Tam giải

    
ây nơi vườn đông,
Lá cành lại mướt,
Cảnh mới tươi nguyên,
Gợi lại niềm cũ,
Người ta lại bảo,
Năm tháng trôi mau,
Chẳng được cùng chiếu,
Kể chí bình sinh.
Nhất thời trong nội đường im lặng như tờ. Hồi lâu, là Dương Triệu Cơ phản ứng đầu tiên, đứng dậy, ôm quyền hướng về phía Cù Vũ. “Chúc mừng ngài, Cù môn chủ!”
Không đợi mọi người kịp phản ứng, lão đã hướng ra phía ngoài, bỏ đi. Cù Vũ bực tức nói: “Đây là ý gì?”
Dương Triệu Cơ không đáp lời, vẫn đi ra ngoài. Cù Vũ tung người tới cản lối, hỏi: “Dương sư thúc, chưa nói rõ đã đi rồi ư?”
Dương Triệu Cơ chẳng buồn nhìn tới cánh tay đang đưa ra ngăn mình lại của Cù Vũ, duỗi tay gạt đi, xông ra bên ngoài. Cù Vũ lập tức xuất Tiểu cầm nã thủ chụp lấy cổ tay lão, Dương Triệu Cơ bước chéo một bước xuyên qua, bước này có tên là Xuyên hoa bộ, cổ tay xoay một cái đã tránh thoát, tay kia chụp ngược vào sườn Cù Vũ. Cù Vũ cứng giọng hỏi: “Dương sư thúc, Vĩnh Tế đường là tổng đường của Lục Hợp môn, người thân là đường chủ ngoại đường, cứ thế nói đến là đến, nói đi là đi sao?”
Hắn nói một câu, tay đánh một chiêu, nói năm, sáu câu, tay đã thi triển năm, sáu chiêu. Dương Triệu Cơ đón đỡ từng chiêu, không hàm hồ, đáp: “Không phải ngươi muốn làm môn chủ sao? Dương Triệu Cơ ta không có ý kiến, cho ngươi làm là được, lẽ nào ta muốn đi cũng không được?”
Cù Vũ trách: “Người đi rồi, những người trong nội đường làm sao đuổi đi đây?”
Dương Triệu Cơ nói: “Đấy là việc của Cù gia các ngươi, đúng rồi, từ ngày hôm nay, Lục Hợp môn cũng chính là Cù môn của ngươi, các ngươi thiếu nợ, còn muốn người khác chùi mông cho sao?”
Cù Vũ không giận mà bật cười “ha, ha, ha”, chẳng còn hứng thú ngăn lão nữa, mà nếu không ngăn, bản thân cũng không có cách nào dùng sức một người mà dẹp cả đám người trong nội đường. Đại biến đột nhiên tới, mọi người đều kinh ngạc. Cù Vũ lẩm bẩm: “Thằng hèn! Có thứ tốt các người liền xông tới, giờ thì... đứa nào đứa nấy đều chạy mất dép, hừ hừ!”
Lúc này bỗng có một người đứng lên nói: “Không ai được đi, trước khi sự tình được làm rõ, bất cứ ai cũng không thể rời đi!”
Người nói chính là nhị chưởng quỹ của Lưỡng Tương tiền trang Lý Bạn Tương mới lên tiếng lúc nãy. Tuy hắn là nhị chưởng quỹ nhưng thanh danh trên giang hồ rất vang dội, học nghệ ở Đại Giác tự trên Thái Hành Sơn, mọi sự vụ của tiền trang cùng các nhân vật trong chốn giang hồ trước giờ đều do hắn xử lý, cho nên nếu không đòi được nợ, trách nhiệm cũng nặng nề. Chỉ thấy hắn hướng ra xung quanh, nói: “Tất cả các vị ngồi đây nghe tôi nói thế có đúng hay không?”
Những e ngại, nghi hoặc, bất mãn, tức giận đè nén trong lòng các chủ nợ lớn nhỏ xung quanh giờ mới bạo phát, chỉ thấy càng là chủ nợ nhỏ lại càng to tiếng: “Phải!”, còn có người khóc lóc thảm thiết, nói: “Đó là tiền để dành mua quan tài của tôi đó! Cù lão gia, lẽ nào mọi người đều tin nhầm lão rồi sao?”
Có người nóng tính còn đạp ghế, nhảy lên chửi: “Lục Hợp môn cái thá gì, Cù lão anh hùng cái thá gì, đều là quân lừa đảo, đều là quân lừa đảo!”
Đương trường lập tức trở nên vô cùng nhốn nháo. Người của Lục Hợp môn ai nấy nhìn nhau, không biết phải làm thế nào.
Chưởng quỹ Lưỡng Tương tiền trang Lý Bạn Tương kia vốn là người trải đời, làm việc rất bài bản, thấy sắc mặt Cù Vũ ngày càng âm trầm, sắc mặt Quách Thiên Thọ ngày càng căng đỏ, hai mắt Thẩm cô cô thì ngây ra, hai người Lưu, Dương chẳng nói chẳng rằng, liền vỗ tay, nói: “Mọi người có gì thì từ từ nói, chắc là Lục Hợp môn còn có nỗi khổ của mình, Cù lão anh hùng trước nay quang minh, tuy việc đến nỗi này, tại hạ cũng không dám tin ngài là hạng bất tín bất nghĩa, chúng ta nên cho Lục Hợp môn cơ hội nói một câu”, sau đó phất tay nói: &ldquoc đi tìm Lạc Hàn, chỉ cần tuyên bố một câu: Nếu hắn không ra mặt, tôi sẽ ép Hoài Thượng. Với câu này của tôi, hắn nhất định sẽ xuất hiện.””
Thẩm Phóng và Đỗ Hoài Sơn nhìn nhau. Không sai! Viên lão đại quả nhiên cao minh. Hắn vừa tới Trấn Giang đã lộ vẻ hung hãn khó đoán, khí thế áp bức, mau lẹ, thì ra mục đích thực sự là như thế này. Chỉ nghe Bá Nhan kia nói: “Ta hỏi: “Nếu hắn vẫn không chịu ra thì sao?” Viên lão đại sầm mặt, nói: “Ngài có ấn tượng sâu sắc với một kẻ họ Dịch chăng?” Ta đương nhiên biết người hắn nói là ai, triều đình bọn ta trên dưới chẳng ai không có ấn tượng sâu sắc với hắn. Chỉ thấy mặt mày Viên lão đại âm trầm. “Nếu gã không ra, tôi đã biết được bạc kia chuyển tới đâu, vậy tôi sẽ trực tiếp tìm họ Dịch kia tính nợ.””
Đỗ Hoài Sơn bất giác siết chặt tay vịn ghế, tay vịn làm bằng gỗ Hoa Lê trong tay lão vang lên tiếng “lắc rắc” rồi nứt ra. Thẩm Phóng biết lão cố kỵ Viên lão đại nhưng không ngờ lại tới mức sợ hãi thế này, quả thật đoán không ra Viên lão đại rốt cuộc có thủ đoạn gì, có thể khiến Tam thập nhị đô úy lai lịch hỗn tạp, ai cũng có chỗ dựa phải cúi đầu nghe lệnh, khiến bậc lão luyện giang hồ như Đỗ Hoài Sơn, Tiêu Tứ Ẩn cũng sợ hãi bó tay, thậm chí ngay sứ Kim là Bá Nhan cũng hiện rõ vẻ bội phục. Tuy Thẩm Phóng chẳng có ấn tượng gì tốt với gã nhưng tới mặt mũi người Kim mà gã cũng chẳng nể lắm, riêng điểm này so với trên dưới trong triều đã là một trời một vực, khiến Thẩm Phóng không ngờ được. Theo lời Bá Nhan, dường như quyền thế mưu mô của Tần Thừa tướng cũng khó lay chuyển chủ kiến của gã, đủ thấy Viên lão đại này quả thật bất phàm. Thẩm Phóng nhìn sang Đỗ Hoài Sơn, cũng đã rõ lão lo lắng điều gì: Dịch tiên sinh - một thân văn nhân sức yếu nơi Hoài Thượng liệu có chống đỡ nổi Viên lão đại đích thân bức ép không đây?
Ai nấy nhất thời yên lặng, Thẩm Phóng nhìn Tam Nương, thấy Tam Nương đang chỉnh lại tóc mai. Tóc mai của nàng vốn rất ngay ngắn, không cần chỉnh trang, Thẩm Phóng hiểu rõ Tam Nương, biết đó là biểu hiện nàng đang vô cùng lo lắng. Biết nhau đã mười năm, trước nay hắn chưa từng thấy nàng như vậy. Nếu Viên lão đại thật sự qua sông, thế lực Đề kỵ lấn lên bờ Bắc, vợ chồng hắn tất nhiên bất hạnh. Có điều, Thẩm Phóng tuy là thư sinh nhưng có dũng khí của thư sinh, hắn vươn tay nắm chặt tay Tam Nương. Tam Nương được hắn nắm tay, tựa hồ bình tĩnh hơn nhiều, cũng nắm chặt lấy tay hắn, thầm nghĩ: Vị phu quân này tuy không hiểu võ kỹ nhưng tính cách cũng có chỗ có thể nương tựa.
Tới cả Ngô Huyện lệnh cũng biết chuyện này trọng đại, Dịch Bôi Tửu kia tuy xa tít tận Hoài Thượng nhưng chính là một tấm bình phong đệm giữa Tống - Kim. Mấy năm nay, Hoài Nam được bình ổn phần lớn là nhờ vào điều đó. Gã bèn cất giọng lo lắng mà hỏi: “Thế rốt cuộc Lạc Hàn kia đã xuất hiện chưa?”
Hầu hết những người ngồi đây đều muốn biết, lại nghe sứ Kim nói: “Không biết, có điều, không rõ tại sao Viên lão đại đột nhiên dừng việc Bắc thượng, cứ nán lại Trấn Giang. Hình như có người nói, bên bờ Trường Giang chỗ gần Trấn Giang thấp thoáng nhìn thấy một thiếu niên mặc đồ đen dắt lạc đà uống nước. Hành tung của hắn rất mơ hồ, ai biết được đấy có phải Lạc Hàn hay không? Mà dẫu có phải, người khác cũng chẳng lường được hắn nghĩ gì.”
Thẩm Phóng bỗng cảm thấy máu huyết toàn thân như dồn cả lên mặt, siết chặt tay vịn ghế, đồng thời cảm thấy bàn tay Tam Nương trong bàn tay mình siết lại. Hai người tâm ý tương thông, liền biết suy nghĩ của người kia giống hệt mình, đang nhớ tới một kiếm nọ của Lạc Hàn trong đêm mưa ở quán trọ ngày trước. Cái thần thái và sự sắc bén không thể tránh thoát đó, cái dũng khí quyết tâm sôi sục xoay chuyển tình thế đó... Thẩm Phóng chỉ cảm thấy tim mình đập nhanh, thầm nhủ: Ai bảo trời đất tiêu điều, giang hồ tịch mịch? Có Viên lão đại nọ uy phong trong cõi, thế vươn Hoài Thượng thì liền có thiếu niên áo đen kia lựa lúc hắn ở Trấn Giang mà thấp thoáng xuất hiện. Tuy chỉ thấp thoáng nhưng đã khiến Viên lão đại dừng lại, không dám Bắc thượng, còn ai dám nói chẳng kẻ nào có thể chặn mũi tiến của Viên lão đại? Chỉ một thoáng xuất hiện thôi, tuy mũi kiếm của người nọ còn chưa xuất nhưng đã khiến ai nấy thấy được chỗ mà mũi kiếm chẳng e chẳng sợ của hắn hướng vào.
Đỗ Hoài Sơn thở dài, sắc mặt Ngô Huyện lệnh bên kia cũng dãn ra. Tam Nương Tử cũng cảm thấy lòng nhẹ bẫng, thấy Thẩm Phóng và Đỗ Hoài Sơn chăm chú vểnh tai nghe phía đối diện, không biết vì sao nàng chợt có cảm giác mình đã trở lại là một người phụ nữ. Lời này nói ra dường như buồn cười nhưng từ khi Kinh Tam Nương xuất đạo tới nay, một mình giữ gìn Bồng Môn, thoa lệnh đến đâu là ở đó tầm cừu báo hận, chưa từng có cơ hội cảm thấy bản thân mình là một cô gái. Nàng trước nay cũng rất căm hận nam nhân xung quanh mình, bởi vì nàng gần như chẳng cảm thấy bọn họ giống nam nhân, sau khi kết duyên với Thẩm Phóng, tuy nàng tạm thời bình tĩnh lại nhưng Thẩm Phóng trước giờ có chí nhưng không được thỏa, tâm tình buồn bực, nàng cũng thường phải an ủi trượng phu. Bây giờ, thấy hai nam nhân bên cạnh vì chuyện quốc gia, vì thế lực tăng giảm mà vô cùng chăm chú, không hiểu sao lần đầu tiên Tam Nương có cảm giác mình là nữ nhân.
Cảm giác này thật là tuyệt, đây chính là cảm giác gác đao kiếm xuống, toàn thân yên ổn. Nàng nhìn xuống lầu dưới, bóng nắng chiếu nơi cửa đột nhiên ngắn lại, nàng nhìn kĩ, thì ra có người đang đi vào. Đó là một thiếu niên ôm đàn. Tam Nương nhìn hắn, không biết tại sao trong lòng tĩnh lặng. Thiếu niên nọ khoác trên người bộ y phục đã cũ, chẳng có gì khác với người thường, chỉ là chưa từng thấy ai mặc đồ cũ mà lại toát lên vẻ thư thái, trong sáng, mềm mại, nhẹ nhàng, khiến người ta nhìn vào mà thấy thoải mái như hắn. Hắn ôm đàn, bước thong thả, không phát ra chút tiếng động, tới ngồi xuống tấm phản gỗ cạnh cửa sổ mé trái của lầu một rồi đặt cây đàn lên đùi. Tam Nương vừa rồi còn nghĩ tới hai chữ “nam nhân”, giờ trông thấy thiếu niên này lại không biết nên phẩm bình ra sao, bỗng nghĩ tới một câu trong tập Đường thi nằm ngay ngắn trên bàn trong thư phòng của phu quân mà nàng từng đọc được: “Trướng ngọa tân xuân bạch giáp y(1).” Sau mới sực nghĩ, bây giờ đâu phải tiết xuân chứ!
Bên kia lầu vẫn đang sôi nổi, lại nghe Bá Nhan cười, nói: “Ngô đại nhân, chắc ông không chỉ định mời bọn ta rượu suông đấy chứ? Hình như người Nam các ông có câu thơ: “Hoa thời đồng túy phá xuân sầu, túy triết hoa chi tác tửu trù(2)”, đối tửu há có thể không có hoa, không có hoa làm sao được, hoa đâu? Đem hoa tới!”
Ngô Huyện lệnh nọ bật cười “hắc hắc”, cúi đầu trầm ngâm, bảo: “Thư thành đất mọn, tuy có doanh kỹ nhưng chẳng qua đều là bọn quê mùa, thô kệch, không so bì được với gái đẹp Giang Nam, chỉ sợ chẳng có đứa nào lọt được vào mắt Bá Nhan đại nhân, thế này đi...” Gã vỗ tay, một người hầu tiến tới, chỉ thấy gã thấp giọng dặn dò người hầu vài câu, lại nói: “Đi nhanh về nhanh, chọn mấy đứa được được đem tới!”
Vào thời Tống, chế độ doanh kỹ là một chế độ cực kỳ tàn nhẫn, phàm là gia quyến của quan lại phạm tội, vợ cùng con gái của kẻ đó, ngoài việc bị đưa vào cung làm nô, làm tì thì còn bị đem vào trong doanh làm kỹ nữ, từ đó sống cuộc đời hầu hạ mua vui, bán thân bán xác. Tàn nhẫn nhất chính là, vào một thời điểm nhất định hằng năm, bọn họ còn phải luân phiên vào hầu trong trại lính, cho nên bao giai thoại súc tích được lưu truyền trong phường hát của bọn sĩ đại phu phong lưu thơ rượu, chẳng cái nào không viết từ máu và nước mắt của những nữ nhân đó. Tuy Tam Nương Tử ở tầng lớp dưới cùng của xã hội, xuất thân mãi nghệ, nhưng dù thế nào vẫn có chút tôn nghiêm ít ỏi, song nếu thân là doanh kỹ thì chẳng khác nào đọa mình dưới địa ngục tăm tối nhất, muôn đời chẳng thể thoát ra.
Cho nên lúc nghe nói thế, Thẩm Phóng không khỏi buồn rầu thở dài. Đám bên kia vẫn truyền ly đổi chén, chẳng ai bận tâm. Khi ấy, người Kim trên đất Tống luôn thích gì đoạt nấy, vàng lụa, đàn bà đều không ngoại lệ, huống chi vài đứa doanh kỹ. Được một lúc, chỉ nghe ngoài cửa có tiếng xe ngựa dừng bánh, cả đám đang vui vẻ, cũng chẳng để ý. Chỉ có một viên sứ Kim hỏi sư gia của Ngô Huyện lệnh: “Tổng cộng gọi tới mấy đứa?”
Sư gia kia tủm tỉm cười, đáp: “Thư thành đất nhỏ, chẳng có đứa nào xuất sắc, đã truyền gọi sáu đứa, còn một đứa là từ bên ngoài tới, nghe bảo đứa này còn được xem là xuất sắc, quan gia chỉ cần nhìn mình nó là được.”
Viên sứ Kim kia nghe không rõ, sững người. “Một đứa?” Từ lúc tới Nam triều, gã chưa từng gặp chủ nhà nào “nhỏ mọn” nhường này, thế rồi gã quay người nhìn xuống lầu, quả nhiên thấy có mấy nữ nhân tiến vào lầu dưới, đúng là chẳng có ai xuất sắc, mặt người nào người nấy trát đầy phấn, cười gượng gạo đi lên lầu. Bên người họ đương nhiên không thiếu mấy thứ đàn sáo. Mấy người Bá Nhan đi sứ Nam triều nhiều lần rồi, mà kể cả ở đất Bắc, phụ nữ Hán bọn họ cướp về cũng không ít, khi thấy những ả này thì đều không kìm được nhíu mày. Trừ một ả được miễn cưỡng lưu lại để hầu rượu, đám còn lại đều bị đuổi xuống lầu tấu nhạc. Thư thành quả nhiên là đất quê mùa, hẻo lánh, mấy quan kỹ nọ tấu khúc Nghênh tiên khách cũng chẳng ra làm sao, tới Ngô Huyện lệnh nghe mà cũng phải cau mày. Bá Nhan không kìm được, ném ly rượu xuống lầu dưới, “xoảng” một tiếng, cắt ngang khúc nhạc, mặt mũi đỏ bừng. Ngô Huyện lệnh như đã sớm đoán được tình cảnh này, lẩm bẩm: “Sao Chu Nghiên còn chưa tới?”
Lại thấy Bá Nhan cười “hắc hắc”, nói: “Ngô Huyện tôn, ông coi thường bọn ta hay là tiếc mấy đứa doanh kỹ của ông, sao lại đem mấy thứ vừng mè kê thóc vứt đi này tới? Ta nghe nói chỗ các ông có một nữ tử nổi tiếng, tên là Chu Nghiên, nàng ở đâu, sao không thấy đến?”
Ngô Huyện lệnh lo tới toát mồ hôi, cười nịnh. “Tôi đã sai đám hạ nhân đi gọi nàng rồi, đại nhân bớt giận, đợi thêm một chút, đợi thêm một chút!”
Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy có doanh kỹ dám đến chậm. Đợi hồi lâu, mãi vẫn chưa thấy đến, chẳng đợi Bá Nhan nổi giận, Ngô Huyện lệnh đã phát nộ rồi. Một kẻ văn nhã như gã mà cũng tát ngay vào mặt tên gia nhân tới thưa lời, in dấu năm đầu ngón tay, giận dữ thét lên: “Ngươi chuyển lời của ta, có phải khiêng cũng phải mang nàng tới đây!”
Gia nhân nọ không dám nói gì, vội vàng lui xuống. Bá Nhan ở bên cạnh quan sát rồi cười lạnh, Ngô Huyện lệnh cũng tự thấy mất mặt, chỉ nghe Bá Nhan cười “hắc hắc”, nói: “Ngô đại nhân, khi quay về ta sẽ nói chuyện với Án sát sứ An Huy Lô đại nhân của các ông, ông tiếp đãi hạ quan thật tốt, phải thăng cho ông hai cấp quan ấy chứ!”
Không khí trong sảnh đột nhiên thắt lại, Ngô Huyện lệnh không dám đáp lời, chỉ liên tục vuốt mồ hôi. Nên biết lúc bấy giờ, lễ tiết của Nam triều đối với sứ thần phương Bắc luôn là lấy chiều ý làm chủ, không ai dám chậm trễ, dưới uy thế của Tần Thừa tướng, ai dám gánh trách nhiệm sơ sót gây chiến loạn đây? Lại thấy mặt mày Bá Nhan âm trầm như nước, giọng lạnh băng: “Ngô đại nhân, ta đếm đến ba, nếu Chu Nghiên còn chưa tới, tiệc rượu này bọn ta không ăn cũng được.”
Nói rồi, hắn bắt đầu đếm: “Một...”
“Hai...”
“Ba...”
Chỉ thấy trán Ngô Huyện lệnh tứa mồ hôi, trông vừa hèn hạ vừa đáng thương. Bá Nhan đã đếm tới ba, gã nói được là làm được, chẳng hề giữ cho Ngô Huyện lệnh chút thể diện, đứng dậy định đi. Ngô Huyện lệnh biết chỉ cần gã đi, cái chức quan của mình e là đi đứt, mười năm khổ sở đèn sách sẽ hóa thành bọt nước, bèn nài nỉ cầu xin: “Bá Nhan đại nhân, ngài nguôi giận, đợi thêm chút nữa, tôi nhất định gọi nàng tới cho ngài!”
Bỗng nghe dưới lầu vang lên tiếng thở dài nhè nhẹ. Tiếng thở ấy tuy nhẹ nhưng nghe vui tai, tiếp đó một giọng nói cực kỳ dễ nghe cất lên: “Ngọc Trác, không cần xin nữa! Bá Nhan đại nhân, Chu Nghiên tới rồi!”
Mọi người nhìn xuống lầu nhưng chẳng thấy mỹ nữ nào, tiếng nói ấy là của một gã xách đồ vừa rồi vào cùng mấy ả doanh kỹ, ban nãy không theo lên lầu. Hắn vừa cất tiếng, chúng nhân thấy hắn thân thể thướt tha mới biết ra là nữ tử. Bá Nhan cũng ngẩn người, nhìn xuống dưới lầu, hỏi: “Ai là Chu Nghiên?”
Đứa tớ kia đáp: “Chính là thiếp.”
Nàng ngẩng mặt, mọi người chỉ thấy nàng có ngũ quan rất đẹp nhưng sắc mặt ảm đạm. Bá nhân ngớ ra. “Cũng không thấy có gì xuất sắc.”
Đứa tớ kia như chẳng hề sợ gã, lạnh nhạt nói: “Ngài chớ làm khó Ngô Huyện lệnh, thiếp sẽ trả cho ngài một Chu Nghiên tuyệt diễm vô song.”
Bá Nhan cũng muốn xem xem nàng có trò biến đổi gì, bèn gật đầu. “Được!”
Đứa tớ kia bèn bảo: “Đem nước lên!”
Nàng hẳn đã quen thuộc với Túy Nhan các, người làm quả thật mang nước tới, trong mắt còn phảng phất vẻ lo lắng cho nàng. Chỉ thấy Chu Nghiên đặt chậu xuống đất, cúi đầu, từ từ rửa mặt. Những người ngồi đây đều yên lặng, khắp lầu chỉ nghe tiếng nàng vốc nước. Nàng còn chưa ngẩng đầu, tiếng động nọ như đã lay động lòng người. Kế đến, chỉ nghe nàng thở dài một tiếng, từ từ ngẩng đầu, nhìn lên lầu. Mới rồi son phấn làm nhơ nhan sắc, mọi người không trông thấy diện mạo thật của nàng, bây giờ nàng mới hơi ngẩng đầu, lại như toát ra vẻ mệt mỏi khôn tả, mệt mỏi với việc để nam nhân ngắm nhìn. Mọi người giờ mới thấy dung nhan như phù dung đượm sương sớm của nàng, trong tòa lầu cổ này, đó quả là một vẻ tuyệt diễm khó có thể diễn tả bằng lời. Bá Nhan há hốc miệng, chỉ nghe nàng cất tiếng thở dài, nói: “Thiếp đi thay y phục”, sau đó cất bước thướt tha đi ra khỏi cửa. Chúng nhân nhìn theo bóng lưng nàng mà chẳng nói nên lời, tựa như giờ mới hiểu thế nào là: “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung(1)”, thế nào là: “Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan(2).”
Chu Nghiên rời đi rất lâu, thúc mấy lần, mãi sau nàng mới trở lại trong sự kỳ vọng của mọi người. Đầu tiên, chúng nhân chỉ nghe tiếng nàng xuống ngựa, hẳn là nàng thay y phục trên xe, sau đó có tiếng ngọc bội “lanh canh”, tuy rất nhỏ nhưng lại khiến ai nấy phải vểnh tai lắng nghe. Trang sức của Chu Nghiên hẳn không nhiều nhưng cứ vang lên tiếng “tinh tinh”, lúc ngưng lúc tỏ, người còn chưa tới, âm thanh đã vang khắp không gian. Chỉ mấy bước từ cửa viện tới cửa lâu, ngọc bội của nàng đã tạo thành một đoạn nhạc, tựa như khẽ khàng gõ vào lòng người, nàng nói: “Thiếp đến rồi, đến rồi đây!”
Thẩm Phóng cùng Tam Nương cũng dõi theo ánh mắt mọi người, kế đó Chu Nghiên mới xuất hiện ở cửa. Những người nhìn thấy nàng đều bất giác giật mình, người vốn đang mồm miệng tép nhảy bỗng ngậm miệng, người vốn đang ngậm miệng thì lại hơi hé miệng, tiếng nói chuyện ở các bàn lần lượt lặng đi, chỉ thấy Chu Nghiên đứng nơi ngưỡng cửa, dáng vẻ ngại ngần, giống như không biết mình đang làm gì, đi đâu, đẹp tới cùng cực chính là ở vẻ mê man mà chính mình cũng không biết. Nàng bận một chiếc áo đỏ rực, choàng khăn màu bạc, dưới làn khăn lộ nửa cánh tay áo màu xanh lạt, nàng đứng ở cửa, ánh sáng sau lưng, như thật như ảo. Bấy giờ mọi người chẳng nhìn rõ mặt nàng, tới Đỗ Hoài Sơn cũng kinh ngạc. Lúc này, Chu Nghiên mới ngẩng đầu nhìn lên lầu, cất tiếng hỏi: “Ngọc Trác, ba tháng nay chàng không chịu gặp ta, sao bây giờ lại vội vàng gọi ta tới thế?”
Người nàng hỏi hình như là Ngô Huyện lệnh, hẳn tên thật của Ngô Huyện lệnh là Ngọc Trác, chỉ thấy vẻ mặt gã cực kỳ xấu hổ. Chu Nghiên ra mặt tuy đã giải vây cho gã nhưng lúc này dường như gã không muốn gặp Chu Nghiên. Vừa chạm vào ánh mắt Chu Nghiên, gã lập tức nhắm mắt. Hình như Chu Nghiên và gã biết nhau từ trước, thấy gã không đáp thì khe khẽ thở than một tiếng rồi đi lên lầu.
Nàng uyển chuyển chào hỏi: “Tiểu nữ xin ra mắt các vị đại nhân!”
Giọng nàng không thể ví là như châu như ngọc, bởi có là châu ngọc cũng chẳng thể tạo ra thứ âm thanh trong trẻo, nhuần nhị chẳng có ở chốn nhân gian đó. Bây giờ ở gần, chúng nhân mới trông tỏ dung mạo của nàng. Chỉ thấy nàng quả đúng như tên gọi, xinh đẹp thanh tân(1). Thông thường, khi nữ nhân nhìn nhau thường sẽ nhìn y phục trước tiên, nhưng Tam Nương cảm thấy Chu Nghiên khiến cho người khác chưa kịp nhìn y phục của nàng thì đã mơ màng rồi. Nàng không mang nhiều trang sức rườm rà nhưng không phải là không có, để tránh nhạt nhẽo. Không thể diễn tả nổi nàng đẹp thế nào, chỉ là bất cứ nữ nhân nào trên đời trông thấy nàng, chỉ e con tim sẽ mất đi cảm giác. Thì ra một người con gái có thể “con gái” tới mức này. Tam Nương Tử kinh ngạc nhìn cô gái tên Chu Nghiên đó, đã từng này tuổi, vậy mà bây giờ nàng mới hiểu ra thế nào là “kinh diễm”.
  1. 妍): nghĩa là “đẹp đẽ”.
Trước nay Tam Nương không thích nữ nhân quá chói mắt, nhưng thì ra “chói” cũng có thể chói thành vẻ tuyệt diễm nhường này, nàng cũng có chút xem thường “mị”, nhưng “kiều mị mà không tục tĩu” hóa ra cũng không phải câu nói suông. Sau khi nhìn thấy Chu Nghiên, nàng mới biết nữ nhân chốn thành thị hóa ra cũng có thể “tươi mới”, nhưng lại không phải kiểu tươi mới tới quê kệch như con gái miền quê, còn về phần “xinh đẹp”, thì ra mấy thứ phấn son có thể điểm trang cho một người để có được vẻ tự nhiên nhường ấy.
Trong cả tòa lầu, người duy nhất không kinh ngạc đến ngây người hẳn là Thẩm Phóng, hắn nhìn một cái rồi quay lại nhìn Tam Nương. Bỗng nghe Ngô Huyện lệnh nói: “Chu hiệu thư(1), chuyện của chúng ta sau này sẽ nói. Bá Nhan đại nhân là khách quý của triều đình, vừa rồi ngài than thở đối tửu không thể thiếu hoa, mới đợi nàng tới. Thư thành của chúng ta nhỏ bé, chẳng ai xứng lọt vào mắt ngài. May có nàng lưu lại đây, ta muốn mời nàng đàn một khúc, thế nào?”
Chu Nghiên đưa mắt nhìn hắn, vừa có vẻ vui mừng vừa có vẻ nghi hoặc, nhưng trong hoàn cảnh này cũng không tiện nhiều lời, bèn khẽ gật đầu, tự mình tới ngồi xuống một cái đôn vuông cạnh lan can. Nàng có đem theo một cây đàn tỳ bà, chỉ thấy nàng ôm nó trong lòng, mắt vẫn nhìn về phía Ngô Huyện lệnh, tựa như có nét u oán. Song Ngô Huyện lệnh lại chẳng nhìn nàng, nàng khẽ cười khổ rồi gảy dây đàn, sau đó liếc nhìn xung quanh. Nàng ngồi chênh chếch, chọn vị trí tốt, có thể bao quát toàn lầu. Làn thu ba lưu chuyển, những người ngồi đây bất kể là ai, ngay cả Thẩm Phóng và Tam Nương bên kia đều cảm thấy, nàng đã nhìn tới mình. Kẻ tuổi trẻ thì tim nhảy thót, không khỏi nảy sinh cảm giác tự thẹn mình hình dung xấu xí. Cái nhìn ấy xem như lời dạo đầu của nàng, chỉ nghe nàng gảy đàn, tiếng đàn “tinh tang”, dần kết thành khúc điệu, nàng nhẹ cất tiếng hát:
“Hay là thôi mấy lời thủ thỉ, chỉ muốn hỏi chàng lấy một câu, phải chăng có phép hay cách lạ, cởi thiếp đây mê loạn muộn phiền. Thiếp thấy sợ gối đây chăn đấy, những ấp ôm dơ bẩn thế kia, nói cái gì mà ca hay múa đẹp, đều chỉ là giả dối buổi ngày thôi. Ôi đáng hận, thật là đáng hận. Thiếp chỉ mong được áo vải với quần thô, thoát khỏi chốn phong hoa phóng đãng.”
Lúc nàng cất tiếng ca nhè nhẹ ở bên này, ở bên kia Đỗ Hoài Sơn đang thấp giọng hỏi tiểu nhị: “Nàng ấy là ai thế?”
Tiểu nhị khẽ cười, đáp: “Cô nương ấy chính là Chu Nghiên, nghe bảo ở Lâm An cũng là phường nức tiếng.
Quý khách chưa từng nghe tới à? Nàng lưu lạc tới đây, thật xinh đẹp tới sững sờ phải không? Đáng tiếc, doanh kỹ có tới đâu vẫn cứ là doanh kỹ, chẳng thoát nổi sổ sách của giáo phường, có xinh đẹp hơn nữa cũng chỉ uổng mà thôi.”
Đỗ Hoài Sơn gật đầu, lão là người cẩn thận, lại hỏi nhỏ: “Sao thi thoảng nàng lại ngó nhìn Huyện lệnh của các vị thế? Ta thấy lời ca này của nàng dường như là hát cho hắn nghe vậy.”
Tiểu nhị nọ biến sắc mặt, ngó bốn phía thấy không có ai mới than khẽ một tiếng, nhưng vẫn không nói gì, xoay người rời đi. Đỗ Hoài Sơn sao chịu để gã đi, bèn níu lại, cười mà truy hỏi: “Kể đi mà!” Tiểu nhị hãy còn do dự, Đỗ Hoài Sơn đã nhét vào tay gã một thứ cưng cứng, lành lạnh, màu bạc, khiến cho con mắt nhìn thấy thì con tim không thể không động. Tiểu nhị nọ không thể không dừng lại, tủm tỉm cười, nói: “Thật ngại quá, chuyện nói ra cũng dài, tôi cũng là nghe ông bố vợ ở nhà kể, Chu Nghiên cô nương này thuê nhà lão mở một quán trọ nhỏ.”
Nói tới đây, thần sắc của tiểu nhị nọ có phần ảm đạm. “... Đúng là hồng nhan bạc phận! Nghe bảo Chu Nghiên cô nương vốn có xuất thân tốt, ai ngờ hồi chạy xuống phía nam, gia đình tan nát, vì sao tới mức lưu lạc vào ngõ Bình Khang làm nghề này để sinh nhai, nàng không nói, cũng chẳng ai biết, tóm lại chẳng phải bởi số khổ sao? Được cái nàng lớn lên xinh đẹp, thân ở giáo phường, nếu lớn lên mà xấu xí thì sẽ càng phải chịu thiệt thòi. Cũng may, nhờ dung mạo ấy mà nàng có được vị trí tốt, tôi nghe một vị chưởng quỹ ở chỗ chúng tôi hay qua lại thành Lâm An kể, điều hiếm có chính là rất ít nam nhân chiếm được nàng, bởi nàng quá đẹp, hiếm ai đối diện với nàng mà không tự thẹn mình xấu xí, suốt mấy năm liền, nàng không động lòng với ai, cũng chẳng tiếp bao nhiêu khách, nhưng danh tiếng trong thành Lâm An thì rất cao, lời rằng: “Chu Nghiên múa một điệu, ngàn vàng cũng khó mua” e cũng chẳng phải ngoa. Bên trên cũng tự có vài quý nhân chiếu cố bảo vệ nàng, chỉ cần nàng không vướng vào yêu đương thì ổn rồi.”
Nói rồi, giọng tiểu nhị bỗng nhẹ đi: “Đáng tiếc, hồng nhan bạc phận, giai nhân thường vướng phải phường kém cỏi. Bao nhiêu vương tôn công tử như thế, nàng chẳng để ý mà lại nhìn trúng Huyện lệnh chỗ chúng tôi. Huyện lệnh chỗ chúng tôi hồi chưa đỗ tiến sĩ, gia cảnh cùng quẫn, chẳng biết thế nào lại quen được Chu Nghiên, nghe nói hắn cũng có chút tài hoa. Chu Nghiên cũng vì quý tài hoa của hắn mà chịu hạ mình bầu bạn, còn đem vàng lụa giúp hắn đỗ đạt. Đáng tiếc, Huyện lệnh chỗ chúng tôi chẳng có chỗ dựa nào trong triều, đành phải ở ngoài làm huyện lệnh của cái huyện bé tí này. Mới đầu, bọn họ còn hay thư từ qua lại, về sau, Ngô Huyện lệnh bèn cắt đứt. Tôi nghe người biết nội tình kể: Ngô Huyện lệnh đã sớm hối hận vì chuyện qua lại với nàng khiến cho thanh danh hắn không được tốt, hắn cũng không được đám công tử quý nhân trong thành Lâm An dung nạp nên mới phải làm quan ở bên ngoài, nhưng vì Chu Nghiên vẫn đang ở trong kinh, giao lưu với toàn những người không tầm thường, cho nên hắn vẫn phải dây dưa với nàng. Về sau, nghe nói từ khi hắn ra ngoài làm quan, Chu Nghiên liền đóng cửa từ chối khách, Ngô Huyện lệnh không hài lòng, bèn không hồi âm thư của nàng nữa. Ai ngờ, Chu Nghiên cô nương này thật sự si tình, dứt khoát vứt bỏ hết phồn hoa, một mình vượt xa xôi nghìn dặm tìm đến đây. Nàng tới Thư thành cũng được ba tháng rồi, nhưng Ngô Huyện lệnh một mực không tiếp. Ài, chẳng ngờ... hôm nay bọn họ cũng đã gặp mặt...” Tiểu nhị dường như cũng chẳng biết nên bình luận cục diện khó xử hôm nay ra sao, bèn nhìn mấy người Đỗ Hoài Sơn, trên mặt hiện nụ cười khổ rồi xách ấm đi.
Điệu khúc Chu Nghiên hát gọi là Đao đao lệnh, vốn có xuất xứ từ phương Bắc, sau vào Giang Nam thì biến hóa phức tạp hơn, hai năm nay rất nổi tiếng. Chỉ thấy nàng hát một câu lại nhìn Ngô Huyện lệnh một cái, ánh mắt chất chứa sự thở than, tựa như một người vốn không dám tin trên đời có thể nương tựa vào ai nhưng lại tình nguyện nhẹ dạ một lần, khuất thân bầu bạn song lại bị phụ bạc, nhìn rồi lại nhìn, nhận ra mình đang đến gần vực sâu của sự thê lương và cảm thán. Thê lương vốn là khổ nhưng trong mắt nàng, thê lương cũng là đẹp. Những người ngồi nghe đều nghiêm nghị ngồi thẳng, chỉ có Bá Nhan là hơi há miệng, ngơ ngẩn nhìn nàng... bởi vì cũng chỉ có gã mới có tư cách này. Chu Nghiên đàn xong một khúc liền thu tỳ bà lại, chầm chậm đứng dậy, thấp giọng hỏi: “Ngọc Trác, chàng thật sự không nhận ra thiếp sao?” Nét mặt nàng lộ vẻ quyết tuyệt.
Ngô Ngọc Trác sững người, dường như không tiện trả lời. Sư gia bên cạnh gã luống cuống, vội chõ miệng cười, đáp: “Chu hiệu thư vang danh thiên hạ, làm gì có ai không biết. Tới đây, tới đây, ta rót một chén rượu, cô nương tới kính Bá Nhan đại nhân một chén.”
Chu Nghiên chẳng hề nhìn hắn lấy một cái, cũng chẳng buồn liếc Bá Nhan, cay đắng hỏi: “Ba tháng rồi, chàng chẳng chịu gặp thiếp lấy một lần. Thiếp biết chàng đã nạp thê cưới lẽ, thiếp chẳng biết nói sao, nhưng hai năm ân tình, sớm hôm bầu bạn, lẽ nào cứ thế cắt đứt ư?”
Ngô Huyện lệnh tỏ vẻ xấu hổ, lại nghe Chu Nghiên nói: “Kỳ thực, thiếp là hạng người này, cắt đứt thì cắt đứt thôi, thiếp chỉ muốn chàng ở trước mặt nói với thiếp một câu, thật ra chỉ cần tốt cho chàng, thiếp thế nào cũng được.” Trán Ngô Ngọc Trác lấm tấm mồ hôi, lần này chẳng phải vì sợ mà là vì hổ thẹn. Chỉ nghe gã nói: “Chu Nghiên, chuyện này chúng ta nói sau được không? Bây giờ Bá Nhan đại nhân với bao nhiêu vị đại nhân đều có mặt ở đây, nàng... nàng hát thêm một khúc đi!”
Chu Nghiên khẽ run rẩy. Nàng nhìn Ngô Ngọc Trác, chỉ thấy gã đang mặt mày bất an mà ngó Bá Nhan. Cuối cùng nàng cũng nhìn rõ nam nhân này, nghe thấy trong cõi lòng mình có thứ gì đó tan vỡ, âm thanh ấy tuy rất nhỏ nhưng cũng rất lớn, tới cả Tam Nương ở phía đối diện cũng có vẻ nghe ra từ thân hình khẽ run rẩy của nàng. Đáng tiếc, kẻ nàng từng quan hoài nhất, từng vì gã mà buông bỏ tất thảy lại đang mồ hôi đầy mặt mà nhìn viên sứ thần nước Kim, sợ sệt run rẩy, hoàn toàn chẳng nghe được.
Chu Nghiên nở nụ cười, nụ cười rạng rỡ khôn bì, cảm thấy đời này kiếp này không muốn nhìn thấy loại nam nhân này nữa.
Sau đó, nàng khinh rẻ tột độ, chỉ vào Bá Nhan. “Rốt cuộc, vì Thư thành quá bé, chẳng có gì để khoản đãi vị quan nhà Kim này nên chàng mới nhìn tới thiếp, đem thiếp ra tiếp đãi?”
Nàng đau lòng đến muốn chết, trên khuôn mặt vẫn toát ra vẻ diễm lệ mà thê lương. Nàng lắc đầu, cười khổ. “Nam nhân a!” Nam nhân ngồi đó, những ai có chút lòng đều thấy hổ thẹn, cảm thấy ba chữ này của nàng đã cảm thán tới cùng tận cái đức hạnh của nam nhân. Lại nghe Chu Nghiên than rằng: “Vậy thiếp còn hát Đao đao lệnh làm gì nữa, vốn là giả tình giả ý, có thiết tha mấy cũng níu chẳng được, giữ chẳng xong.”
Mắt nàng đẫm lệ. Nàng vốn tuyệt sắc, tuy trong chốn bùn nhơ nhưng vẫn xuất trần. Nàng cảm thấy mình vốn đã cho cái thế giới đen tối này một cơ hội để níu giữ nàng... tựa như lưu giữ lại sự tốt đẹp và một chút chân tâm, tuy nàng hoàn toàn không tin nó nhưng vẫn cho đi, nhưng nó lại đem chà đạp.
Nàng nhìn Bá Nhan, khẽ cười, hỏi: “Ngài muốn ngủ cùng ta sao?”
Bá Nhan ngớ người, không ngờ nàng lại hỏi như thế, cũng chỉ có thú tính bên trong gã mới không bị sự thương cảm cảm nhiễm, chỉ nghe gã hớn hở đáp: “Phải!”
Chu Nghiên chỉ cười, ánh mắt nhìn gã giống như đang nhìn một loài thú vật, rồi nàng quét mắt nhìn tất cả mọi người có mặt, sau đó nhìn vào khoảng không, miệng khẽ buông: “Nằm mơ đi!”
Miệng nói, tay trái nàng đã đưa ra ngoài lan can rồi buông ra, cây đàn tỳ bà trong tay rơi xuống. Mọi người xung quanh cả sợ. Chỉ thấy nàng cười khẽ, cơ thể nhẹ nhàng đổ xuống, cả người rơi xuống lầu, chẳng ai ngờ nàng lại dứt khoát đến thế, chỉ kịp nghe nàng thủ thỉ một câu: “Ngọc Trác, nhớ lấy, ta không phải vì chàng mà nhảy, chàng còn chưa xứng để khiến ta thất vọng...”
Những người có mặt đều “úi” một tiếng, đa số còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì đã sắp có cảnh máu nhuộm lan son rồi.
Lúc Chu Nghiên buông mình nhảy xuống, trong tay nàng nắm sẵn một con dao gọt hoa quả nhỏ. Nàng biết lầu gác không cao, cho nên lúc nhảy đã hướng người xuống, lại kề mũi dao ngay ngực, rõ là đã ôm lòng chết chắc. Mọi người đều chẳng ngờ nàng lại cứng cỏi đến vậy, chỉ có Đỗ Hoài Sơn là phản ứng nhanh, vừa thấy Chu Nghiên nhảy xuống đã lập tức nhào tới cứu. Đoạn hành lang chỗ lão cách chỗ Chu Nghiên phải bốn, năm trượng, Chu Nghiên rơi thẳng xuống, lão lại bay nghiêng qua, có điều thân thủ của Đỗ Hoài Sơn cực nhanh, dù tà tà lao tới vẫn bắt kịp lúc nàng còn cách mặt đất ba thước. Ngoại hiệu của lão là Động Minh thủ, vốn có ánh mắt sắc bén, giữa không trung đã thấy được trong tay Chu Nghiên cầm dao. Lão không vội túm lấy người mà vươn tay túm lấy cổ tay nàng trước, vừa kéo vừa vặn, con dao trong tay nàng liền tuột ra, mũi dao cắm thẳng xuống, “phụp” một tiếng, ghim xuống sàn gỗ, dao lút tới cán, đủ thấy nó sắc bén tới mức nào.
Kế đó Đỗ Hoài Sơn mới giữ lấy Chu Nghiên, vững vàng đáp xuống. Tuổi lão đã cao, đã quá cái tuổi tri thiên mệnh, vốn chẳng cần để ý tới cái mà thế tục gọi là kiêng kỵ nam nữ, nhưng Chu Nghiên này quả thật quá xinh đẹp, lúc Đỗ Hoài Sơn đón lấy nàng bèn bất giác đưa hai tay về phía trước, giữ người nàng ở xa xa, sau đó nhẹ nhàng đặt nàng xuống đất, bấy giờ nước mắt của Chu Nghiên mới tuôn rơi. Đỗ Hoài Sơn sống trên đời đã sáu mươi mấy năm, giờ mới rõ thế nào là lệ má hồng chẳng quản tuế nguyệt, chỉ nghe nàng lẩm bẩm: “Cớ sao còn cứu thiếp?”
Đỗ Hoài Sơn không tiện đáp, mà cũng không đáp nổi.
Chu Nghiên than rằng: “Thiếp đã là một nữ nhân chẳng ai đoái hoài. Cuộc đời này thiếp đã sống chán rồi. Thiếp có sống tiếp, cũng chỉ chịu thêm khuất nhục mà thôi, có còn ý nghĩa gì đâu! Ài... Chu Nghiên à Chu Nghiên, trần thế nhộn nhạo, toàn là bọn mày râu bẩn thỉu, chẳng có được người nào có thể bao bọc ngươi.”
Đỗ Hoài Sơn ngẩn người nhìn nàng, tự đáy lòng dâng lên cảm giác dịu dàng đã lâu không gặp. Trên lầu bỗng vang lên một tràng hoan hô, hóa ra thấy lão một thân già cả, suy yếu mà lại phóng mình vút đi, cứu người thành công, thân thủ nhanh nhẹn hơn đứt đám thiếu niên, đám người Kim ở dãy hành lang phía bắc tuy trước nay vẫn xem thường người Nam triều cũng vỗ tay tán thưởng. Đỗ Hoài Sơn không tìm được lời nào để an ủi, cảm thấy không nên tiếp tục lưu lại bên cạnh Chu Nghiên. Trong lòng lão cũng thầm thẹn, từ lúc thê tử của lão qua đời, lão vẫn luôn nhìn hồng nhan như xương khô, lòng chẳng dấy ý niệm nam nữ đã hơn hai chục năm, nhưng khi cứu Chu Nghiên, lão không kìm được hai tay nâng đỡ, rõ ràng đã động lòng nam nữ, bây giờ dưới ánh mắt bao nhiêu người lại cảm thấy không tiện lưu lại bên cạnh Chu Nghiên, thế là do đâu? Thoáng ngẫm, mặt đỏ lên, lão nghĩ: Đỗ Hoài Sơn à Đỗ Hoài Sơn, thật uổng cho ngươi chăm chỉ tu luyện Động Minh thủ hơn ba chục năm! Liếc mắt nhìn sang, thấy Chu Nghiên tuy đang rơi lệ nhưng phong thái không loạn, vẻ đẹp đó của nàng thật khiến người ta kính nể, Đỗ Hoài Sơn thầm than trong lòng, tự nhủ: Người như thế, vốn không nên sinh trong cõi người. Lão nhặt cây đàn tỳ bà Chu Nghiên thả rơi lúc trước, thấy đuôi đàn cùng trụ căng dây đã nứt vỡ.
Lão xoay mình đưa cây đàn cho Chu Nghiên, khẽ nói: “Cô nương hãy bảo trọng, nghe một câu của lão hủ, đời người dài lắm, dù sao cũng chớ nên nghĩ quẩn nữa!” Rồi lão xoay người lên lầu, biết hành động này của mình chẳng phải là vì giếng cũ sóng không gợn, mà là để tránh né vẻ mỹ diễm tỏa ra bốn phía của nữ tử kia.
Ánh mắt từ bốn phương nhất thời tụ lại trên người Chu Nghiên ở dưới lầu, chỉ thấy nước mắt nàng không ngừng rơi, người gập xuống, ngồi bệt dưới đất. Sau một lần tìm tới cái chết, nàng như đã quên đi ý muốn tự tuyệt, ôm cây đàn tỳ bà tựa người bằng hữu đã bầu bạn với mình cả đời vào lòng, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không rõ đang nghĩ gì. Bất tri bất giác, ngón tay giữa của nàng khẽ cử động, chạm phải dây đàn, âm thanh vang lên, nàng như mới có chút tri giác với thế giới bên ngoài. Nàng đưa đôi mắt mờ mịt nhìn bốn phía, tất thảy đều trống rỗng, ảm đạm, không thể nương tựa, chỉ có cây đàn này là thân thuộc. Thế giới này cô quạnh là thế, tới mức chỉ còn lại cây đàn này thôi! Bàn tay nàng không tự chủ nhấn xuống dây đàn ngày thường nàng quen nhất, sợi dây khẽ rung, vang lên điệu khúc ngày thường nàng thuộc nhất. Tỳ bà rơi hỏng, âm thanh hơi vỡ, trụ dây lại lung lay, âm chuẩn có chút loạn nhưng càng tăng nỗi thê lương. Móng gảy đàn của Chu Nghiên rơi đâu mất hai, ba cái, nàng cũng chẳng buồn tìm, tựa như hoàn toàn không cảm thấy gì, tùy tay gảy tấu, chênh chênh tấu lên lại chính là khúc Đao đao lệnh vừa rồi - người con gái đẹp như nàng cũng chỉ mong tìm thấy một mối tình có thể một đời một kiếp tha thiết không thôi.
Nàng nhỏ giọng ca rằng:
Nhớ về buổi hương đưa ngày trước, đã buông lời thề ước chân thành. Tiễn người đi ngựa xe đà khuất nẻo, mà lệ rơi cô quạnh tới thê lương. Ngóng mòn mỏi chẳng thấy tin ngư nhạn, mối hàn ôn biết ký thác vào đâu. Nhắc tới ch&;o khổ, mới gặp đã tặng luôn ba chỗ sản nghiệp, phong thái ngày ấy, tới nay khó quên, tình ấy nghĩa ấy, người của Hoài Thượng ai nấy ghi tạc, làm sao dám quên?”
Mọi người không ngờ hắn tuổi còn trẻ mà lại thong dong kể chuyện xưa, nhưng bạc là của hắn nên cũng đành nhẫn nại lắng nghe, huống chi việc của Hoài Thượng trước giờ muôn kiểu đồn đại, rất thần bí, mọi người cũng thực có hứng nghe.
Chỉ nghe Dực Liễm tiếp tục kể: “Các năm sau đó, quyên tặng của Cù lão anh hùng ngày một nhiều, tại hạ cũng từng mấy bận trong lòng không yên, nhưng Cù lão đối với việc trong gia môn...”, hắn liếc người trong Lục Hợp môn một cái, hơi ngừng lại, “... trong lòng không vui. Người nói: “Sản nghiệp này là do một tay ta gây dựng, đáng tiếc, đám môn hạ đã quen an lạc, chỉ biết tranh chấp, khiến lòng muốn truyền Lục Hợp môn đã nguội lạnh.” Người cũng thường nói: “Do ta mà có, vì ta mà mất, ta có gì phải tiếc hận?” Từ đó về sau, Hoài Thượng càng được Cù lão tiếp trợ nhiều hơn. Mấy năm nay, Lương Hưng ở Hà Nam, Sở Tướng quân ở Tương Phàn, Dữu Bất Tín ở Tô Bắc sở dĩ còn có thể gian khổ tranh đấu, thủ vững không lui, bảo vệ được một phương lãnh thổ, cho trăm họ ven sông Hoài có cơ hít thở, tâm sức và tài sản Cù lão anh hùng góp vào đó thực là đại công. Đặc biệt là hai năm gần đây, Hoài Thượng khó khăn, ngài vẫn đều đặn tặng tiền tài tới, tôi chỉ e gia sản Cù lão đã hết sạch, đây đa phần là vay mượn. Cù lão không chịu nói, tôi cũng không tiện hỏi, chỉ thầm hứa với ngài một câu: “Nghĩa quân Hoài Thượng tuy nghèo nhưng quyết không thể lụy tới Cù lão anh hùng vay nợ tứ xứ, làm nhục tới thanh danh.” Tôi nhận được tin, biết mấy năm nay Cù lão anh hùng cũng có mấy bận làm ăn, mua vào không ít sản nghiệp, chẳng qua thu vào thì ít, chi ra quá nhiều, người làm thì ít mà kẻ tiêu lại lắm, không phải Cù lão định nợ các vị mà không trả, quả thực là vì nhất thời dính dáng quá nặng. Nửa tháng trước, ngài còn nhờ người chuyển lời, nói tâm lực mệt mỏi, hỏi xem tôi còn có khó khăn gì không. Qua một thời gian nữa, chỉ sợ mình sẽ phải để lại cho tôi chút phiền hà. Tôi liền biết Cù lão anh hùng đã không chống đỡ được nữa, sắp khuất núi rồi, nhưng không ngờ sự tình lại tới nhanh thế này.”
Dứt lời, hắn buông tiếng thở dài, nhìn di ảnh của Cù Bách Linh treo trong nội đường, nhất thời không nói gì nữa. Chúng nhân vốn không biết còn có đoạn ẩn tình này, thì ra ngân lượng được dùng như thế, mọi ánh mắt đều dõi theo cái nhìn của hắn về phía di ảnh. Chỉ thấy trong bức họa là một lão nhân quắc thước, nét mặt góc cạnh, hai bên mép hơi trễ xuống, ánh mắt nhân từ, tựa như chết rồi mà vẫn lo buồn cho thế sự, có điều đôi mắt này của lão nhân thể hiện sự dứt khoát, kiên định, vững vàng, không chịu cúi đầu.
Tam Nương nhìn vào đôi mắt của lão nhân, lại nhìn sang Dực Liễm, thấy khuôn mặt Dực Liễm không chút biểu cảm. Nàng nhìn xuống đôi tay hắn, thấy Dực Liễm tuy văn nhân sức kém song đôi tay lại không nhỏ, nhưng gầy, năm ngón tay trắng nhưng cũng thẳng, cứng, vững vàng, chắc chắn, đó hẳn là đôi tay không dễ dàng chịu vái lạy. Khóe miệng hắn cũng hơi trễ xuống, thần sắc khác với vẻ bình đạm thung dung ngày thường.
Trong nội đường có người khẽ thở dài. Từ sau khi biết Cù Bách Linh qua đời, chúng nhân cơ hồ đều nghĩ tới tiền của mình trước tiên, sự yên ổn, lòng lo lắng đều dồn cả vào đấy, tới tận lúc này mới thực sự nhớ tới người đã khuất, tới dáng vẻ Cù Bách Linh lúc sinh tiền, tới giao tình giữa mình và Cù lão, có người đã đỏ hoe mắt. Không nói đâu xa, Cù Bách Linh là người có công lớn với thành Lục An. Năm đó, quân Kim xuống phía nam, đi qua đất này, biến nơi đây thành một mảnh đất tàn, sở dĩ Lục An không gặp phải tai họa bị hủy hoại hoàn toàn là nhờ vào công lao kháng địch của Cù Bách Linh cùng Bát Tự quân, chỉ một lần ấy không biết đã bảo vệ được bao nhiêu bách tính. Người bình thường còn biết lẽ phải quấy, lúc này họ đều vứt bỏ lợi ích trước mắt, trông tới di ảnh, không khỏi lần đầu tiên trong đời dấy lên cảm giác lão nhân kia, cái lý tưởng kia, lòng kiên trì kia hóa ra đã từng ở gần mình như thế.
Bỗng nghe Dực Liễm than khẽ: “Nay Cù lão anh hùng đã cưỡi hạc về Tây, nghĩa quân Hoài Thượng tôi tuy không dư thóc gạo, không thừa vải vóc nhưng cũng không thể để tổn hại đến thanh danh của Cù lão. Bởi thế, vàng bạc ở đây chính là tôi thay mặt nghĩa quân đem tới trả nợ.”
Mọi người không ngờ món nợ này thật sự có thể giải quyết, chỉ thấy Dực Liễm nghiêng đầu qua gật đầu với Thẩm Phóng, lại liếc sang chỗ bạc bên kia, Thẩm Phóng lĩnh ý, đi tới bên hòm vàng, túi bạc giữa nội đường.
Dực Liễm quay sang mỉm cười, nói với Thẩm cô cô: “Làm phiền rồi, nơi đây có cân tiểu ly không?”
Cân tiểu ly là công cụ để cân bạc. Thẩm cô cô vội đáp: “Có” rồi quay sang gật đầu với Lãnh Siêu, Lãnh Siêu chạy như bay đi lấy. Dực Liễm đọc: “Nợ, Dương Chính Hòe ngoài cửa đông một nghìn năm trăm ba mươi lượng”, sau đó đưa ánh mắt xuống dưới tìm hỏi, liền thấy có một hán tử áo xanh đứng dậy, tiến lên, khom lưng hành lễ, Dực Liễm bèn quay sang gật đầu với Thẩm Phóng.
Người tới đây ai nấy đều mang theo biên lai Cù lão môn chủ lập lúc xưa, người này cũng không ngoại lệ, lập tức đưa lên. Thẩm Phóng nhận lấy, cùng mấy người Quách Thiên Thọ, Dương Triệu Cơ kiểm chứng, thấy không có gì sai, Lãnh Siêu liền gọi hai người trong phòng sổ sách của Lục Hợp môn tới cân bạc giao trả.
Một nghìn năm trăm lượng không phải con số nhỏ, Dương Chính Hòe nọ là ông chủ tiệm may y phục, món tiền này là Cù lão gia đặt may áo đông cho nghĩa quân Hoài Thượng mà nợ lại. Dương Chính Hòe vốn mang theo hai đồng bạn tới, không vì gì khác, chỉ để lấy lòng can đảm, chẳng ngờ hôm nay lại lấy được bạc về. Hắn bèn gọi hai người kia đem mấy bao bọc xuống, Thẩm Phóng cũng đã ghi rõ “thanh toán xong” trên phiếu nợ, Dương Chính Hòe cũng ký nhận, vốn thế là xong, bỗng thấy hắn đi tới cửa thì ngập ngừng một lúc rồi dứt khoát quay lại.
Thẩm Phóng nghi hoặc hỏi: “Còn có sai sót sao?” Dương Chính Hòe lắc đầu, đi tới trước linh vị của Cù
Bách Linh, mắt rớm lệ, cung kính dập đầu trước di ảnh ba cái, sau đó mới lui đi.
Chủ nợ kế tiếp không có mặt. Người tiếp sau cũng theo thế mà tới nhận tiền. Những chủ nợ nhỏ này quá nửa là buôn gạo, buôn vải, buôn mã cụ, buôn tạp hóa, Thẩm Phóng tuần tự giải quyết. Những người nọ nhận được tiền xong, đa số cũng tới trước linh vị Cù Bách Linh hành lễ rồi mới đi. Cù Vũ ở một bên ngây ngẩn nhìn, hắn một mực coi bá phụ là cứng nhắc, bảo thủ, cho tới giờ mới thật sự nhìn rõ con người lão, cũng là lần đầu tiên nhận ra thế nào gọi là hành xử của bậc trượng phu, thế nào gọi là để phúc cho dân. Có người lúc dập đầu trước linh vị Cù Bách Linh còn nói: “Lão anh hùng, lúc còn sống ngài đã giữ cho một phương được bình an, khuất rồi ắt thành oai linh một phương. Lúc trước tôi mắng ngài chính là có mắt như mù, trách lầm ngài rồi! Nếu không có ngài hào kiệt bậc ấy, bọn kiếm chút tiền mọn chúng tôi biết phải làm sao? Chẳng đổi được bình yên thì thôi, còn không bị người ta cướp bóc khi nhục ư?” Nói rồi, ý thẹn dâng lên, y tự bạt tai hai cái thật mạnh rồi mang hai má sưng vù mà đi ra.
Người bên cạnh thấy thế cũng không khỏi nghiêng mình kính nể, lòng người trong Lục Hợp môn lúc này càng phức tạp, Lãnh Siêu một mực nhếch môi. Hoàn nợ cho mấy chủ nợ nhỏ này khá phiền phức, xử lý suốt một, hai canh giờ mới xong. Sau đó, trong nội đường vắng hẳn. Tâm tình Lãnh Siêu tựa hồ tốt hơn nhiều, chủ động mở hết các cửa sổ bốn phía. Đúng lúc trời có nắng, một vạt nắng xuyên mây đen chiếu vào, mọi người mới nhận ra giờ đã quá ngọ.
Dực Liễm dường có chút mệt mỏi, hỏi Thẩm Phóng: “Thẩm huynh, tổng cộng đã thanh toán được bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu?”
Thẩm Phóng ngẩng đầu, nói: “Tổng cộng đã trả hơn mười ba vạn một nghìn lượng. Còn có vài khoản nhỏ, chủ nợ chưa tới, khoản này tôi đã bảo người bỏ riêng ra một bên rồi, đợi các chủ nợ đó tới lấy. Bạc, vàng, ngân phiếu còn dư cộng cả vào hẳn còn ba mươi bảy, ba mươi tám vạn lượng.”
Dực Liễm “a” một tiếng, nhìn bóng chiều ngoài cửa, khẽ thở dài. “Còn lại đều là khoản lớn.” Hắn nhìn trong phòng một vòng, xem sổ rồi từ tốn hỏi: “Bình Dương quán, Ngọc Tê Tử đạo trưởng, bốn vạn lượng tròn?”
Ngọc Tê Tử bên kia gật đầu.
Dực Liễm lại hỏi: “Ngũ Hành môn, Hồ Thất Đao, tám vạn năm nghìn lượng tròn?”
Hồ Thất Đao cũng điềm tĩnh gật đầu.
Dực Liễm lại nhìn sang Ngô Tứ. “Bán Kim đường, tổng cộng bảy vạn lượng?”
Rồi liếc mắt qua, nhìn Lý Bạn Tương. “Lưỡng Tương tiền trang, mười một vạn lượng tròn?”
Hai người nọ gật đầu công nhận. Cuối cùng Dực Liễm mới nhìn sang bàn ba người sắc mặt âm trầm bên kia, nhíu mày hỏi: “Trương Ngũ Tàng, Cổ Cự, Vu Hiểu Mộc, cộng lại mười bảy vạn lượng, ở đây tổng cộng có sáu khoản nợ, đều quy hết vào tên các vị sao?”
Ba người kia cười cười, kẻ đứng đầu đáp: “Không sai!” Dực Liễm nhíu mày, nói: “Bạc dư ba mươi tám vạn lượng, còn nợ bốn mươi bảy vạn năm ngàn lượng. Món này tính sao đây?”
Hắn nhìn chúng nhân, khẽ than, nói: “Các vị có thể chịu chút thiệt thòi chăng?”
Lời hắn nói ra, người có mặt không ai tiếp lời, rốt cuộc liên quan tới số tiền lớn thế này, lại là việc của bao nhiêu người, không một ai chịu lỗ mãng tiếp lời. Kỳ thực, ngay từ đầu mọi người đã nhận ra, tuy số bạc hắn mang tới lớn nhưng muốn trả hết một lượt, e rằng không đủ. Có điều, hắn trả tiền cho chủ nợ nhỏ trước là việc trượng nghĩa, mọi người cũng không tiện mở miệng. Hồi lâu, Lý Bạn Tương lẩm bẩm: “Chịu thiệt, chịu thiệt thế nào? Ai lại chịu thiệt?”
Tay mặt mày âm trầm bên kia cũng nói: “Dựa vào đâu mà phải chịu thiệt? Thiếu nợ trả tiền, thiên kinh địa nghĩa. Ngại bất bình thì chớ có thò đầu ra, thò đầu ra rồi thì phải làm cho công bằng!”
Giọng của gã cực kỳ sắc nhọn, khá nhức lỗ tai, Thẩm Phóng nhìn gã, chỉ thấy người vừa nói gương mặt không thiếu nét thanh tú nhưng dưới bóng nắng chiếu vào cửa, khuôn mặt đó lại có chút xanh xao, tới cả tia nắng len qua khe cửa sổ rọi lên người hắn dường như cũng không xua nổi vẻ âm lãnh trên người gã. Trong ánh nắng, bốn phía xung quanh tro bụi lượn lờ, càng làm nổi bật dáng hình kỳ dị của ba người. Thẩm Phóng chỉ cảm thấy giọng gã khó nghe, trong những người ngồi đây không thiếu cao thủ, thanh âm vừa lọt vào tai thì không khỏi rùng mình cả kinh: “Âm trầm trúc?” Thứ nội công hiếm thấy này còn có người luyện sao? Giọng của người này chói tai như thế, xem ra đã chìm đắm vào môn này không dưới ba chục năm, lẽ nào Văn gia ở Hồ Châu, Giang Nam cũng cử cao thủ tới?
Dực Liễm nhìn chăm chăm vào ba người nọ, chẳng nói chẳng rằng.
Ba người kia bị hắn nhìn tới phát cáu, lại chẳng biết là chuyện gì, hồi lâu, kẻ đứng đầu giận dữ nói: “Ngươi có tiền thì trả tiền, không có thì mở miệng, cứ nhìn bọn ta mãi làm gì?”
Dực Liễm vẫn lãnh đạm nói: “Tiền thì một mình tôi không trả nổi rồi. Nhưng nợ ân tình của Cù lão anh hùng không phải chỉ có mình tôi, còn có một người, lúc này hẳn người đó nên tới rồi.”
Mọi người lấy làm kỳ lạ, nghĩ không ra còn có người nào giống như hắn, coi tiền như rác, ra mặt nhận lấy nợ của người đã chết. Chỉ thấy Dực Liễm nhìn ra bên ngoài, hắng giọng gọi: “Chu cô nương, cô cũng tới rồi chứ?”
Mọi người nhất tề nhìn ra cửa, xem xem là người nào. Bỗng nghe từ ngoài cửa có giọng nữ nhân vang lên: “Tới rồi!”
Đó là một giọng nói rất dễ nghe, mềm mại, uyển chuyển, nàng chỉ nói có hai từ nhưng những người ngồi đây nhất thời đều có cảm giác xuân ấm hoa nở. Thẩm Phóng cùng Tam Nương nhìn nhau, cảm thấy giọng này rất quen. Thì ra Dực Liễm còn sắp xếp cả người khác? Chu cô nương? Vị Chu cô nương này là ai?
Chỉ nghe cửa ngoài sảnh “két” một tiếng, cánh cửa đó vốn được khép hờ lúc mấy chủ nợ nhỏ rời đi, bây giờ đã được mở toang. Người mở là một lão nhân đầu bạc, khuôn mặt đầy những nếp nhăn hằn sâu, nhìn không ra tuổi tác, mái tóc bạc buông dưới ánh nắng, mông lung mê man. Chúng nhân nheo mắt nhìn ra ngoài, bên ngoài, ánh nắng khe khắt, mây đen ướm mặt trời, một vạt nắng vừa vặn trải ở cửa trước Vĩnh Tế đường, cũng không phải là quá rực rỡ. Lúc này, một mỹ nhân đang thong thả bước lên, mỗi bước như tấu thành nhạc điệu. Ánh dương chiếu trên người nàng tựa như sống dậy, từng chùm, từng chùm nhảy múa. Còn bóng nàng buông trên mặt đất thì sao? Trông nó như một bức họa do mực loãng loang thành, thì ra có người đẹp tới mức ngay cả cái bóng cũng mang một thứ thần vận. Nàng còn chưa lên hết bậc nhưng các loại thanh, sắc, vị dường như đều đã toát ra rồi. Người như thế hình như trời sinh đã như từ trong âm nhạc bước ra, từ trong điệu múa mà tới, từ trong bức họa bước ra ngoài.
Cù Vũ cảm thấy như ngừng thở, nhìn ra ngoài cửa với vẻ không tin nổi. Người nọ bước lên thềm có mấy bước mà bước nào bước nấy đều như gõ vào lòng hắn. Kế đến, mỹ nhân nọ đã tới cửa, mũi ngọc răng trắng, mắt trong miệng đẹp. Thì ra nàng là Chu Nghiên! Thẩm Phóng và Tam Nương nhìn nhau, đây là lần thứ hai Thẩm Phóng gặp Chu Nghiên, vẫn không nén được cảm giác hít thở căng chặt, cảm thấy trên người nữ nhân này thật sự không chỗ nào không đẹp. Tam Nương Tử vốn tự tin về nhan sắc, lúc này không khỏi tự than, nghĩ: Nếu chỉ luận về dung mạo, mình cùng nàng có khoảng cách quá xa. Chỉ không hiểu sao lúc này con người diễm lệ vô ngần ấy lại tới đây?
Lại thấy Chu Nghiên đứng ở cửa, đôi mắt đẹp nhìn người trong phòng một lượt rồi dừng lại ở Dực Liễm, cười, hỏi: “Thiếp đến muộn sao?”
Giọng nàng quả thật rất êm tai, người ngồi đây ai nấy chỉ hy vọng nàng nói th nên đi trước rồi, có lời nhắn lại rằng hôm nay không nghe thiếu gia đàn nữa. Lão gia nói, sau mấy ngày sẽ gặp thiếu gia ở phủ Lục An, bấy giờ mong thiếu gia đã chuẩn bị đầy đủ, đừng lần lữa nữa.”
Thiếu niên kia “ừm” một tiếng. Thẩm Phóng cùng Tam Nương nhìn hắn - đây chính là người nhận xe hàng, nhận tiêu hàng xong thì hắn muốn làm gì tiếp? Làm thế nào? Người này xem ra phong thái từ tốn nhưng ngoài gảy đàn ra, hắn còn có tài gì khác sao? Trong lòng họ nhất thời nghi hoặc vô hạn.