Tứ giải

    
him bay vờn nhẹ
Đậu nhánh vườn ta
Thu cánh ngơi nghỉ
Hót vang tưng bừng
Chẳng lẽ không ai
Nhớ người thực nhiều
Lời mong chẳng đến
Ôm hận đành sao!
Tuy Lỗ Tiêu đã đi nhưng “Biệt viện Tam Tàng” Trương Ngũ Tàng, Cổ Cự, Vu Hiểu Mộc của Văn gia Giang Nam nhất thời vẫn hít thở không thông. Được một lúc, Trương Ngũ Tàng mới lại gom sát cơ, cười gằn, nói: “Dịch công tử, bùa hộ thân của ngươi đã đi rồi, mời xuống đây tỷ thí được chăng? Ngươi lấy được ba cái đầu của bọn ta, tự nhiên không cần đáp gì nữa. Nếu không, hắc hắc, ba người bọn ta không moi được câu trả lời trong miệng ngươi, thật không có mặt mũi nào về gặp Tần Thừa tướng, đành cắt cái đầu của ngươi xuống đem về, coi như đem cái miệng của ngươi về, để ông ấy tự mình hỏi là được.”
Người ngồi đây cũng không nghĩ tới đi đòi nợ lại gặp kết quả thế này, biến thành một trường tranh chấp thế lực, lại còn cả Văn gia ở Hồ Châu, Viên lão đại của Đề kỵ cho tới đương triều Tần Thừa tướng đều nhảy cả vào, tuy nghe được lắm bí mật, có cảm giác không uổng chuyến này, có điều cũng biết rõ cái gọi là cá biết nước sâu không phải là điều tốt, giả như “Văn gia Tam Tàng” đắc thủ, không biết liệu có liên lụy tới mình không.
Thoắt cái, một cuộc tranh chấp tiền bạc biến thành hành động thích sát Dịch Bôi Tửu của Văn gia Giang Nam. Chúng nhân tuy biết Dịch Bôi Tửu liên quan cực lớn, không thể để người này chết nhưng không sao nhúng tay vào được. Chỉ nghe Dịch Bôi Tửu lãnh đạm nói: “Tại hạ không biết võ công, làm sao tỷ thí?”
Thẩm Phóng cùng Tam Nương nhìn nhau, nghĩ: Thôi rồi! Bọn họ sớm đã thấy Dịch Bôi Tửu quá mức yếu ớt, e rằng không biết võ công, không ngờ đoán đúng. Một tay Tam Nương đã ngầm nắm lấy chủy thủ trong lòng, tuy nàng tự biết không địch lại nhưng vào lúc này rồi chỉ còn cách liều. Chỉ nghe nàng thấp giọng dặn: “Ngạo Chi, chốc nữa thiếp liều mạng quấn lấy kẻ kia, đây là tổng đường của Lục Hợp môn, người bọn chúng muốn giết lại có liên quan trọng đại, những người ngồi đây cũng chưa chắc đã khoanh tay mặc kệ, nếu bọn họ ra tay thì vẫn còn một tia cơ hội, nếu không ra tay, thiếp cũng gắng ngăn ba kẻ kia một lúc, ngăn được mười chiêu thì mười chiêu, ngăn nổi năm chiêu thì năm chiêu, cho dù ba chiêu cũng được, tới lúc đó chàng chớ bận tâm đến thiếp, đưa Dịch công tử đi trước.” Đây đã là lần thứ hai nàng dặn Thẩm Phóng chạy trước, mắt Thẩm Phóng ươn ướt, nhưng biết đang lúc gay go,
không thể lo tình riêng nhi nữ, chỉ đành nhỏ giọng nói: “Vậy nàng cẩn thận!” Bỗng nghe Trương Ngũ Tàng bên kia ngửa mặt cười ha ha, nói: “Thật là chuyện lạ, ngươi đã dám một mình hành tẩu giang hồ, chính là không sợ chết, lẽ nào gặp kẻ khác muốn giết ngươi, ngươi chỉ nói một câu không biết võ công liền xong chuyện sao? Hắc hắc, nếu thật như thế, Nam triều, Bắc triều cũng chẳng cần tranh đấu, giữa Tống với Kim cứ thế nghị hòa. Chỉ là, trong thiên hạ sẽ có không ít phế vật cứ sống tiếp, khiến người ta thấy mà bực bội.”
Lời này của gã ngữ khí ngạo nghễ, rất có ý vị coi vạn vật là chó rơm. Dịch Bôi Tửu vẫn điềm tĩnh như không, quay đâu cười nói với Tam Nương Tử: “Tôi nghe Đỗ Hoài Sơn nói, Kinh nữ hiệp thiện dùng chủy thủ. Kẻ hèn không biết võ công, không biết mời Kinh nữ hiệp thay mặt xuất thủ được chăng?”
Kinh Tam Nương sửng sốt, không nghĩ Dịch Bôi Tửu sẽ tìm đến mình, lòng nhủ: “Thì ra hắn không lo không hoảng là ỷ vào mình, lần này hắn tính sai mất rồi!” Phải biết ngày nọ trong rừng tùng, Tam Nương gắng sức liều mạng cũng chỉ miễn cưỡng ngăn được Văn Đình Các, chỉ e vừa qua dăm ba trăm chiêu thì quá nửa không có gì hay ho. Vừa rồi thấy gã họ Vu xuất thủ, rõ ràng công phu mạnh hơn Văn Đình Các rất nhiều, có thể bằng một người khống chế bốn cao thủ Lục Hợp môn, bức bọn họ ai nấy đều gặp nguy cơ. Tam Nương tự lượng năng lực bản thân cũng sàn sàn cỡ Cù Vũ, chỉ sợ Văn gia Tam Tàng này, một người bản thân cũng không chống nổi huống chi cả ba? Có điều, dọc đường nàng thấy hành sự, bố cục của Dịch Liễm chu toàn kín kẽ, ít có chuyện nóng vội, hoặc có thể nói, không cái nào là không trúng, không giống hạng người khiến người khác bước vào chỗ nguy hiểm, thầm nghĩ: Hay là hắn có ý tứ gì khác? Nàng trước nay hào khí không nhường mày râu, tuy biết trận này hung hiểm nhưng chẳng tỏ ra yếu nhược, nghe gọi liền cười mà đứng dậy, cất tiếng trong veo, đáp: “Dịch công tử đã có lệnh, có gì mà không được? Có sợ thì chỉ sợ Kinh Tử tôi phận nữ, không ngăn nổi ba vị cao thủ Văn gia kia, phụ sự ủy thác của tiên sinh.”
Cái đứng dậy này của nàng, vẻ hiên ngang bình thản, điệu cười giọng nói thật không biết khiến bao nhiêu nam tử hán phải xấu hổ.
Chỉ nghe Dịch Bôi Tửu thản nhiên nói: “Sẽ không đâu. Chưởng lực Âm trầm trúc? Nội công Nhất lôi thiên hạ hưởng? Chỉ e vẫn chưa được coi là thiên hạ vô địch. Kinh nữ hiệp, năm xưa Công Tôn lão nhân có từng truyền cho nữ hiệp bộ Kiếm Khí Hành chăng? Áo tơ môi ngọc, răng sáng má hồng, bước đi thong dong, múa đổ Trung Nguyên(1), tại hạ bất tài, muốn thay Tam Nương làm mới một chút.”
Lời này người bên cạnh nghe không cảm thấy gì nhưng Kinh Tam Nương thì như sét đánh ngang tai. Mấy năm nay, tuy nàng sống an nhàn ở Trấn Giang nhưng đông rét hạ nực, đêm tuyết sớm sương, thủy chung chưa từng bỏ bê võ công. Nhưng luyện tới luyện lui, trước sau vẫn khó có tiến bộ. Nàng biết bản thân đã đạt tới bình cảnh võ công, mắc lại ở tầng này, khổ nỗi không có cao nhân chỉ điểm, mãi vẫn không đột phá được. Trong lúc gian nan này, liền nhớ tới năm xưa Công Tôn lão nhân truyền võ công chủy thủ cho nàng có nói với nàng rằng: “Tư chất của ngươi rất tốt, căn cốt tuyệt hảo, lại thông minh, gan dạ, quyết đoán, vốn là một nhân tài quý báu, đáng tiếc, thời gian có hạn, ta chỉ có thể ở cùng ngươi ba tháng. Nếu không, trong Kiếm Khí Hành của bản môn có một bộ kiếm pháp rất cao minh gọi là ““Vũ phá Trung Nguyên””, cực kỳ thích hợp cho nữ đệ tử tập luyện. Nếu luyện thành, không dám nói quát mắng thiên hạ, không ai địch nổi, chỉ e cũng đủ để vươn tới hạng cao thủ nhất lưu, ít ai có thể chống đỡ. Đáng tiếc, hai trăm năm nay, chưa ai luyện thành. Ngươi vốn có hy vọng nhưng muốn luyện bộ võ công này, ít ra cũng phải mười năm sau. Nhưng tới lúc ấy, ta với ngươi chỉ sợ đã không có duyên gặp lại nữa rồi.”
Bấy giờ Tam Nương hiếu kỳ, cứ bướng bỉnh xin lão nhân truyền khẩu quyết cho mình. Đáng tiếc, mấy năm nay luyện tập, thân pháp, bộ pháp, ánh mắt, không cái nào không đúng, chỉ là rời rạc, không liền mạch, múa không ra. Bây giờ nghe Dịch Liễm nhắc tới, mắt nàng liền sáng bừng, dung mạo bỗng đẹp đẽ khôn tả, cười, nói: “Dịch tiên sinh, vậy mời ngài chỉ điểm một chút!”
Nàng trước vốn luôn gọi Dịch Liễm là Dịch công tử, nhưng nghe giọng điệu của hắn vừa rồi rõ ràng có ý giúp đỡ mình thành nghệ, nếu quả thật thành được, vậy cũng xem đã có nửa danh phận sư đồ, không khỏi tôn xưng thêm. Dịch Liễm cười, nói: “Không dám nhận, bộ Kiếm Khí Hành này vốn truyền từ Hoàng Thạch lão nhân đời Hán, nổi tiếng ở đời là nhờ Công Tôn Đại Nương đời Đường, Tam Nương hẳn cũng từng khổ luyện không ít, nhưng chỉ sợ có chỗ không rõ. Bộ Kiếm Khí Hành này vốn thoát thai từ múa, ngộ đạo nhờ múa, mà ý cũng quy về múa. Đã là múa, không có nhạc khúc sao thành được! Tại hạ không thạo gì khác, chỉ là vẫn có thể tấu một khúc trợ hứng cho chủy thủ của Tam Nương.”
Nói rồi, hắn phủi trụ hành lang, ngồi khoanh chân trên đất, gác đàn lên trên, ngón tay gõ nhẹ dây đàn, miệng lanh lảnh nói: “Nghe rõ nhé, Kiếm Khí Hành ca quyết: Xưa có giai nhân, Công Tôn Đại Nương; múa điệu kiếm khí, danh vang bốn phương; người xem như núi, ý khí tác tan, trời đất vì nó, theo nhịp miên man; tới như lôi đình, ùng ùng vang dội; lui như sông biển, đọng ánh trong ngời...”
Ca quyết hắn đọc chính là tổng quyết Kiếm Khí Hành của Công Tôn lão nhân năm xưa, mấy câu đầu lấy ý từ bài Quan Công Tôn Đại Nương vũ kiếm khí hành của thánh thi Đỗ Phủ đời Đường, đọc tới bên dưới thì chính là ca quyết, tiến thế nào, thoái ra sao, làm sao để tránh né, làm sao để phòng thân, một kích như sấm sét thế nào, nhảy nhót nhào lộn như thỏ ra sao, thế nào để núp, thế nào để dừng... Người ở bên nghe mà mơ hồ, Kinh Tam Nương mấy năm nay khổ công nghiên cứu thứ này, chẳng quản ngày đêm, lúc nào cũng để tâm, bây giờ nghe hắn đọc ra, mỗi âm tiết đều như gõ vào tim mình. Nàng ngày thường tìm hiểu kiếm quyết này, chỉ bới móc ý tứ từng câu, từng chữ, không thể nói là không đạt được gì nhưng đem một phen khổ công ấy ra dùng, một thiên ca quyết đó tuy không hiểu sai câu nào nhưng luôn không xâu chuỗi lại được. Lúc này, nghe Dịch Liễm một hơi đọc ra, ban đầu còn chưa thấy gì, về sau chỉ thấy trầm bổng du dương, ngâm nhẹ thán dài, như hợp với nhịp tiết, như trúng chỗ then chốt, trên mặt nàng lộ nét mừng rỡ. Dịch Liễm thấy thế, gật đầu mỉm cười, lúc này hắn đã đọc tới lần thứ hai, nhưng không hoàn toàn tương đồng với lượt thứ nhất, sâu xa, khúc chiết, tựa như lộ ra thứ mà lượt thứ nhất chưa để lộ, mi mày Tam Nương khẽ nheo lại, thầm nghĩ: “Khẩu quyết này thì ra còn có thể xâu chuỗi như thế, chỉ là không giống với lượt đầu, vậy rốt cuộc theo cái nào, bỏ cái nào?” Lòng quýnh lên, nàng cũng biết đang khi tranh đấu, không tham ngộ thấu thì sao thi triển được, mồ hôi lạnh trên mặt tứa ra, trong lòng cũng rối tung rối mù.
Thẩm Phóng không hiểu võ nghệ, kỳ thật đâu chỉ hắn, bao nhiêu cao thủ ngồi đây cũng nhất thời không đoán ra được đọc mấy lượt nọ, võ nghệ của Tam Nương có thể chớp mắt liền thành sao? Chỉ là thấy Dịch Bôi Tửu thong dong ngâm ngợi, Tam Nương nhíu mày, đắm chìm trong một thiên Kiếm Khí Hành. Bấy giờ Dịch Bôi Tửu đã đọc tới lượt thứ ba, khẩu âm dường như đã nhạt đi rất nhiều, mộc mạc không màu mè, không chút thăng giáng, nhưng tốc độ lại nhanh thêm. Tam Nương đang hồi hộp không yên, gấp gáp, sôi sục, chỉ cảm thấy lộ tuyết ở khắp nơi, xem thì dường như có thể gỡ nhưng mãi không tìm ra đầu mối, lúc này chỉ cảm thấy Dịch Liễm mỗi chữ mỗi nhanh, từng chữ nện vào lòng mình, mơ hồ thấy đau nhưng cũng dần thông tỏ. Đột nhiên, Dịch Bôi Tửu duỗi ngón tay vạch trên dây đàn vang đánh “tinh” một tiếng. Tam Nương vốn đang nghiêng người tựa vào cột hành lang, lúc này bỗng nhảy dựng lên, cười lớn: “Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi!”
Văn gia Tam Tàng lúc trước thấy bọn họ bộ dạng, cử chỉ cổ quái, lấy làm ngạc nhiên, bất giác đợi hai người một lúc, càng xem càng thấy lạ, lúc này bỗng thấy bọn họ một người cười lớn, một người tủm tỉm, trong lòng không khỏi bất an, quát lên: “Ngươi hiểu cái gì? Dịch công tử, thì ra ngươi bị thịt như vậy, quen lấy nữ nhân ra ngăn giúp mình. Kinh Tam Nương, ta khuyên ngươi chớ không biết tự lượng sức, trúng kế của họ Dịch kia.”
Gã cũng đang canh cánh lo, chỉ sợ Dịch Bôi Tửu thâm tàng bất lộ, cho nên không muốn nhiều thêm một địch thủ, chứ kỳ thực trong lòng nào từng để ý đến Kinh Tam Nương!
Kinh Tam Nương chỉ cười nhẹ, không đáp gì. Lại nghe Dịch Liễm nói: “Kinh nữ hiệp, võ nghệ của người sơ thành, vừa khéo có cao thủ bậc ấy thử kiếm, chẳng đáng mừng lắm sao, mời ấn chứng với cầm khúc!”
Lúc này Tam Nương đã khá tin phục hắn, chỉ nghe hắn hơi ngừng lời rồi nói tiếp: “Ra tay trước thế cường, ra tay sau thì gặp tai ương. Kiếm khí thi triển, chiếm tiên cơ là quan trọng nhất. Kinh nữ hiệp không ra tay còn đợi lúc nào?” Nói rồi, hai tay hắn khua liên tục, cây thất huyền cầm như mưa đêm giội mạnh, bình vỡ nước tung, năm âm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ nhất tề vang lên, thật là sấm lớn chợt nổi, thiết kỵ đột xuất, tiếng ầm vang dội nhất thời đồng loạt nổi lên nhưng không chút hỗn loạn. Tam Nương Tử cũng theo tiếng đàn mà lên, theo thế Phiêu diêu tây lai đánh thẳng tới Trương Ngũ Tàng. Trương Ngũ Tàng không kịp đỡ, hai tay chấn động, lùi thẳng về sau. Chủy thủ của Tam Nương lại đâm sang Cổ Cự, Cổ Cự vỗ song chưởng, trong nội đường liền như có tiếng sấm động, gã muốn dùng đôi tay trần kẹp lấy chủy thủ. Tam Nương đời nào để gã kẹp được! Chỉ thấy thế tới của chủy thủ phiêu hốt, cứ thế vòng qua Cổ Cự mà đâm về phía Vu Hiểu Mộc sau lưng gã. Vu Hiểu Mộc chính là kẻ vừa ra tay khi nãy, gã thấy thế tới của Tam Nương quái lạ, không dám lơ là, bèn dùng chưởng thứ nhất Trầm trầm như bích trong Âm trầm thập chưởng khai chiêu, Tam Nương tránh thế đánh, đi lối hiểm, chủy thủ sát sạt huơ qua đầu Vu Hiểu Mộc, bật nhảy cả trượng, lùi về chỗ cột hành lang.
Một chiêu vừa rồi, người trong phòng ai nấy cả kinh. Văn gia Tam Tàng kia dường như cũng không ngờ Kinh Tam Nương một thân nữ lưu, chủy thủ đánh ra lại cao minh đến thế, thật đoán không ra một phen đối đáp vừa rồi của nàng và Dịch Bôi Tửu là làm bộ hay thật sự thu được lợi ích không nhỏ. Người bên cạnh cũng lấy làm kinh sợ một kiếm phiêu hốt, như quỷ như mị này, tới người không hiểu võ công như Thẩm Phóng cũng cảm thấy chiêu này của Tam Nương rất khác lúc xưa. Lúc xưa, Tam Nương ra tay cũng nhanh, chuẩn, độc nhưng dường như khô cứng, trong chiêu thức, dụng ý cầu nhanh, cầu chuẩn, cầu độc rất rõ ràng, một chiêu vừa rồi ý thế liên miên, phiêu hốt lăng lệ, khiến người ta nhìn vào mà có cảm giác đang thấy Cô Dạ tiên tử, như thể những lời ban nãy khiến Tam Nương như được lời hay, như nghe đạo lớn vậy.
Ngay đến bản thân Tam Nương cũng thầm kinh hãi, lúc nãy nàng ở một bên nhìn, đã nhận ra võ công đối phương cực cao, bản thân tựa hồ khó thấy nổi bóng lưng, nhưng một chiêu vừa rồi mới biết đối thủ ra tay lợi hại thế nào! Lạ ở chỗ bản thân lại ứng phó được, cũng không rơi xuống thế hạ phong. Nàng thở ra một hơi, nhớ lại câu: “Ra tay trước thế cường” của Dịch Liễm, lại nhảy lên, một kích này không còn là thăm dò mà là đánh cận thân, chỉ nghe “keng keng, tang tang”, một loạt hơn ba chục tiếng, mỗi tiếng đều rất nhỏ nhưng tiếng nào tiếng nấy vào lỗ tai đều có thể tách biệt rõ ràng. Tiếng “keng” này thì ra là bởi đối phương thấy Tam Nương quá mạnh, không hẹn mà cùng rút trong tay áo ra một cây thiết côn, dài không tới một thước, đen trùi trũi, không biết là thứ vũ khí gì, hẳn là món binh khí đặc biệt bọn họ tự luyện. Một đợt công kích vừa kết thúc, Tam Nương nhảy ngược về phía sau, sắc mặt hơi đỏ, thái dương toát mồ hôi, nàng không đợi thở dốc đã lại nhào lên, chỉ nghe lại một chặp “keng keng, tang tang”, cứ thế ba đợt, cục thế đã thành nàng công kích, địch phòng thủ. Mỗi kích của nàng đều thế nhanh như chớp, ra tay mau lẹ, sau đó phiêu hốt lùi về. Lần đầu tiên ra tay xong, lùi về trụ hành lang đầu nam; lần thứ hai lùi về đầu tây; tới lần thứ ba thì lùi tới cửa đằng bắc; lần thứ tư này lại ngừng ở đầu đông. Chỉ chớp mắt, nàng đã ba phen công kích, hoán chuyển bốn phía, mỗi kiếm đều không mảy may sai sót, sai sót một chút chỉ e trọng thương bỏ mạng, ấy vậy mà nàng lại làm được. Trước đây, nàng cũng từng vô số lần căm giận mà ra tay báo thù rửa hận, nhưng thật ra đều là bị bức bách. Nàng luyện võ cũng không phải bởi thích thú, chỉ là buộc phải khổ luyện, không thể không như thế. Đây là lần đầu tiên từ khi sinh ra, nàng ra tay thoải mái đến thế. Võ công đã không còn chỉ là thủ đoạn phòng thân của nàng, nàng tựa như đã bước vào một mảnh đất trời kỳ diệu nào đó, tuy sẩy tay một chiêu có thể khiến nàng từ đây vạn kiếp bất phục nhưng nàng lại cảm thấy được tự do. Tam Nương liếc ngọn chủy thủ bầu bạn với nàng bao năm - bảy năm mãi nghệ, mười năm ẩn mình, chăm chỉ mài giũa, khổ công luyện tập, đúng vậy, cũng đã đến lúc nàng có được thành tựu rồi.
Trương Ngũ Tàng, Cổ Cự, Vu Hiểu Mộc nhìn nhau rồi từ từ đứng thành hình tam giác, vây Tam Nương lại. Tam Nương không hoảng, ở trong vòng vây chợt động chợt im, chợt nhảy chợt dừng, mỗi đòn đều dốc hết sức nhưng vẫn tùy thời có thể phiêu hốt lui về, lúc đâm lúc chẻ, như nhảy như múa, lại thêm nàng má phấn tóc huyền, thật xứng với bốn chữ ““Vũ phá Trung Nguyên””. Đáng tiếc, nàng chỉ mới luyện thành, lúc bắt đầu giữa các chiêu thi thoảng lại đứt mạch, kiếm ý cũng có chỗ không thể liên kết, có điều, chỉ cần xuất hiện sơ hở, nàng liền cảm thấy có tiếng đàn lọt vào tai, khúc đàn nọ tựa như một lần nữa liên kết lại chiêu ý của nàng. Giờ Tam Nương mới rõ tại sao lại nói Kiếm Khí Hành thoát thai từ múa, ngộ đạo nhờ múa, mà ý cũng quy về múa.
Trương Ngũ Tàng thật chẳng ngờ bản thân đánh mãi không xong một nữ nhân, vả lại chiêu thức của Tam Nương nọ dường như càng ngày càng khít, như bèo nổi kín sông, không có khe hở. Gã ngầm cắn răng mấy lần, cuối cùng hô: “Bày trận!”
Sắc mặt Cổ Cự, Vu Hiểu Mộc thoáng sững lại nhưng rồi đã hiểu ý, lòng nghĩ: “Không moi ra tuyệt kỹ cất đáy hòm luyện thành ba năm nay, chỉ sợ không xong!” Chỉ thấy phương vị dưới chân ba người chợt đổi, tiến ba lùi bốn, tán năm tụ sáu, ban đầu không khỏi lộ vẻ vụng về nhưng dần dần liền thấy được diệu dụng trong đó. Phối hợp với bộ pháp dưới chân, ba cây thiết côn của họ múa càng lúc càng nhanh, như gió gấp mưa xối, vây Tam Nương kín như bưng. Lối đánh chợt đông chợt tây của Tam Nương dần bị họ trói lại, không biến chuyển được, mà vòng xoay chuyển càng lúc càng hẹp, nàng thầm lo lắng, mấy lần xông phá nhưng không xông ra được.
Dịch Bôi Tửu vốn một mực chuyên chú gảy đàn, lúc này đã ngẩng đầu nhìn, tựa như cũng không nghĩ tới Biệt viện Tam Tàng của Văn gia còn có chiêu này. Thẩm Phóng không hiểu cục diện đương trường, thi thoảng ngó Dịch Bôi Tửu, tìm đầu mối trên mặt hắn, lòng nghĩ: “Nếu hắn đã là người giữ nhịp điệu, chắc hẳn phải biết cái được thua ở đây.” Bấy giờ, thấy trên mặt Dịch Bôi Tửu hiện vẻ lo âu, cứ đăm đăm nhìn trường diện, tựa hồ cũng biết Tam Nương đang ở vào lúc gấp gáp nhất. Cầm khúc dưới tay hắn cũng thoắt biến, “tinh tinh, tang tang”, tìm chỗ hở mà tiến, dường như cũng đang nỗ lực giúp Tam Nương tìm cơ thắng. Người luyện võ muốn có tiến cảnh, vốn phải vượt qua vài cửa ngõ quan trọng, hắn biết giờ Tam Nương đang đối diện với một cửa ngõ như thế. Lúc thường vượt qua cửa này đã muôn vàn khó khăn, huống chi Tam Nương lại đụng phải bình cảnh võ học ngay trong trường ác đấu quyết liệt. Nếu nàng xông qua được, ngộ ra được thì hay rồi, từ đây sẽ chen được vào cảnh giới cao thủ nhất lưu, bộ “Vũ phá Trung Nguyên” này của nàng cũng xem như đã luyện thành; còn nếu không được... Dịch Liễm khẽ than, biết bản thân cũng không tưởng tượng được, bởi vì lúc này người ngoài không cách nào trợ lực.
Tam Nương chỉ thấy áp lực mỗi lúc một tăng, tới Thẩm Phóng cũng nhìn ra được đương trường dần dần chỉ thấy bóng côn đen, còn ánh xanh loang loáng trên cây chủy thủ của Tam Nương lại ít thấy. Quả tim hắn đã dâng lên họng, bất chợt đương trường bạo vang một phen gió gấp mưa gào, như vó sắt phi dưới mái, chuông chùa đỉnh tháp, tiếng nào tiếng nấy mỗi lúc mỗi to, ắt hẳn đôi bên đã trút toàn lực, thật không biết là chủy thủ của Tam Nương sắc nhọn hay là thiết côn của đối phương phối hợp kiên cố. Bỗng có tiếng đánh “soạt”, Thẩm Phóng nghe tiếng mà tìm, chỉ thấy ngọn chủy thủ của Tam Nương đã bị đánh văng lên trần nhà, cắm ngập xà gỗ, sâu tới cả tấc. Thẩm Phóng cảm thấy như ngừng thở, tim không đập nữa, hắn muốn tìm lại con tim mình nhưng như không tìm thấy. Trong phòng bỗng dưng im bặt, tiếng binh khí giao nhau cũng không còn, Thẩm Phóng nhìn chủy thủ trên xà gỗ, trong lòng không biết đang gào lên với ông trời hay với chính mình: “Đừng! Đừng! Xin đừng!”
“Ta không muốn nàng chết” - trong mắt hắn hiện lên dung nhan nói cười xinh đẹp của Tam Nương - “không thể được, cuộc đời không có nàng sẽ trống rỗng tới mức ta không sao chịu được, không có tóc huyền kề gối sẽ là việc đau khổ nhất trên đời! Không có nàng mỉm cười, nhíu mày, ta dù có được thiên hạ cũng để làm gì?” Một khắc ấy, Thẩm Phóng tuy không thốt nên lời nhưng cảm thấy cổ họng trong con tim - nếu con tim cũng có cổ họng - đã thét gào tới khàn đặc: “Ta không muốn, thật sự không muốn, cầu xin nàng - Đừng!”
Một khắc ấy, hắn tựa như đã trải qua một đời một kiếp. Ở đây sao còn chưa có tiếng gì? Nước mắt hắn rơi xuống, hắn biết, bất kể thế nào hắn vẫn phải cúi nhìn. Hắn là nam nhân, phải có trách nhiệm, phải đối mặt, kể cả là tình huống bi thảm: xác Tam Nương nằm ngay đấy. Có lẽ vẫn có việc hắn có thể phải làm, đây cũng là Tam Nương yêu cầu hắn, hắn phải dốc hết sức bảo hộ Dịch Bôi Tửu, không nề khuất nhục, thiếu niên này là hy vọng của rất nhiều người trên Hoài Thượng. Sau đó, hắn ép mình từ từ nhìn xuống, cái hạ đầu này, tựa đã hết một đời.
Trắng như tuyết trên núi, sáng tựa trăng trong mây. Thẩm Phóng cúi xuống.
Hắn dõi mắt vào đương trường, còn chưa nhận rõ được ai với ai. Đầu tiên là nhìn thấy máu trên mặt đất, sau đó mới thấy bốn người trên đương trường, bốn người im lặng đứng đối lập, trên mặt Trương Ngũ Tàng hẵng còn đang cười, nét cười khiến người ta lạnh thấu xương, mắt Thẩm Phóng hoa lên, rời đi chỗ khác, hắn nhìn Cổ Cự, hắn muốn nhìn sang Tam Nương chậm chạp nhất có thể, cho dù đó là kết quả mà hắn không thể không thừa nhận nhưng vẫn muốn nó chậm một chút... Sắc mặt Cổ Cự đỏ sẫm; kế đó, Thẩm Phóng nhìn Vu Hiểu Mộc, mặt Vu Hiểu Mộc u ám; kế tiếp, Thẩm Phóng mới nghe ra có tiếng động, là Cổ Cự, Vu Hiểu Mộc, Trương Ngũ Tàng từng người nối nhau mềm rũ đổ ngã, bọn họ hoặc ở cổ họng, hoặc ở tim, hoặc ở mi mày đều bị chọc một cái lỗ nhỏ cỡ cái trâm. Vào lúc khẩn cấp nhất, Tam Nương đã bỏ chủy thủ, dùng một cây thoa gỗ đâm chết ba người ở giữa Vĩnh Tế đường.
Còn nàng thì cũng mồ hôi trĩu áo.
Đây là trận đầu tiên trong ngày hôm nay có người chết. Chúng nhân đều kinh ngạc không thốt nên lời, không dám tin vào kết quả này, nhưng cũng cảm thấy đây mới là kết quả nên có.
Dường như biết được sự hung hiểm của trận này, lúc Tam Nương cùng Văn gia Tam Tàng khai chiến, Chu Nghiên đã được lão nhân đầu bạc nọ hộ tống rời đi, không phải chứng kiến một màn tanh máu này. Lúc này, chỉ nghe có người khẽ vỗ tay, là Ngô Tứ, hắn nói: “Chúc mừng Kinh Tam Nương luyện thành “Vũ phá Trung Nguyên”.”
Kinh Tam Nương gật đầu, bật cười, đôi mắt nàng thì lần tìm Thẩm Phóng trong đám người, cho tới lúc tìm được Thẩm Phóng, tâm tình nàng mới buông lỏng. Nàng là phận gái, giết chết Văn gia Tam Tàng ở Vĩnh Tế đường, ngày mai tin truyền ra tất sẽ oanh động thiên hạ, nhưng nàng không quan tâm; cuối cùng nàng đã luyện thành “Vũ phá Trung Nguyên” mà mười năm nay khổ tâm nghiên cứu, nhưng nàng cũng không quan tâm; một khắc ấy, tuyệt nghệ đã thành, cường địch bị diệt, trong lòng nàng đột nhiên trống rỗng, nàng chỉ quan tâm đến mình Thẩm Phóng, có hắn, nàng mới không cảm thấy nỗi cô độc tứ cố vô thân, trơ trọi mờ mịt lúc đột nhiên tiến vào một cảnh giới khác.
Hai người bốn mắt chạm nhau cũng bằng bốn tay ôm ấp, nghẹn ngào tha thiết, vui mừng buồn lo hòa trộn, thật sự như sống lại sau cơn tai kiếp, thiên ngôn vạn ngữ cũng nói không hết, kể không xong.
Ngô Tứ, Lý Bạn Tương đều trông thấy một trận thảm liệt này. Tới bọn họ cũng không ngờ được, kết quả ngày hôm nay sẽ là Văn gia Tam Tàng phơi xác đương trường. Gia nhân trong Cù phủ cũng từng trải đời, không hề kinh hoảng, dưới sự sai bảo của Lãnh Siêu, họ khiêng thi thể ra ngoài, tìm ba cái quan tài xoàng mà liệm. Dịch Bôi Tửu uể oải lên tiếng, đôi mắt mệt mỏi nhìn những người còn lại trong nội đường, nói: “Các vị, chúng ta trả nốt nợ thôi.”
Lý Bạn Tương lanh mồm lẹ miệng, lúc này cũng thấy cổ họng khô chát. Gã tự mình lên giao nhận với Thẩm Phóng, kế tiếp là bốn vạn lượng của Ngọc Tê Tử, cuối cùng là Ngô Tứ. Chỉ thấy Kim Lăng Ngô Tứ nhận xong nợ cũng không vội đi, do dự chốc lát, liền ôm quyền nói với Dịch Bôi Tửu: “Kim Sang dược do Bạn Kim đường của tại hạ ở Nam Kinh đặc chế có chút tiếng tăm, về sau Dịch công tử có cần, chỉ cần phái người tới Nam Kinh tìm tại hạ.”
Dịch Liễm dường như cũng xem trọng hắn, khẽ mỉm cười, bắt tay tạm biệt. Vàng bạc trong phòng chưa bị đem đi hết, còn lại mười bảy vạn lượng của Văn gia, thêm cả mấy vạn lượng Hồ Thất Đao để lại, Dịch Bôi Tửu than: “Ai mà ngờ còn thừa chứ!” Hắn nhìn người trong phòng, để lại mười bốn vạn lượng để Cù phủ thu hồi Vĩnh Tế đường, vàng bạc còn lại thì nhờ gia nhân Cù phủ khiêng lên xe, nhất tề đem đi cả.
Cù Vũ dường như có chút để bụng việc Dịch Bôi Tửu không để lại toàn bộ vàng bạc, nhưng cũng không tiện nói, chỉ nghe Dịch Bôi Tửu nói: “Ngày sau, nếu Lục Hợp môn có việc dùng tới Hoài Thượng, chỉ cần thông báo.”
Cù Vũ không đáp, ba vị Quách, Lưu, Dương cũng lãnh đạm. Lãnh Siêu thì vì sửa soạn xe mà bận tới bận lui. Trước khi Dịch Liễm lên xe, liền nhìn kĩ Lãnh Siêu, thái độ của Cù Vũ cùng Quách, Lưu, Dương tam lão, hắn không hề xem trọng, nhưng đối với thiếu niên nọ lại khá là chú ý.
Hai cái xe của bọn họ cứ thế lóc cóc ra khỏi thành Lục An. Trong thành đang buổi hoàng hôn náo nhiệt nhất, Thẩm Phóng nhìn qua cửa sổ xe ngắm hai bên đường, chỉ thấy hàng quán lề đường liền như răng lược, khít như vẩy cá. Nhỏ thì như hàng kim, hàng nhuộm, tiệm đánh răng, lớn thì như chợ thịt, chợ rau, chợ gạo, tất tật rộn ràng, nhộn nhịp. Tới lui thành Lục An cũng chỉ có hai ngày, nhưng những thứ hắn trải qua dường như lại rất nhiều - hơn bốn mươi vạn lượng qua tay, mắt thấy một trường gió tanh mưa máu, trong đó có đấu đá giữa trong triều ngoài triều, giữa thế lực trên giang hồ, rồi mưu mô lên xuống... Hết thảy những thứ ấy, trăm họ thành Lục An không hề hay biết. Họ chỉ mong sôi nổi nhộn nhịp, yên ổn mà sống những ngày bình thường, nào ngại tầm thường, nào ngại nhỏ nhặt, những buồn phiền của đời thường so với việc phải chịu kinh sợ thì còn hơn chán. Lần đầu tiên Thẩm Phóng hiểu được câu: “Giang hồ tử đệ giang hồ lão1”. Hắn nhìn trăm họ ngoài xe, ồn ào huyên náo thế, trong cái thế cục nước sôi lửa bỏng, nguy như trứng xếp chồng, chỉ trong chớp mắt có thể chuyển thành loạn lạc này, vẫn cứ cười, cứ ồn ã, cứ chuyện nhà chuyện xóm. Mọi người đều biết giờ đương thời loạn nhưng đều vờ như không biết, tới Thẩm Phóng cũng không rõ loại tâm thái này là đúng hay sai nữa. Cái yên ổn này, cái ấm êm này giống như nhảy múa trên đao nhọn, có điều sự đẹp đẽ trong đó còn mang một thứ cảm giác khiến Thẩm Phóng suýt rơi lệ.
Dịch Liễm nói muốn đem gần chín vạn lượng bạc còn lại gửi vào Thông Tế tiền trang, chuẩn bị thanh toán khoản nợ cung ứng lương thảo cho Sở Tướng quân ở Tương Phàn và Lương Tiểu Ca ở Hà Bắc đã sắp đến hạn, còn phải chừa lại hai vạn gửi đi Tô Bắc. Bạc trong xe chớp mắt đã sạch sẽ, chẳng trách Đỗ Hoài Sơn từng cười bảo chỉ sợ Dịch Bôi Tửu chính là người tiền bạc qua tay nhiều nhất nhưng cũng là người nghèo nhất thiên hạ. Một chuyến tiêu này, từ lúc Thẩm Phóng gặp gỡ ở Khốn Mã Tập cho tới hôm nay mới được hơn tháng, có điều, những tranh đấu giết chóc, đồng môn bội phản, anh lừa tôi gạt trong đó phải nói đều là những thứ bình sinh chưa từng trải qua. Đây là lần đầu tiên Thẩm Phóng thực sự tiếp xúc với giang hồ, cũng là lần đầu tiên nhìn giang hồ ở cự ly gần tới vậy, cường quyền trong triều ngoài triều, tranh đấu giữa những kẻ mạnh, mỗi người đều ra sức tối đa hóa sở cầu của mình, như huynh đệ họ Viên, như Văn gia Tam Tàng, như Lỗ Tiêu. Còn như lão đầu mù với Tiểu Anh Tử, mình cùng Tam Nương, và cả ba huynh đệ Trương gia chỉ là bị vần xoay trong trường cấu xé đó thôi, không biết may mắn thế nào mới thoát được một mạng. Nhưng luôn có người không phải như thế, phải không? Thẩm Phóng tự hỏi, rồi nhớ tới Lạc Hàn, nhớ tới một kiếm dứt khoát nọ, khí thế và quang huy ngạo thị thiên hạ, quang huy kia có thể chiếu tỏ sinh mệnh đang chìm trong bóng tối, cũng thuận tiện đưa chuyến tiêu này cùng mình và Tam Nương tặng tới Hoài Thượng.
Thẩm Phóng nhìn sang Dịch Bôi Tửu, ngoài cửa sổ, hoàng hôn bảng lảng. Xe ra tới ngoại thành, bên ngoài đã vắng lặng, hai bên đường là màu vàng đỏ của lúa mạch vụ đông cùng tịch dương. Dịch Bôi Tửu nhắm hờ mắt, trên mặt mang vạt màu vàng đỏ nọ, nhưng lại làm nổi lên nét tang thương của dung mạo, Thẩm Phóng cũng đoán không thấu hắn là dạng người gì? Muốn gây dựng sự nghiệp gì? Hắn cùng Lạc Hàn tương giao ra sao? Đoạn tương giao ấy là thứ tình bằng hữu nhìn thì nhạt nhòa nhưng cất giữ trong lòng, chẳng dám lãng quên chăng? Hắn mưu điều gì, nghĩ về đâu? Nhìn sắc mặt hắn, bên trong nhập thế luôn có một phần lánh đời ẩn hiện, bên trong bình tĩnh lại có sự không bình tĩnh ẩn sâu. Trong lòng hắn hẳn còn ẩn giấu, cái ẩn giấu đó là gì?
Dịch Liễm bỗng nói: “Còn sáu, bảy ngày nữa là chúng ta tới Hoài Thượng rồi, ở đấy coi như đã về nhà.” Lời hắn đượm chút mệt mỏi. Ngày mai? Ngày mai chẳng phải cũng là một ngày vì lương thảo quần áo, binh khí yên cương, bạc tiền sổ sách mà bận bịu sao? Thẩm Phóng nhìn Dịch Liễm, đã có thể thể hội được sự mệt mỏi của hắn. Cố gắng hắn bỏ ra có lẽ chẳng có được mảy may xán lạn như một kiếm trong đêm đen của Lạc Hàn bữa trước, nhưng cố gắng này cùng tất thảy những gì hắn cố gắng thay đổi lại là những thứ càng phiền não, càng giày vò, càng dai dẳng giống như chuyện cơm áo gạo tiền, như sự đời khiến con người mòn mỏi. Sinh mệnh là một món quá hoa mỹ, nhưng những thứ có thể bỏ thêm vào chẳng lẽ chỉ là vô số rắc rối và gánh nặng này đây?
Cũng vào lúc này, Thẩm Phóng mới để ý tới cái chén trong tay Dịch Liễm. Đó là một cái chén gỗ, sáng bóng, vân gỗ mảnh mai, giống như những si mê cùng lưu luyến nho nhỏ trong nhân gian, không nỡ buông tay, nhưng niềm vui và sự bịn rịn kia trông lại đáng thương đến vậy. Thẩm Phóng nhận ra, cái chén này là thứ Lạc Hàn gửi cùng tiêu ngân. Cả xe bạc hắn đã cho đi cả, vì sao... vì sao phải giữ lại riêng cái chén này? Đây là lần đầu tiên Thẩm Phóng nghĩ tới vấn đề này: Trong bao nhiêu vàng bạc châu báu đầy xe, vì sao lại có một cái chén như thế? Hắn nhìn bộ dạng cầm cái chén của Dịch Bôi Tửu, dường như đang nắm tay một người bạn trong sự mệt mỏi vô cùng.
Bên ngoài, phu xe bỗng quất một roi, đã ra ngoài thành rồi, Thẩm Phóng nghe phu xe hô lên hai câu khẩu lệnh:
“Đào lý xuân phong nhất bôi tửu...
... Giang hồ dạ vũ thập niên đăng()!”
Là Giang hồ dạ vũ thập niên đăng a...