, con không biết cha muốn làm gì. Chỉ là ngày trước, trước khi cha rời nhà,mẹ luôn cười, lần này trông như muốn khóc, lại gắng nhịn lại. Cha nói: “Vân Nương, ta không phải với nàng, ta vốn muốn đợi thêm hai ngày, đợi Cảnh đại ca tới rồi đem mẹ con nàng giao phó cho huynh ấy rồi mới động thủ, nhưng hộ vệ mặt trước sắp đổi rồi, hôm nay là cơ hội cuối cùng”. Mẹ nói: “Kính Hòa, chàng tận trung tận nghĩa, thiếp không ngăn chàng. Nhớ lấy, không được run tay, chớ lo liên lụy gia đình.” Hôm ấy, cha tựa như không nỡ đi, sau cùng vẫn nặng nề đi khỏi. Cha vừa đi, mẹ liền bật khóc, mẹ cho tỷ tỷ đeo hoa trắng rồi mình cũng mặc đồ trắng, hôm ấy nhìn mẹ rất đẹp!” Nó là trẻ nhỏ, nhớ lại tình cảnh hôm ấy, không nhịn được thêm một câu tán thán. Trong phòng yên ắng tới mức cây kim rơi cũng nghe thấy tiếng, chúng nhân đều đã đoán ra phụ thân của đứa bé là ai. Vệ sĩ cung Minh Thành Hứa Kính Hòa thích sát Tần Cối, sự bại thân vong, tuy Tần Cối cực lực che giấu cuối cùng thiên hạ đều biết, không ai là không than thở. Trước khi chịu hình, Hứa Kính Hòa nói: “Chẳng phải mình ta muốn giết mày, trăm họ trong thiên hạ đều có lòng giết mày cả, tuy mày thoát được trừng phạt lúc còn sống cũng khó thoát hậu thế chửi rủa.” Ai trong lòng cũng có chính nghĩa đúng sai, đều cảm thấy việc vị ấy làm chính là việc bản thân dám nghĩ mà không dám làm, chúng nhân trong điếm đối với hậu nhân của vị liệt sĩ ấy không khỏi cũng thêm phần kính ý. Đứa bé kể: “Tới trưa, mẹ thấy bên ngoài ồn ào, liền gọi ba vị tỷ tỷ uống canh, trong canh ấy có ngân nhĩ với táo đỏ, ngọt ơi là ngọt, con cũng muốn uống, mẹ lại không cho uống, con khóc, mẹ cũng khóc, nói: “Có lẽ cho con uống, về sau con cũng bớt phải chịu tội vạ một chút, nhưng nhớ kĩ, nam tử hán đại trượng phu sinh ra là để chịu tôi, người chịu được khổ mới xem là hảo nam nhi. Cảnh bá bá của con trọng nhất nghĩa khí, hai ngày nữa bá bá sẽ tới, người biết tin nhất định sẽ có cách cứu con. Bá bá võ công cao siêu, chỉ cần người muốn cứu con, con vẫn còn một tia hy vọng, Hứa gia ta cũng còn một tuyết sinh cơ.” Con thấy ba vị tỷ tỷ uống canh xong thì từng người từng người ngủ thiếp đi, sau đó mẹ nghe bên ngoài có tiếng bước chân liền cũng uống canh rồi ngủ mất.” Mọi người đều biết, họ đã uống thuốc độc tự vẫn. Tam Nương Tử không khỏi sinh lòng kính trọng mẹ con Hứa thị, liền xoa đầu đứa bé, bảo: “Sau đó, con bị nhốt lại phải không? Hôm trước ta ở tửu lâu nhìn thấy con, trên người toàn là thương tích, là do ở trong nhà lao đã bị bọn chúng đánh hả?” Nhớ lại những vết bầm xanh trên người đứa bé hôm ấy, lòng nàng vẫn thấy xót xa. Đứa bé gật đầu: “Dạ, họ hỏi cha con có những ai là bằng hữu, con không nói, họ liền đánh.” Tam Nương Tử hỏi: “Sau đó Cảnh bá bá của con cứu con ra ngoài phải không?” Đứa bé gật đầu: “Đúng ạ, nửa đêm hôm ấy, Cảnh bá bá giết vào đại lao, cười với con rồi đem con chạy ra ngoài. Truy binh đông lắm nhưng bọn họ không đuổi kịp Cảnh bá bá. Có một lão đầu tử cũng đuổi theo, ông ấy chạy rất nhanh. Dọc đường, Cảnh bá bá giết mấy người đồ đệ của lão nhưng cũng bị thương trong tay lão, Cảnh bá bá cũng đánh lão một chưởng, lão đầu đó liền không đuổi nữa, con nghe Cảnh bá bá cười lạnh: “Ha, Chiêu Nhiên Nhược Yết, Chiêu Nhiên Nhược Yết, sau này còn gặp lại”.” Nó học theo giọng điệu Cảnh Thương Hoài khi ấy, hơi rùng mình, có thể thấy được trận ấy Cảnh Thương Hoài bị thương không nhẹ. Cả phòng lặng ngắt như tờ, bên kia Đỗ Hoài Sơn chợt vỗ vào vai Tiêu Tứ Ẩn, hai người đối ẩm một chén. Chiêu Nhiên Nhược Yết là đệ nhất cao thủ trong cung, hiệu xưng tông sư võ học trong thiên hạ, tên gọi Lý Nhược Yết. Nhân có lời đồn việc Nhạc Phi bị hại ở đình Phong Ba lão cũng có phần, lời Nhạc Phi nói lúc lâm chung: “Mặt trời soi tỏ!” chính là nói cho lão nghe. Người trong giang hồ phẫn hận thay tiếng lòng ấy của Nhạc Phi, liền ghép với tên lão gọi lão là “Chiêu Nhiên Nhược Yết(1)”. Cảnh Thương Hoài cư nhiên có thể hạ nhục lão mà rời đi, đủ thấy sự kịch liệt của trận chiến ấy, sau lại mang đứa bé trốn chạy nghìn dặm, thẳng tới Đồng Lăng cạnh Trường Giang, dọc đường còn gặp Đề kỵ đuổi giết, phần nghĩa khí can đảm ấy thật khiến người ta phải giơ ngón tay cái khâm phục. Bỗng nghe từ xa vọng lại tiếng huyên náo, ắt hẳn Cảnh Thương Hoài lại giao thủ cùng Đề kỵ rồi. Tiếng vọng từ mạn tây, gió mưa ồn ã, trong phòng nghe không được rõ, lão giả họ Tiêu vểnh tai, hồi lâu mới vỗ đùi, nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc, hạ được hai đứa nhưng không xông ra được!” Chúng nhân không khỏi lo thay Cảnh Thương Hoài. Thẩm Phóng hỏi: “Đi đâu rồi?” Tam Nương Tử đáp: “Hình như chạy xuống phía nam rồi”, nhĩ lực của nàng còn xa mới bằng Tiêu Tứ Ẩn, Tiêu Tứ Ẩn lại gật đầu với nàng, có ý tán thưởng. Chăm chú lắng nghe liền nghe thấy phía nam hỗn loạn một trận, qua một lúc, âm thanh lắng dần, Thẩm Phóng lòng ôm hy vọng hỏi: “Xông ra chưa?” Tam Nương mặt mày ưu tư, hình như cũng khó đáp, Tiêu Tứ Ẩn bên kia thở dài nói: “Lên phía bắc rồi.” Kim hòa thượng vỗ đùi một cái nói: “Đám rùa con!” Mới nghe phía bắc tiếng gió dần nổi, Cảnh Thương Hoài tuy liên tục xông phá hai mặt vẫn chưa thoát được nhưng với vết thương nặng thế mà vẫn đánh liền ba phía cũng thực khiến người ta kinh tâm. Đấu đá lần này ác liệt, Tiêu Tứ Ẩn mày râu rúng động, cực kỳ khẩn trương, mọi người đều nhìn mặt lão, thấy buồn lo bất định, chợt nghe lão nhẹ giọng nói: “Có hai con tuấn mã chạy từ đông xuống nam lại sang tây, Cảnh đại hiệp vẫn không buông bỏ nhưng bọn chúng ngăn khiến Cảnh Thương Hoài không xông ra được.” Bất chợt mi mày nhướng lên, kinh hãi kêu “a” một tiếng, hồi lâu không thấy có tiếng động gì nữa, mọi người hỏi: “Sao, sao không thấy người đâu nữa rồi?” Đỗ Hoài Sơn cũng hỏi: “Thế Đề kỵ thì sao?” Nhĩ lực của lão cũng không bằng kẻ luyện “Thiên nhĩ thính” như Tiêu Tứ Ẩn. Tiêu Tứ Ẩn trầm ngâm một hồi rồi nói: “Bọn chúng cũng đang tìm... không ổn, đang vây lấy nơi này rồi.” Rèm cửa chợt vén lên, một trận gió mưa ùa vào, Cảnh Thương Hoài tựa vành cửa đứng đấy, sắc mặt trắng như giấy. Hắn quay người kéo kín rèm cửa, cử động chậm chạp. Chỉ thấy trên người hắn lại có thêm thương tích nhưng hào khí trên khuôn mặt không thuyên giảm, quay về phía chúng nhân cười áy náy, tựa đang áy náy đã dẫn sói vào nhà. Chỉ là hắn không buồn nghĩ xem, trong phòng này đều là hạng người gì. Đề kỵ trước giờ hung tàn, nơi đây vừa có trộm sông cướp bể, lại có danh sĩ trốn nạn, chúng mà đến lại chẳng một lưới tóm gọn sao? Chúng nhân đều biết sự lợi hại trong đó nhưng cũng chẳng ai chịu tỏ ra yếu đuối. Tam Nương Tử lại cười nói: “Đêm trăng mờ là lúc sát nhân, ngày gió lớn là khi phóng hỏa. Mưa to gió lớn, Cảnh huynh sao không lại đây cùng uống một chén?” Cảnh Thương Hoài nở nụ cười hiếm hoi, tựa như tán thưởng cái hào khí kia của Tam Nương Tử, thoáng nghĩ ngợi, biết Đề kỵ rốt cuộc sắp đuổi tới điếm này rồi, liền dứt khoát ngồi xuống. Tam Nương Tử hỏi: “Không xông ra được sao?” Cảnh Thương Hoài sắc mặt cứng đơ, nói: “Đáng tiếc trên người ta đang có vết thương.” Tam Nương Tử bèn khẽ thở dài, biết thương thế của hắn nghiêm trọng đến mức nào. Cảnh Thương Hoài không muốn người khác lo cho mình, bèn đổi sắc nói: “Đề kỵ mà tới, người không thoát nổi trước tiên chỉ e chính là hai vị hiền phu phụ đề từ ở Ngô Giang đây.” Tam Nương Tử tươi cười tựa hoa, nói: “Thế sao?” Nàng vung tay, một thanh đoản đao bay đi cắm thẳng vào ngực Lai Phúc mặt đang tươi tỉnh, Lai Phúc nọ dấm dứt sợ hãi bất an, đang mừng có cứu binh trên trời rơi xuống, nào ngờ đại nạn lâm đầu. Tam Nương Tử thấy việc đã tới bước này, liền muốn giết kẻ hại chết vị tỷ muội của nàng ở Lâm An, báo mối đại cừu này. Trên chủy thủ của nàng có buộc dây, giật lại là thu về. Chúng nhân lúc trước thấy nàng hào sảng, khảng khái thì kính phục nhưng vạn lần không ngờ nàng xuất thủ lại nhanh như điện. Cảnh Thương Hoài nhìn mà cao hứng, hơi gật đầu, có ý khen ngợi. Tam Nương Tử cười nói: “Cảnh đại ca không cho rằng tiểu muội là hạng nữ tử ơn nhỏ nghĩa mọn thi chút ân huệ mua lòng người đấy chứ?” Ngày trước trên tửu lâu ở Lâm An, nàng thay hắn trả tiền rượu, lại tặng cơm canh, Cảnh Thương Hoài nghĩ vậy, cho nên màn thầu nàng tặng, gã không ăn miếng nào. Ngược lại, Thẩm Phóng một thân thư sinh, rõ ràng không nhận ra mình, vậy mà vừa gặp đã cởi áo trao tặng, liền sâu sắc lọt vào mắt xanh của hắn. Cảnh Thương Hoài lòng dạ thẳng thắn, cũng không phủ nhận, nói: “Bị lừa nhiều rồi, cái ơn một bữa cơm ta cũng không bận tâm cho lắm.” Rồi lại nâng chén nói: “Ngày dài mới biết lòng nhau, hôm nay mới nhận rõ được lòng dạ hiền phu phụ. Chỉ sợ ta hẳn phải lớn hơn vài tuổi, vai đại ca này hẳn là dành cho ta rồi.” Ba người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng sớm đã ngầm định, Thẩm Phóng vừa nghe liền đại hỷ, hắn từ lâu đã muốn kết giao với vị kỳ hiệp khác người này, không ngờ người đó đã coi mình là huynh đệ. Tam Nương Tử nói: “Muội đành phải làm tam muội rồi, tiếc là không có cái tài của Hồng Phất(1).”
- vốn là thị hầu trong phủ Dương Tố, vì hay cầm phất trần màu đỏ mà được gọi là Hồng Phất. Vợ kết tóc của Lý Tịnh (571-649), khai quốc công thần của nhà Đường. Tương truyền Hồng Phất Nữ cùng chồng là Lý Tịnh kết nghĩa huynh muội với Cầu Nhiệm Khách, thành ra tam muội.