Nhất giải

    
ây tụ ùn ùn
Mưa giăng lún phún
Chiều xuống nơi xa
Con đường trắc trở
Lặng tựa hiên đông
Rượu xuân độc ẩm
Bạn nẻo xa khuất
Ngóng đợi bâng khuâng
Mùa tuyết ở Giang Bắc bắt đầu rất sớm, trên tầng không khô lạnh có cánh chim vạch ngang trời, người đi trong tuyết liếm môi khô khốc, cảm thấy bờ môi khô cần có rượu chảy qua, cần thứ cay cay, âm ấm đó chảy qua môi, xuôi xuống họng, thẳng tới dạ dày, cần cái cảm giác cay sè ấy - nếu không, tuyết chỉ là tuyết mà thôi. Cho nên, trong ngày lạnh thế này mới có nhiều cuộc chè chén dưới tuyết như vậy: Không có chén rượu nóng rát như dao cắt, sao trừ được cái lạnh giá buốt này đây?
Đỗ Hoài Sơn và Thẩm Phóng lúc này cũng đang uống rượu.
“Dịch tiên sinh là người thế nào?” Thẩm Phóng hỏi.
Đỗ Hoài Sơn thoáng trầm ngâm, nhìn ra màn tuyết khô lạnh ngoài song, tựa như đang nghĩ xem nên trả lời thế nào. Từ lúc tiến vào đất Trữ Châu, lão nhận được tin tức, thế là không đi tiếp lên phía bắc nữa, lộ trình chuyển ngoặt sang hướng tây. Lúc tới địa giới Sào Hồ, tuyết đã ngừng rơi, nhưng lại thấy Thẩm Phóng với Tam Nương Tử cưỡi trên một con la xám và một chú lừa hoa từ phía sau đi lên. Đỗ Hoài Sơn là nhân vật thế nào, tuy Thẩm Phóng cười bảo hai bên có duyên nhưng thấy phu phụ Thẩm Phóng mấy lần có ý muốn đồng hành với bên mình, thi thoảng bắt chuyện, bây giờ lại hỏi câu này thì lão đã đoán được trong lòng Thẩm Phóng tính toán điều gì. Lão nhạt giọng nói: “Việc này nếu chỉ một, hai câu thật khó nói tỏ tường, lão hủ đọc một bài thơ vị ấy viết hồi nhỏ cho Thẩm huynh nghe vậy.” Nói rồi, mắt lão híp lại. “... Bài thơ này đề ở Long Trung, ta cũng là tình cờ đọc được. Lúc Dịch tiên sinh làm bài này, hẳn chỉ mới mười ba, mười bốn tuổi, câu từ chưa thể xem là hay, chắc sẽ khiến Thẩm huynh chê cười nhưng ý tứ trong thơ có chỗ rất đáng cảm khái, còn đáng để Thẩm huynh thể nghiệm một chút.”
Nói rồi, lão nhẹ giọng ngâm:
“Gia Cát tài hoa ai sánh được
Bình thản can qua chỉnh mũ khăn.
Rồng khóc muôn dặm mong thiên hạ,
Khách ngồi lều tranh kế chia ba.
Không công cũng trọn đời tận tụy,
Tao nhã oai phong cũng cực là.
Chẳng phải nhờ ngài luống vất vả,
Sáu lần xuất quân thế nào ra?”
Giọng lão mang khẩu âm Hoài Bắc, thô khàn già nua, dùng để ngâm thơ chưa hẳn đã hợp nhưng lại hợp với nét mặt lão. Bài thơ viết về Gia Cát Lượng từng ở ẩn tại Long Trung, về sau xuống núi phò tá Lưu Bị. Tên chữ của ông là Khổng Minh, hậu thế xưng tụng là Gia Cát Võ Hầu. Từ xưa đến nay có rất nhiều thơ văn vịnh Gia Cát Võ Hầu, Thẩm Phóng đã đọc qua không biết bao nhiêu mà kể, nhưng thấy một lão giả không quen việc bút mực lại cẩn thận ngâm vịnh tác phẩm thuở ấu thơ của một người thì không khỏi ngạc nhiên. Bài thơ này không được coi là hay nhưng nhìn vẻ mặt của Đỗ Hoài Sơn, Thẩm Phóng buộc phải thầm ngâm ngợi mấy câu ấy vài lượt. Chỉ nghe Đỗ Hoài Sơn nói: “Tiên sinh là người cao nhã, chẳng như hạng võ phu bọn tôi, hẳn là cảm thấy trong bài thơ này còn nhiều chỗ chưa được thanh nhã. Nhưng hoài bão trong lòng của người làm thơ, lúc bấy giờ đã có thể thấy đôi chút. Mấy năm nay, một mình ngài chống đỡ đại cục Hoài Bắc, hô ứng từ xa với Sở Tướng quân ở Tương Phàn, Lương tiểu ca nhi ở Hà Nam, Dữu Bất Tín ở Tô Bắc, một mình lo toan điều phối lương thảo, khăn áo cho nghĩa quân trong thiên hạ, vất vả trù tính, giật gấu vá vai nhưng trước sau không gục ngã. Người khác có khi không biết nhưng hai lão già tôi thì biết rõ sự tận tâm, tận sức của ngài. Cũng nhờ có ngài, nghĩa quân, phản thần, nghiệt tử, cô nhi trong thiên hạ mới có nơi để hướng về, có đất để yên thân dựng nghiệp, trăm họ ở Hoài Thượng cũng được nghỉ ngơi dưỡng sức. Sở Tướng quân, Lương tiểu ca nhi và Dữu Bất Tín có thể nói là nức tiếng thiên hạ, nhưng có mấy người biết đến Dịch tiên sinh ở Hoài Bắc đây? Ngài cũng không cầu được người khác biết đến, thậm chí còn sợ người ta biết đến mình, nhưng mấy năm nay, cái tiếng tăm không cầu mà có, cái công tích thầm lặng gây dựng nên thật chẳng biết đã bao nhiêu rồi. Có điều, thiên hạ tự nhiên có người hận ngài, ví như người Kim ở phương bắc từng có lời rằng: “Muốn có được Hoài Thượng, trước phải giết Bôi Tửu”, mà Bôi Tửu chính là ngoại hiệu của Dịch tiên sinh. Thẩm huynh nói xem, ngài là người thế nào?”
Thẩm Phóng yên lặng lắng nghe, hồi lâu mới hỏi: “Thiên hạ thật sự còn có người như thế sao?”
Đỗ Hoài Sơn mỉm cười, gật đầu.
Thẩm Phóng nâng bầu rượu, rót đầy một chén cho mình, sau đó nhìn Đỗ Hoài Sơn, nói: “Hồi huynh đệ còn ở Giang Nam, lòng lo việc nước nhà nhưng chẳng có chỗ để góp sức, thường ân hận đã uổng kiếp này. Nếu sớm biết thiên hạ vẫn còn anh tài bậc ấy, cho dù bán mạng cho người ấy cũng cam lòng. Luận cái khác Thẩm mỗ chẳng có gì hay ho nhưng tiền nong lương thảo, trù vận mưu lược, quân vụ tới lui, thư từ viết lách, hẳn cũng có thể dốc một phần tâm sức vì người khác, có lẽ bên cạnh Dịch tiên sinh cũng đang thiếu một người như thế. Nếu Dịch tiên sinh không chê, tại hạ sẽ dốc sức phò tá, đem thân báo đáp. Chỉ là, Đỗ lão, ngài nói xem, liệu tiên sinh có dùng tôi chăng?”
Đỗ Hoài Sơn như đang đợi câu này của hắn, chưa đợi Thẩm Phóng nói hết, trong mắt đã ngập tràn niềm vui. Thẩm Phóng nhìn lão, thấy lão dứt khoát gật đầu khẳng định, liền nâng chén rượu trong tay, từ từ uống cạn, trong lòng như chưa từng vui vẻ nhường này. Bấy giờ, ngoài song đang lúc trời trong tuyết lặng, trong cửa chén rượu ước hẹn đã thành.
Đang nói chuyện, bỗng thấy Tiêu Tứ Ẩn vội vã bước tới, trong tay cầm mấy con chim bồ câu đưa thư, Đỗ Hoài Sơn trông thấy liền biết có tin truyền tới. Lão trước giờ luôn tự tin vào khả năng nhìn người của mình, nay đã được Thẩm Phóng gia nhập, cũng không tránh né hắn nữa, bèn hỏi: “Tin gì thế?” Tiêu Tứ Ẩn, nét mặt trịnh trọng, nói: “Theo tin tức từ Trấn Giang, Viên lão đại rời kinh rồi.”
Đỗ Hoài Sơn cả kinh. “Thật sao?”
Tiêu Tứ Ẩn nặng nề gật đầu. Đỗ Hoài Sơn hỏi: “Vẫn vì chuyện món tiêu hàng này?”
Tiêu Tứ Ẩn đáp: “Không sai. Nghe nói, Viên lão đại rất đau lòng, tức giận vì chuyện Viên nhị bị thương, bất mãn với việc Lạc Hàn kiếm hạ vô tình nên đã phao tin muốn toàn lực truy sát những người ở Khốn Mã Tập đêm mưa hôm ấy, rồi sai họa công vẽ hình, truyền lệnh xuống dưới. Hắn còn buông lời rằng trong chuyến tiêu ấy của Lạc tiểu ca còn có một bí mật liên quan tới đại thế thiên hạ, người có được nó tuy không thể nói là uy hiếp thiên hạ nhưng đã gần như có thể khiến tình thế đôi bờ nam bắc đại giang biến đổi to lớn chỉ trong một đêm. Lời này của hắn rõ ràng là muốn khiêu khích hào kiệt trong thiên hạ động thủ, dụng ý không gì ngoài việc ép Lạc tiểu ca xuất hiện. Nghe nói, nhà họ Văn ở Giang Nam với Lão Long đường ở Trường Giang đã có ý nghe tin là sẽ hành động, chỉ sợ từ nay Hoài Thượng sẽ lắm chuyện. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là, bên ngoài đồn rằng Viên lão đại đã đích thân tới Trấn Giang, cũng biết tiêu bạc đã vào tay chúng ta, rất bất mãn với hành vi lần này của nghĩa quân, bảo rằng chúng ta qua sông gây chuyện, đã vi phạm minh ước năm xưa, có ý muốn qua Giang Bắc, tự mình nói chuyện với Dịch tiên sinh. Lần này, nếu gã thực sự qua Giang Bắc, chỉ sợ chẳng phải một, hai câu là đuổi đi được. Sau này, chỉ sợ thành ra binh đao gặp nhau, hai lão già ta e rằng đã đem phiền phức tới cho Dịch tiên sinh rồi.” Nói xong, lão than nhẹ một tiếng: “Ài, tình cảnh thế này, liệu Dịch tiên sinh còn có thể gánh được phiền phức bằng trời của Viên lão đại không đây?”
Sắc mặt trở nên nặng nề, Đỗ Hoài Sơn hỏi: “Giá Viên huynh bên chỗ lão gia có đưa tới tin gì không? Rốt cuộc bên chỗ Dịch tiên sinh thế nào?”
Tiêu Tứ Ẩn than: “Vẫn thiếu người, Thập niên, Ngũ canh đều đang có việc ở bên ngoài, ai lo việc nấy, trong nhà chỉ còn Tiểu Cam, Tiểu Khổ trông giữ, ngay Giá Hiên huynh cũng đã sang Ngạc Bắc xử lý chuyện chỗ Sở Tướng quân. Gần đây, Cù lão anh hùng, môn chủ Lục Hợp môn ở phủ Lục An vừa qua đời, Lục Hợp môn đại loạn, nguy tới liên minh Hoài Nam. Lại thêm nợ nần ở Sào Hồ lũ lượt tới hạn, từng khoản, từng khoản cộng dồn, e phải tới bốn, năm mươi vạn lượng bạc, Dịch tiên sinh quả thật không dứt ra được, chuyện này lại quá lớn, đã tự đi rồi.”
Đỗ Hoài Sơn đang bình tĩnh, lúc này không khỏi nhíu mày, vặn vẹo tay mà nói: “Lúc này mà công tử còn ra ngoài một mình sao? Thế bệnh suyễn của công tử...” Rõ ràng lão đã lo lắng vô hạn, một tay siết chặt hoa văn ở mép bàn, ngẩng đầu nhìn mây lạnh trên không trung. Mây che mặt trời, tuy ánh dương chẳng chút ló dạng nhưng áng mây đỏ vô cùng rực rỡ. Đỗ Hoài Sơn nhìn mãi, như đã bình tĩnh lại, lấy lại giọng điệu bình hòa mà hỏi: “Dịch tiên sinh có lời gì lưu lại cho chúng ta không?”
Tiêu Tứ Ẩn nói: “Ngài chỉ nói nếu thuận lợi, chúng ta lập tức áp tải bạc tới Thư thành ở Giang Bắc, ở đó sẽ có người tiếp ứng cho chúng ta. Còn nếu như không thể đắc thủ, cũng không cần bận tâm, ngài sẽ có biện pháp.”
Đỗ Hoài Sơn thở dài, nghĩ: Tiên sinh còn có thể có biện pháp gì, nhất là với sức khỏe của ngài hiện giờ... Nhất thời lão không nói gì thêm, hồi lâu mới bảo Tiêu Tứ Ẩn: “Chốc nữa huynh ra ngoài dặn bọn Vương Mộc một tiếng, đêm nay anh em nghỉ ngơi cho tốt, cho ngựa ăn đầy đủ, sáng sớm mai mọi người phải dậy thật sớm, ngựa không dừng gót, nhất định trong vòng ba ngày phải tới được Thư thành, không được để Dịch tiên sinh đợi lâu.”
Ngày hôm sau, trời vừa tảng sáng, cả bọn y lời Đỗ Hoài Sơn mà hành động, dọc đường đi vội vã, đội trăng đội sao, ngày đi đêm nghỉ, tới sáng sớm ngày thứ ba đoàn người đã tới Thư thành. Chạy trên lằn bánh xe đóng băng nên xe ngựa không khỏi nghiêng vẹo nhưng được cái hai xa phu đều quen đường, lại có một đám hán tử của Lâm An tiêu cục, nhờ vậy mà xe đi một mạch thuận lợi.
Lúc tới được Thư thành, Thẩm Phóng cũng không ngờ được cái thành nho nhỏ này mà cũng có khí tượng riêng. Vì dải đất này nằm ở Sào Hồ, đất đai sông nước hợp người, mỗi năm tới mùa Sào Hồ vào vụ lúa chín, đất Dự, đất Hoán đều được đủ đầy, một dải này có thể coi là một vựa thóc lớn của Trung Nguyên, lại thêm trăm họ cần cù, mấy năm gần đây được cả mưa thuận gió hòa, việc binh hỏa yên ắng, không có chiến sự quá lớn, cho nên đến Thẩm Phóng cũng phải trầm trồ Giang Bắc vẫn còn có nơi trù phú tới mức này. Theo lời Đỗ Hoài Sơn, sự bình yên của dải đất này trong mấy năm nay phần lớn là nhờ vào Dịch tiên sinh của bọn họ khổ tâm xoay xở, nam thì vỗ về sứ nhà Tống, bắc thì chống chọi với người Kim, lại phải trong trừ giặc cướp, ngoài kháng cường tặc, trong vòng vài năm, nơi đây đã được xây dựng thành kho lương quan trọng nhất của nghĩa quân Hà Nam. Hiện lương thảo qua tay Dịch tiên sinh có non nửa là điều từ đây tới.
Dọc đường đi, Thẩm Phóng cũng nhận ra Đỗ Hoài Sơn tuy ngoài mặt lạnh lùng nhưng hành sự lại tỉ mỉ, chu đáo, bây giờ thấy Đỗ Hoài Sơn cố ý nói cho mình nghe thì càng lắng nghe chăm chú. Đỗ Hoài Sơn quả là một bồ kiến thức địa lý sống, lão đem tất tật việc ở dải đất này, vùng nào sản xuất thứ gì, có thể dùng vào đâu, có thể sản xuất bao nhiêu, trước nay sắp xếp thế nào... nhất nhất nói ra, đã biết là nói hết, đã nói là nói kỳ tận, Thẩm Phóng cũng thu được không ít lợi ích, biết rằng nếu quả có một ngày bản thân chủ quản việc tài vụ, điều phối lương thảo các nơi của nghĩa quân thì những lời này ắt là có ích cho mình.
Thư thành là một tòa thành nhỏ, tự dưng có bao nhiêu người tới thế này, lũ trẻ nhỏ liền kéo nhau chạy theo xe, hò reo í ới. Vương Mộc túm lấy một đứa, cười, hỏi: “Tới Túy Nhan các đi lối nào?”
Đứa nhóc đó cười, đáp: “Đấy là tửu lâu đấy, các vị đông thế này, muốn ở trọ thì nên tìm khách điếm trước, chỗ kia chắc không có chỗ ở đâu.”
Vương Mộc liền nhìn Đỗ Hoài Sơn. Đỗ Hoài Sơn trầm ngâm một lát rồi nói: “Thế cũng được... Chỉ là không biết Dịch tiên sinh vội đến đâu, bọn ta không thể để ngài đợi lâu. Thế này đi, ngươi với Kim hòa thượng đem xe tiêu đi tìm khách điếm trú lại trước, tiện thể nghỉ ngơi, ta với vợ chồng Thẩm huynh tới Túy Nhan các trước xem sao. Nơi đây tuy yên bình nhưng xét cho cùng vẫn là đất nhà quan, các ngươi phải hết sức cẩn thận, để hai người lưu lại ngoài khách điếm canh chừng, có động tĩnh là phải nhanh chóng báo lại, tránh trường hợp gặp phải địch thủ quá mạnh, lại bị chúng vây khốn, không thoát thân được.”
Thẩm Phóng nghe mà lòng bội phục, thầm nhủ: Xét cho cùng, lão giang hồ quả là có tác phong của lão giang hồ. Tiêu Tứ Ẩn lại càng cẩn thận, chỉ sợ có mấy người Vương Mộc với Kim hòa thượng thì không gánh nổi trọng trách bảo vệ tiêu hàng, bèn đi theo đám Vương Mộc, chỉ có Thẩm Phóng, Kinh Tam Nương cùng Đỗ Hoài Sơn đi tới Túy Nhan các trước để dò hỏi tin tức.
Ba người còn chưa tới Túy Nhan các, Đỗ Hoài Sơn trông thấy bên đường có một quán ăn nhỏ, liền dừng bước, cười, nói với Thẩm Phóng: “Chúng ta ăn chút gì trước đã nhé?”
Thẩm Phóng hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ: Túy Nhan các là tửu lâu, tới đó còn lo không có đồ ăn sao? Sao lại phải tìm một quán nhỏ bên đường để ăn trước? Xem ra nghĩa quân Hoài Thượng thật tiết kiệm. Hắn còn đang nghĩ ngợi, Đỗ Hoài Sơn đã rẽ vào trước, dùng giọng Hoài Thượng dặn chủ quán làm ba bát mì, lại gọi thêm vài món nhắm. Tam Nương Tử kết tóc với Thẩm Phóng đã chục năm, biết tỏng tâm tư của hắn, vừa nhìn sắc mặt hắn đã rõ hắn nghĩ lầm, mới thấp giọng cười, nhắc: “Lão chẳng phải vì tiết kiệm đâu. Đỗ Hoài Sơn là lão cáo già, trước nay chỉ bày hố cho người khác, sợ nhất là bước vào cái bẫy do người khác bày ra, cho nên lão nhất định phải nghe ngóng tình thế đại khái trong Túy Nhan các trước rồi mới chịu đi tiếp. Giang hồ hiểm ác, nói không chừng lại có chuyện gì... Xem ra, một dải Thư thành này cũng không phải nằm trong phạm vi thế lực của bọn họ, nếu không đã chẳng phải cẩn thận thế này. Ý tứ của lão chính là nếu có đánh nhau thì cũng phải ăn cơm cho có sức trước đã.”
Thẩm Phóng bật cười, nghĩ thầm, mấy thứ thói người lẽ việc, chiêu trò quỷ quái này thật không qua nổi mắt nương tử của mình. Thế rồi hắn kéo tay áo Tam Nương, cùng vào ngồi. Đỗ Hoài Sơn bên kia cũng đã gọi món xong, cười, nói với Thẩm Phóng: “Thẩm huynh vốn không chê nghĩa quân Hoài Bắc bọn tôi nghèo khổ, chịu gia nhập tương trợ, đáng lẽ tiểu lão nhi nên liệu đường mà mời vợ chồng Thẩm huynh một chén, nhưng giang hồ quỷ dị, không thể không đề phòng, với lại tôi có tiếng là cáo già, đã quen giảo hoạt, ba bát mì này coi như là rượu mừng Thẩm huynh gia nhập đi, Thẩm huynh chớ hiềm sơ sài.” Miệng nói, ánh mắt lão lại hiện ý cười mà nhìn Tam Nương.
Tam Nương không ngờ lão đầu này đã già nhưng tai lại thính thế, mặt hơi đỏ, có chút xấu hổ, thấy Đỗ Hoài Sơn không hề có ý trách cứ, ngược lại còn tỏ thái độ hài hước, rộng rãi, biết lão không giận, nàng mới yên lòng, thầm nhủ: Lão đầu này cũng không phải chỉ có mỗi bộ mặt âm trầm, xét ra vẫn có khá nhiều chỗ đáng yêu. Ba người cùng nhau ăn, quán nhỏ này chẳng mấy nhộn nhịp, khách không nhiều, nhà chủ cũng không bận rộn. Đỗ Hoài Sơn vốn nóng lòng chạy tới Túy Nhan các nhưng bây giờ lại không gấp, không vội, ăn xong mì cũng chẳng lên đường ngay mà câu được câu chăng chuyện trò với tiểu nhị.
Chỉ nghe Đỗ Hoài Sơn cười, hỏi: “Nhớ năm xưa, chỗ các vị có Túy Nhan các khá là được, nấu được rượu ngon, giờ có còn không?”
Tiểu nhị kia cười, đáp: “Tên tuổi mấy chục năm, đương nhiên vẫn còn, sao có thể bảo không còn là không còn luôn được?”
Đỗ Hoài Sơn cười. “Chỗ đó thực là một nơi thú vị, dạo gần đây có chuyện gì mới mẻ, hay ho không, nói nghe coi! Ta nhớ ở đó thường có nhiều chuyện mới mẻ nhất đấy!”
Cũng đúng, tửu lâu trà quán vốn là nơi có nhiều tin tức mới mẻ nhất. Tiểu nhị nọ cũng vui tính, chớp chớp mắt, nói đùa: “Lão nhân gia người thọ đà bao nhiêu rồi?”
Đỗ Hoài Sơn cười híp mắt, đáp: “Sáu mươi sáu.”
Tiểu nhị nọ tiếc rẻ, thở dài một tiếng. “Đáng tiếc, lão nhân gia ngài đến muộn mất rồi.”
Sâu trong đôi mắt tươi cười của Đỗ Hoài Sơn chợt hiện tia sắc bén. “Sao lại thế?”
Tiểu nhị cười, đáp: “Nếu lão nhân gia ngài tới sớm vài năm, trẻ lại vài tuổi thì đảm bảo sẽ cảm thấy tới Túy Nhan các kia đúng là không uổng, sẽ gặp được người ngài muốn gặp. Hắc hắc, không phải tôi trêu chọc ngài, ngài chớ giận, hồi ấy chỉ e bảo ngài giao cái mạng cho người ta, ngài cũng đồng ý ấy chứ!”
Khuôn mặt tươi cười của tiểu nhị nọ khá ám muội, lời nói ra như có ý mà như vô tình, nhưng lọt vào tai kẻ đi lại trên giang hồ đã lâu, sống đời đầu đao mũi kiếm đã thạo như Đỗ Hoài Sơn thì đương nhiên có ý nghĩa khác. Tới Thẩm Phóng cũng ngạc nhiên, không rõ rốt cuộc tiểu nhị kia có ý gì. Tam Nương không kìm được chăm chú nhìn thẳng vào tiểu nhị nọ, đôi mắt nàng trong trẻo, sáng ngời, có thể nói là từng xem qua vô số người rồi nhưng cũng không nhìn ra hàm nghĩa đằng sau vẻ tươi cười của tiểu nhị này. Đỗ Hoài Sơn lại càng hồ nghi, nhưng lão có tính cẩn thận trời sinh, thấy tiểu nhị này trong lời có hàm ý, không chịu nói rõ, lão cũng không hỏi sâu thêm, chỉ làm như thuận miệng hỏi: “Túy Nhan các kia còn việc gì khác hay ho không?”
Tiểu nhị nọ cười, đáp: “Còn, nghe bảo lão gia tử của Lỗ gia giàu nhất đám thương nhân Huy Châu bọn tôi cũng tới đó, đây hẳn được xem là tin tức mới chứ?” Sau đó, gã lại rề rà nói: “Ngoài ra, mấy ngày nay trong Túy Nhan các, sáng nào cũng vọng ra tiếng đàn. Có một người tới đó đánh đàn, không uống rượu, cũng chẳng ăn cơm, hình như là khách của Lỗ lão gia, hai người này lại chẳng nói chuyện với nhau, ngài bảo có lạ không?”
Đỗ Hoài Sơn nhìn chằm chằm tiểu nhị kia, mỗi câu của gã tựa như đều có can hệ rất lớn nhưng lại không nhận ra được là gã cố ý hay vô tình. Tới lúc này, Đỗ Hoài Sơn cũng không tiện ngồi thêm, liền trả tiền, nói: “Quấy rầy rồi!” rồi cùng Thẩm Phóng và Tam Nương đứng dậy rời đi.
Ra khỏi cửa tiệm, rẽ vào một góc phố, Đỗ Hoài Sơn liền trông thấy một hán tử hộ tiêu mà Tiêu Tứ Ẩn phái tới đang đứng đợi bên đường, bèn vẫy tay gọi gã lại, thấp giọng sai phái: “Trở về báo với Tiêu lão gia tử, nơi này chỉ e có điều cổ quái, bảo lão cẩn thận mọi sự, ngoài ra, phái thêm người tới đợi tin của ta!”
Hán tử kia “dạ” một tiếng rồi rời đi. Bấy giờ Thẩm Phóng mới hỏi: “Đỗ lão, bây giờ chúng ta có tới Túy Nhan các nữa không?”
Đỗ Hoài Sơn chỉnh lại nét mặt. “Đi, sao lại không đi? Tôi muốn xem xem là kẻ nào mà đáng để lão Đỗ này giao mạng cho hắn, hắc hắc!” Tuy miệng lão nói thế nhưng trong lòng lại đang lo cho một người, không khỏi cất bước đi đầu.
Túy Nhan các là một tòa lầu cổ có kết cấu tinh xảo, đẹp đẽ. Cả tòa lầu được dựng bằng gỗ, tuy có chỗ màu sơn đã bạc nhưng từng phòng, từng tòa đều được làm vô cùng tỉ mỉ. Toàn bộ tòa lầu không lớn, bên trong men theo hành lang mà đi, lại có chỗ quẹo ngoặt, tạo thêm cảm giác hiên vườn thâm u. Tiểu nhị đón bọn họ lên lầu hai, tửu lâu này cũng chỉ có hai tầng, cửa ở ba mặt lầu hai vây thành một hành lang uốn khúc ở lưng chừng, ở giữa là một cái giếng trời thông thẳng xuống lầu một. Ánh nắng soi xuống, bóng xuyên qua khe cửa, cả tòa lầu mang một vẻ tĩnh lặng khôn tả, hoàn toàn không có không khí ồn ào của tửu lâu thông thường. Thẩm Phóng hỏi tiểu nhị: “Ít khách thế này, tửu lâu của các ngươi làm sao mà tiếp tục mở cửa được?”
Tiểu nhị nọ vừa lau bàn vừa cười, đáp: “Khách quan không thích yên tĩnh sao? Mà đúng là tửu lâu của chúng tôi ít khách thật. Thư thành vốn đã nhỏ, lại chẳng phải nơi giao thông trọng yếu gì, cho nên khách càng ít. Chỉ vì tòa tửu lâu này do Bùi Thượng thư hồi lập quốc của triều ta thuê thợ giỏi thầy khéo dựng cho nên ở một dải Hoán Nam cũng rất có danh tiếng. Không giấu khách quan, thật ra tửu lâu này của chúng tôi chủ yếu chỉ phục vụ một người, chính là Lỗ lão gia danh tiếng vang dội ở chỗ chúng tôi đây. Vừa hay Lỗ lão gia thích yên tĩnh, cũng dặn rằng ngài thích sự thanh tĩnh, ông chủ chúng tôi liền chấp nhận thà ít khách cũng được. Lỗ lão gia kia vốn là đệ nhất phú thương ở nơi này, không phải giàu nhất cả nước thì chí ít cũng giàu nhất bảy tỉnh. Ông ấy thích nhất phòng ở chỗ chúng tôi, đã dặn phải giữ gìn cho tốt. Mà một năm ông ấy tới được mấy lần chứ? Nhưng lần nào tới cũng thưởng rất nhiều, cho nên bằng vào mấy lần ấy, chỉ cần một vị khách như ông ấy cũng đủ để nuôi sống tửu lâu này rồi.”
Thẩm Phóng kêu “oa” một tiếng. Chẳng giống hắn - kẻ hoàn toàn không có tâm cơ gì - Đỗ Hoài Sơn với Tam Nương vừa vào liền quan sát khắp xung quanh, liệu xem nếu có chuyện gì thì chỗ nào tiến được, chỗ nào lui được, chỗ nào có thể công, chỗ nào thì nên thủ. Ba người vừa mới ăn mì, lúc này chỉ gọi trà. Trà Lục An là thứ nổi tiếng ở nơi này, lúc khói trà bốc lên, tiểu nhị liền lui xuống. Vài ngày nay, mấy người họ vất vả suốt, chẳng dễ dàng gì mới tới được đích, cộng thêm sự tĩnh lặng đột ngột này, thật khiến cho người ta không sao quen nổi. Nhất thời cũng không có gì để nói, tâm tình vốn đang dâng tràn, uống mấy hớp trà, chợt như vơi đi rất nhiều.
Thẩm Phóng đang nghĩ không biết Dịch tiên sinh kia là người thế nào, sẽ phái ai tới nhận xe hàng? Suốt chuyến đi, đặc biệt là sau khi qua sông, đâu đâu cũng có tai mắt của hội Đỗ Hoài Sơn, không chỉ thông báo tin tức mà cò có lương tiền qua lại, đất Sào Hồ này xem ra chính là hậu phương lớn của Hoài Thượng. Lúc này hàng hóa mà Đỗ Hoài Sơn áp tải đã không chỉ là thứ Lạc Hàn tặng. Trừ hai chục vạn lượng bạc có dư đổi thành vàng ngọc ra, dọc đường Đỗ Hoài Sơn còn thu thêm mấy chục bao bạc, tính ra cũng khoảng dăm ba vạn lượng, đều là tiền dọc đường được tai mắt nghĩa quân cũng như trăm họ dân gian thật tâm quyên tặng. Thẩm Phóng không khỏi ngầm bội phục vị Dịch Bôi Tửu kia: Đất Hoài Thượng được người này cày xới tỉ mỉ nhường này, đủ để thấy công sức bỏ ra. Chẳng rõ người này qua lại thế nào với Lỗ lão gia?
Ở một dải Sào Hồ, thanh danh của người này có vẻ vang xa. Dọc đường đi, Thẩm Phóng nghe người khác nhắc tới tên người đó không dưới năm, sáu lần, trong giọng nói đều có vẻ kính trọng. Một đường từ Trữ Châu tới đây, trên mọi phố lớn trấn to dọc đường, gần như nơi nào Thẩm Phóng cũng thấy có bảng hiệu “Thông Tế tiền trang”, còn có cả “Thông Tế dược phòng”, “Thông Tế khách điếm”, ắt hẳn đều do một nhà bỏ vốn. Tuy trước đây Thẩm Phóng từng nghe tên người này nhưng không ngờ việc làm ăn của lão lại hưng vượng đến vậy.
Vị Lỗ lão gia này nghe nói họ Lỗ tên Tiêu, tên chữ là Cuồng Triều, thương nhân đất Huy nổi tiếng khắp thiên hạ, nghe nói một nửa thương nhân của Huy Châu vay tiền vốn của lão để làm ăn, có thể tưởng tượng ra mức độ giàu có của lão. Khi ấy, hai nước Tống - Kim chia thiên hạ, duy chỉ có ngân phiếu trong tiền trang của lão là có thể lưu thông ở cả hai bên. Việc làm ăn chủ yếu của lão chỉ có một, chính là Thông Tế tiền trang nức tiếng thiên hạ. Lão chia tiền trang thành Bắc trang và Nam trang, xử lý việc làm ăn ở hai nước. Nghe nói triều đình Nam Tống xây đê biển ở Tiền Đường cũng phải có qua lại tiền bạc với lão, thật xứng danh gia tài bạc vạn, giàu ngang một nước. Thẩm Phóng đang mải nghĩ, chợt thấy tiểu nhị kia đem nước sôi tới, châm thêm nước rồi cười, nói với Thẩm Phóng: “Khách quan chẳng phải chê yên tĩnh sao? Sắp náo nhiệt tới nơi rồi, có một đám sứ Kim quá cảnh, Ngô Huyện lệnh của bản huyện muốn đích thân khoản đãi, nha phiếu của nha môn vừa được đưa tới, lát nữa Ngô Huyện lệnh sẽ tới đây đón khách, thu xếp chỗ ngồi ở ngay hành lang đối diện với chỗ của các vị, tới lúc ấy chỉ e còn phải diễn đàn nhạc, mời ca kỹ, chốc nữa thôi là ồn ào rồi.”
Thẩm Phóng biết gã có lòng tốt, liền cười với gã, thầm nghĩ: Cái người mà viên tiểu nhị lúc nãy nói Đỗ Hoài Sơn vừa gặp thì sẽ cam tâm giao mạng mình ở đâu nhỉ? Chắc không phải chỉ là một câu nói đùa đấy chứ!
Một lúc sau, quả nhiên bên ngoài lâu vọng vào tiếng ồn ào. Bố cục của tửu lâu này không giống bình thường, cách với đường lớn ngoài cửa một con ngõ nhỏ, như có ý giữa chốn ồn ã tìm lấy cái tĩnh lặng, giữa lầu chính với con ngõ nhỏ ấy lại cách một bức tường ngăn, sau tường vẫn còn một quãng dăm ba chục bước chân nữa. Cứ như vậy, tiếng ồn ào từ đường lớn truyền vào ngõ nhỏ, truyền vào cửa, vào tiểu viện rồi mới dần vọng tới tửu lâu. Thẩm Phóng và Tam Nương muốn nhìn xem rốt cuộc là ai mà ồn ào thế, bèn chăm chú ngóng nhìn, chỉ thấy đằng trước có ba, bốn nha dịch mở đường, mình mặc áo đen, đầu đội mũ công sai, khá uy phong. Kế đó là một sư gia mình bận áo lụa, vừa vào đã đảo mắt xem xét trên dưới cả tòa tửu lâu. Tiếp đó mới là Huyện lệnh. Vị Huyện lệnh này độ ngoài ba mươi, da trắng bóc, mang bộ dạng điển hình của thư sinh Nam triều, vừa vào cửa đã cung kính đưa tay mời khách. Khách khứa lũ lượt kéo vào, có đến hơn hai chục người, đều ăn mặc kiểu Bắc triều, tiết trời còn chưa quá lạnh mà bọn họ đã đeo thêm mấy thứ da, lông trên mũ. Người đứng trước có dáng vẻ vênh váo, cử chỉ ngang tàng, hình như là trưởng đoàn, hắn xem xét tửu lâu này rất kĩ, cứ gặp những chỗ tạc hoa khắc gỗ, hoa văn tinh xảo là dừng bước ngắm nghía. Đến cả chỗ đầu gỗ nối ghép cũng thường khiến hắn phải tán thán. Tiếng Hán của gã tuy cứng nhưng vẫn lưu loát, chỉ nghe gã nói với người Kim bên cạnh mấy câu tiếng Kim rồi mới dùng tiếng Hán nói với Huyện lệnh rằng: “Người Nam đánh nhau kém nhưng thợ thủ công thì thật ưu tú.”
Huyện lệnh nọ rất mực văn nhã, đưa tay mời khách lên tầng hai, vừa hay chênh chếch đối diện với chỗ ba người Thẩm Phóng, cách cái giếng trời, đôi bên có thể nhìn rõ nhau. Người bên đó ồn ào chiếm cả một đoạn hành lang nhưng chẳng có hứng thú gì với ba người Thẩm Phóng bên này. Đám tiểu nhị trong Túy Nhan các nhàn tản quen rồi, vốn trước nay ít khách, bây giờ bỗng lắm người tới thế này, lại là khách của Huyện lệnh, bọn họ nhất thời náo loạn. Hồi lâu sau, ba mươi mấy người bên kia mới coi như an tọa, bấy giờ rượu mới được mang lên. Người Kim dường như không quen uống món rượu Khổ Tô nổi tiếng ở đây, ai nấy nhíu mày, kêu ầm lên: “Nhạt, nhạt quá!”
Chỉ nghe viên quan huyện nọ cười, nói: “Đây là rượu của người Nam chúng tôi, vị không mạnh nhưng dư âm kéo dài, vào miệng hơi đắng nhưng hay ở chỗ trong đắng có ngọt. Bá Nhan đại nhân vốn hào sảng, hẳn là uống không quen, để tôi bảo họ đem đổi rượu. Có điều, nếu đại nhân có thể kiên nhẫn thưởng thức, hẳn sẽ cảm nhận được một thứ ý vị khác.”
Viên quan nhà Kim được gọi là Bá Nhan nọ không ngờ lại nghe theo lời khuyên của Huyện lệnh, nhâm nhi hai ngụm, cười, nói: “Người Nam các ông chỉ giỏi làm ra mấy thứ lằng nhằng quanh co, đến r!!!15700_13.htm!!! Đã xem 28026 lần.


Nguồn: Watpad + Amun book
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 14 tháng 10 năm 2015