CHƯƠNG 4
Phá trận

    
ảnh Thương Hoài thấy con lạc đà không ngừng kêu xuống mặt nước thì trong lòng lấy làm lạ, hắn nhảy xuống bãi cát, đi tới bên con lạc đà. Con lạc đà nhìn hắn chằm chằm một hồi, tựa như có nhận ra hắn. Cảnh Thương Hoài cũng cảm thấy con vật này rất có linh tính. Bỗng con lạc đà ngậm lấy góc áo hắn, kéo tới trước một bước rồi buông ra, lội xuống nước về phía trước.
Cảnh Thương Hoài nôn nóng muốn biết tung tích của Lạc Hàn, chẳng kể ướt áo cũng xuống theo, một tay nắm lấy đuôi lạc đà, theo nó tiến tới. Qua vài bước, con lạc đà bơi tới vách núi. Dòng nước dưới vách núi vốn xiết, người bình thường muốn vượt sông là chuyện khó, nhưng sao làm khó được con lạc đà và Cảnh Thương Hoài đây? Trời rất tối, tới được dưới vách núi nọ, Cảnh Thương Hoài mới phát hiện ra giữa vách núi ấy có một khe đá, khe không lớn, chỉ đủ để một người len qua, một dòng suối từ khe này chảy vào Trường Giang. Cảnh Thương Hoài thầm nghĩ: Không phải là Lạc Hàn cùng Triệu Vô Cực một đường thủy chiến rồi bị Triệu Vô Cực dẫn dụ vào đây đấy chứ? Lúc này con lạc đà không ngừng kêu hí, tựa như có ý muốn Cảnh Thương Hoài tiến vào. Cảnh Thương Hoài nhìn một cái liền hiểu, cái khe đá này quá nhỏ mà ngực trước của lạc đà quá rộng, không vào được, chẳng trách nó cứ đứng trên bãi cát mà lo lắng không thôi. Cảnh Thương Hoài hít vào một hơi, tuy biết bên trong chỉ sợ cũng gập ghềnh, nguy hiểm nhưng hắn xưa nay luôn lo cứu nạn cho người, vỗ vỗ gáy con lạc đà xong vẫn chúi đầu tiến vào.
Nước trong khe đá cũng khá sâu, lại lạnh tới bất ngờ, tuy mới đầu tháng Mười một mà đã băng hàn buốt xương. Cảnh Thương Hoài một đường ngược dòng, vách đá hai bên mọc nhiều rêu, trơn tới trượt tay. Lội thẳng vào độ một dặm, trước mặt bỗng có dây lá thực vật, tuy còn đang trong đêm đen, tất tật u ám tối tăm nhưng Cảnh Thương Hoài cũng đoán ra sắp thấy được trời rồi. Quả nhiên, gạt mấy bụi cây lá nọ, Cảnh Thương Hoài liền thấy khe đá này đã tới cuối, trước mắt trải rộng, ra là một sơn cốc. Cảnh Thương Hoài sững sờ, nhận ra chỉ sợ Triệu Vô Cực cố ý dẫn Lạc Hàn tới đây. Mới ra khỏi nước, Cảnh Thương Hoài liền cảm nhận được trong cốc có người. Hắn lập tức nín hơi tĩnh khí, mượn tiếng nước chảy róc rách, âm thầm tiến lên. Trong bóng đêm u tối, chỉ thấy có nhiều khối đá lớn rải rác trong cốc, dòng nước kia chia thành nhiều luồng, len giữa những khối đá, chút ánh trắng điểm xuống khiến mặt nước bập bềnh sáng nhạt, mảnh tựa những sợi chỉ bạc lấp lánh trong đêm khuya.
Tiếng nước vỗ đá lạnh lùng. Cảnh Thương Hoài ẩn mình sau một khối đá lớn rồi mới đánh giá tình hình trong cốc, liền thấy cái cốc này rất kỳ quái, trong rộng ngoài hẹp, thành hình quả lê, dường như là một tử cốc. Trong cốc, từng khối đá kề tiếp nhau, khối lớn đường kính tới cả trượng, khối nhỏ chí ít cũng nặng hơn nghìn cân, tất tật rải rác trong cốc này, chẳng có quy tắc, dường như từ trước thời hồng hoang, tiên nhân lập một bàn cờ ở đây, lúc tàn cục, quân cờ tán loạn, tiên nhân giờ đã phiêu diêu, chỉ lưu lại từng khối đá lớn khiến hậu nhân kinh hãi.
Tiếp đến, Cảnh Thương Hoài mới chú ý tới giữa những khối đá lớn sương khói ẩn hiện dường như có quy tắc. Nhìn kĩ, tựa như một trận đồ! Sau đó, hắn nhìn thấy trên một khối đá lớn ở vòng ngoài có một bóng đen đang ngồi. Cái khác nhìn không rõ, chỉ cảm thấy người này mặc y phục ngắn, trên đầu có búi tóc nho nhỏ, đã hơi tán loạn, tư thế ngồi trên tảng đá cũng không thoải mái mà khá căng cứng. Trong sắc đêm, người đó tựa như không có mắt, bởi Cảnh Thương Hoài không nhìn thấy ánh phản quang trên khuôn mặt, nhưng vành tai người này thì không ngừng máy động, tựa hồ từng luyện qua công lực Thiên Nhĩ Thông. Đêm tối thế này, vốn không cần mở mắt nữa. Kế đến, Cảnh Thương Hoài chú ý tới mười ngón tay người này đang không ngừng run. Cảnh Thương Hoài vận đủ nhãn lực nhìn kĩ, mới thấy đôi tay người ấy không phải đang run mà là đang bấm tính. Cảnh Thương Hoài thính tai, xa xa đã nghe được người này lầm bầm: “Dương bắt đầu từ Hợi, âm bắt đầu từ Tị, ngày Đông chí ở Khảm, ngày Xuân phân ở Chấn; ngày Hạ chí tại Li, ngày Thu phân ở Đoài, quẻ thuộc Tứ chính, quẻ có sáu hào, mỗi hào chủ một tiết khí, sáu mươi quẻ kia, mỗi quẻ chủ về lục nhật thất phần(1), một ngày chia làm tám mươi phần lấy bảy, một năm mười hai tháng, quẻ có địa lục, hậu lấy thiên ngũ(2)...”
Chỉ thấy miệng người nọ lẩm nhẩm liên tục, Cảnh Thương Hoài cũng không rõ hắn đang nói cái gì. Đột nhiên người nọ ngẩng đầu nhìn trời, kêu lớn: “Là thời tiết khí hậu”, rồi người vút đi như bay, nhảy vào thạch trận kia, trước tiên tìm một khối đá cao hơn nửa thân người ở đầu đông, đẩy về phía đông hai thước. Kế đến xoay đi, thân động liên tục, một hơi xoay vần mấy chục khối đá nhỏ. Hắn giống như đang chạy đua với thời gian, chỉ sợ lỡ một cái chớp mắt. Cảnh Thương Hoài đã hiểu được đây là một thạch trận, những gì người kia đọc ban nãy dường như có gốc gác từ Chu Dịch. Cảnh Thương Hoài tuy có đọc qua vài cuốn sách, nhưng cái lý trong Dịch thâm sâu khó giải, trông thấy mà sợ, cho nên cũng chưa từng nghĩ tới việc nghiên cứu, bây giờ thấy đại thạch trận này cùng động tác của người nọ, hình như thạch trận rõ ràng được bài bố trên theo thiên tượng, dưới có địa lợi, lại thêm nhân mưu của người nọ - ngồi trên đá tính toán, thì mới có thể thành hình, trong đó phức tạp dọa người, chỉ sợ uy lực không nhỏ. Cảnh Thương Hoài thầm cảnh giác: không thể để bản thân bị sa vào thạch trận này được. Từ lúc hắn hành tẩu giang hồ, chưa từng gặp qua thạch trận nào lớn từng này, mà đối với cái học về ngũ hành thuật số lại càng cảm thấy mù mờ, hoảng hốt. Chỉ thấy trong trận kia có vài khối đá rất to, sợ chẳng phải chỉ mấy vạn cân, xem người kia chuyển mấy khối đá nhỏ đã mệt tới thở phì phò, nghĩ hẳn khối đá to kia sẽ không phải do hắn bài bố, ắt là do trời sinh như thế. Có điều, bên trong có mấy khối đá sắp đặt kỳ lạ, khó tưởng tượng nổi, chỉ sợ chẳng phải trời sinh mà ắt là con người tạo thành, xem ra nhất định là có bậc kỳ nhân đời trước bày trận nơi đây.
Cảnh Thương Hoài chợt vỗ đầu, nghĩ hình như Thạch Nhiên có nhắc qua ba chữ “Phá trận đồ”, lẽ nào nơi đây chính là Đại Thạch Pha trong truyền thuyết? Hắn nhớ hồi nhỏ, lúc học nghệ từng nghe từ miệng sư phụ một câu hiệu là: “Đại Thạch Pha kìa Đại Thạch ông, bao nhiêu anh hùng khốn bên trong; Đại Thạch Pha kìa đá lớn vang, nhưng tới trọng xuân cỏ cây nhiều; Đại Thạch Pha kìa loạn thạch lưu, nhân tài một thuở mất tự do; Đại Thạch Pha kìa tiếng như chuông, hăm chín cao thủ khuất cùng gió...” Lẽ nào đây chính là di tích trong truyền thuyết đó?
Tương truyền hồi đầu bản triều, thời Thái tông, thiên hạ đã định, nhưng trong võ lâm bỗng xuất hiện một vị bất thế anh hùng, tên là Quy Hữu Tông, tự là Tất Đắc, thuở nhỏ thông tuệ, lớn lên gặp được cơ duyên, tu luyện cần cù, vận tốt liên tục, cuối cùng thành ra một vị cao thủ tuyệt đỉnh.
Về sau, vì cơ duyên đến mà hắn cùng Thái tông Hoàng đế ngẫu nhiên gặp gỡ, vừa thấy đã hợp, từ đó về sau hai người giao tình rất đậm, tuy một người nơi điện đường, một người chốn thôn dã, một phú quý một ẩn dật nhưng không bởi thân phận mà xa cách.
Một ngày, Quy Hữu Tông thấy Thái tông Hoàng đế có vẻ lo sầu, không kìm được mà hỏi nguồn cơn. Thái tông Hoàng đế đáp rằng: “Bây giờ, tuy thiên hạ đã định nhưng ở trên triều đình vẫn trọng kẻ dùng binh mà trong nơi thôn dã cũng không thiếu anh hùng. Trẫm biết chút võ nghệ, tuy không tinh thâm bằng hiền đệ nhưng cũng cảm thấy thiên hạ rộng lớn, hào kiệt ùn ùn, có được họ càng như hổ thêm cánh. Nhưng lời rằng kẻ chiến binh chính là hung khí, một đời này há chịu cúi đầu an phận cho xong? Ngày khác ắt thành nguồn gốc loạn lạc của thiên hạ. Huống chi lúc này, tuy thiên hạ đã định nhưng lòng dân chưa yên, Trung Nguyên nghèo khó, làm sao ngăn được một phen mầm loạn này?”
Quy Hữu Tông là trang đại hào kiệt, bấy giờ cười lớn, nói: “Hoàng thượng, ta thấy người cả nghĩ rồi. Trên triều đình có ngài tọa trấn, ai dám làm phản? Đến như trong giang hồ, còn có ta đây, cũng không tin bọn họ có thể lật nổi trời.”
Thái tông đáp: “Ài, có ta có đệ, đương nhiên còn dễ nói, nhưng tới lớp con cháu thì sao? Hậu nhân Triệu gia ta đều sinh trưởng trong thái bình, tới lúc ấy bọn chúng làm sao trấn áp nổi? Còn như trong giang hồ, đệ cũng không thể sống quá trăm năm, huống chi đệ còn không chịu thu nhận đồ đệ. Mà dù có thu nhận đồ đệ cũng chưa biết đồ nhi hay hay dở. Tới khi ta cùng đệ trăm tuổi rồi, thiên hạ phải làm thế nào? Nếu có biến loạn, thương sinh lại chịu khổ rồi!”
Quy Hữu Tông nghe lời này mà suy tư. Nghe kể vị tiền bối đó bởi thế phát nguyện, cho dù kẻ chiến binh có là hung khí, hắn sẽ loại bỏ hết chiến binh trong thiên hạ! Hắn nói được làm được, bèn cùng ước định với Thái tông, mỗi người lo một bên. Sau đó, Thái Tông sáng lập Phủ Binh chế, xóa hết binh quyền trong thiên hạ, Gom hết can qua, lấy da hổ bọc; thả ngựa núi nam, không thu gom nữa(1). Mà vị tiền bối nọ cũng dùng công sức ba năm, ở một chỗ mật cốc ven Trường Giang, tìm được Đại Thạch Pha, dựa vào di tích hồng hoang, dốc lòng suy nghĩ bố trí thành trận, sau đó ước hẹn cao thủ võ học trong các danh môn đại phái cho tới các bậc kỳ nhân dị sĩ trong thiên hạ, tổng cộng hai mươi chín vị, vây cả vào đại thạch trận này. Lời xưa truyền rằng, hai mươi chín người này không một ai thoát được, cho nên võ kỹ của bản triều tuy thừa hưởng từ thời Hán, Đường nhưng kém xa thuở trước. Tuy thi thoảng có được một, hai cao thủ xuất hiện nhưng cũng chỉ chói sáng một thời, khó thành to tát gì.
Nghĩ tới đây, Cảnh Thương Hoài than thầm trong lòng, lẽ nào đây chính là Đại Thạch Pha? Nếu không, với sức của Triệu Vô Cực cũng chẳng bày ra nổi khí thế to lớn, hoành tráng thế này. Đại trận vây khốn được anh hùng thiên hạ trong thước tấc, lại thêm lão là con cháu tông thất, cũng sẽ biết được ở ven Trường Giang có tồn tại trận này. Cảnh Thương Hoài đã nhận ra lão đầu tóc ngắn kia chính là Triệu Vô Cực. Hắn ngưng mục nhìn kĩ, muốn xem xem Loạn thạch trận ở Đại Thạch Pha này có chỗ ảo diệu gì mà có thể vây khốn hai mươi chín vị cao thủ, trong đó còn có một vị chính là Cổ Sơn Công, tổ sư gia của môn phái Cảnh Thương Hoài. Cảnh Thương Hoài học nghệ ở Tung Dương, nhưng chỉ là đệ tử ký danh, Cổ Sơn Công chính là vị cao thủ vào buổi đầu bản triều từng khiến phái Tung Dương huy hoàng một thời, tới nay sau khi phái Tung Dương suy vi, nhắc tới mà vẫn khiến đệ tử Tung Dương Lục Dương môn nhướng mày than thở một hồi. Sau khi Cảnh Thương Hoài nhập môn liền cảm thấy võ công bản môn tản mát, tán loạn, nếu không phải hắn suy tư tinh luyện, thêm vào tự ngộ thì quyết chẳng đến được cảnh giới hôm nay. Tới giờ nghệ đã đại thành, Cảnh Thương Hoài càng quan tâm tới lai nguyên võ nghệ bản triều... Chuyện phiếm không nhắc tiếp nữa, chỉ thấy đại thạch trận ở Đại Thạch Pha này, rõ ràng dùng đá lớn làm căn cứ, bố cục xảo diệu, chỗ quan yếu trong đó, chỉ e lại nằm ở những khối đá cao bằng nửa thân người tuy cũng nặng nhưng một cao thủ vẫn có thể lay động kia. Những khối đá nhỏ này nằm vung vãi giữa những khối đá lớn, trên đá có vết xoa mòn, cách Cảnh Thương Hoài không xa có một khối, ắt hẳn ngày xưa Quy Hữu Tông tiền bối sau khi bày thành trận cũng từng vất vả tập luyện. Cảnh Thương Hoài bên này đang nghĩ, bỗng thấy Triệu Vô Cực đã thu tay, lại quay trở về tảng đá khi nãy lão ngồi - tảng đá lớn đó có vị trí đặc biệt, tuy không phải là cao nhất nhưng có thể quan sát toàn trận, chỉ nghe Triệu Vô Cực lẩm bẩm: “Vẫn được, tính ra trước giờ Sửu ba khắc là dịch xong.”
Cảnh Thương Hoài nhìn vào trận lão đã dịch sửa, quả nhiên khí tượng lại biến đổi, bóng đen lay lắt, sát cơ vô hạn. Bỗng nghe có giọng sắc bén nói: “Triệu lão nhi, lão cho rằng dựa vào đống đá này là thật sự có thể vây khốn ta bảy ngày sao?”
Triệu Vô Cực nhăn trán, lão thật sự đã sứt đầu mẻ trán rồi. Hôm đó, lão dẫn Lạc Hàn vào trận, nắm chắc mười phần, cho dù kiếm của Lạc Hàn có sắc bén nhưng chỉ cần bước vào trận này, bằng vào sâm la vạn tượng trong trận, đảm bảo một cây kiếm ngắn ngủn của hắn không thể đối phó nổi, bản thân chẳng phải muốn giam hắn bao nhiêu ngày thì giam từng đấy sao?
Nhưng kết quả lại vượt quá xa dự liệu của lão - uy lực của trận này đương nhiên nằm ở người bố trận. Trận này không được lưu truyền trên đời, lão cũng là vì xuất thân hoàng thất, lại để chí với nghiệp võ nên mới biết đến. Thuở ấu thơ, lão ở Lang Nha các trong Đại nội, tìm được mật đồ của trận này, cực kỳ có hứng thú, bèn sao chép một bản. Sau loạn Tĩnh Khang, lão sống ở ven Trường Giang lâu ngày, nghĩ lại chuyện nghe được thuở nhỏ mới để ý tìm tòi. Sau mười năm vắt kiệt tâm trí mới có được tâm đắc trong chỗ then chốt của việc vận hành trận. Hồ kiếm của Lạc Hàn tuy sắc nhưng không tin hắn đối phó nổi ba năm tận sức bài bố của bậc đại tông sư như Quy Hữu Tông. Nay lại có thêm bản thân là cao thủ tinh thông Dịch Vĩ, Lạc Thư tọa trấn Loạn thạch đồ nơi Đại Thành Pha này. Tương truyền năm xưa sau khi bày trận xong, Quy Hữu Tông cũng cực kỳ hưng phấn, khắc trên một tảng đá lớn rằng: “Trời đất là lò hề, tạo hóa là thợ, âm dương là than hề, vạn vật là đồng”, cái sự đắc ý trong lòng có thể thấy ở đây, ngắn ngủi mấy lời khắc của lão, muốn luyện chính là hồn vía cao thủ trong thiên hạ.
Tảng đá nọ hiện nằm chính giữa trận, cách chỗ Lạc Hàn đứng chưa đầy ba thước, Lạc Hàn đang đứng đó, khoanh tay trầm tư. Triệu Vô Cực nghĩ: Mình cố nhiên không bì được Quy Hữu Tông, nhưng Lạc Hàn kia tất cũng không bằng hai mươi chín vị cao thủ tiền triều nọ. Chỉ nghe Lạc Hàn hắng giọng đọc: “Trời đất là lò hề? Tạo hóa là thợ? Âm dương là than hề? Vạn vật là đồng?”
Cùng một câu mà từ miệng hắn đọc ra lại thành khác. Kết từng câu không còn là lời đoan chắc mà là nghi vấn, hoặc có thể nói là chất vấn! Chỉ nghe hắn nói: “Hắc hắc, ta không phục! Lão là hậu nhân Triệu gia, quả nhiên có cái tính thối coi vạn vật trong thiên hạ là chó rơm của hoàng đế lão nhi. Có điều, vạn vật trong thiên hạ, lão nói luyện là luyện được chắc? Cho dù lão là lò lớn giữa thiên địa, tới mà luyện ta, cái thứ sống nơi hoang dã, ở nơi man di, chẳng vàng chẳng đồng, chẳng tên gọi, chẳng có gì này đi!”
Nói rồi, chỉ thấy trong tăm tối lóe lên một tia sáng lạnh. Kiếm quang đó xao động, sóng sánh tựa sóng nước nhuốm sáng, trong bóng tối toát lên một thứ long lanh làm say lòng người. Chỉ thấy trên Đại Thạch Pha, phong vân bỗng nổi, Lạc Hàn đã chộp đúng chỗ cốt yếu, xông tới hướng đông. Hắn vừa động thân, Triệu Vô Cực đã cảm thấy không ổn, lập tức phóng tới. Vị trí lão ngồi tựa như đi đâu cũng tiện, bởi thế tuy lão động sau mà vẫn kịp tới chắn trước mặt Lạc Hàn. Chỉ thấy lão từ trên không trung khuất côn đánh tới, côn của lão vốn dài, là cây Tề mi của Thái tổ, một kích đánh từ trên không này, cộng thêm uy thế của thạch trận, quả thật chẳng phải trò đùa. Lạc Hàn lại càng không chịu thua người khác về khí thế, dám dùng đoản kiếm hai thước ngạnh tiếp cây Tề mi côn của Triệu Vô Cực đập xuống!
Chỉ nghe “keng” một tiếng, kiếm côn giao nhau, tiếng tuy không to nhưng hoa lửa tung tóe. Lạc Hàn không hoàn toàn đỡ cứng, đoản kiếm đã thuận thân côn mà lên, gọt thẳng tới mu bàn tay Triệu Vô Cực. Tay trái Triệu Vô Cực lập tức buông ra, dùng tay phải nắm chặt một đoạn khác trên thân côn, đầu côn nhắm thẳng tới lồng ngực Lạc Hàn. Lạc Hàn giả bộ đưa tay muốn tóm đầu côn, đoản kiếm lại khua tới cổ họng Triệu Vô Cực; Triệu Vô Cực rụt đầu, mảnh vải bó trên búi tóc bị mũi kiếm của Lạc Hàn lia qua, đứt tung, đầu tóc lão lập tức xõa tung. Lão không hoảng, mượn cơ hội, tay trái lại kéo đầu côn, hai tay bẻ lại, cây côn liền cong thành hình cung, chiêu này dưới đáy Trường Giang lão từng dùng, chẳng qua một thức khi ấy là Tiễn xạ thiên lang, lúc này thì là một thức Hỗn độn côn, sau đó lão buông tay, đầu côn mang theo một luồng khí lưu bật thẳng đi. Lạc Hàn sức yếu, không ngăn được sức bật một côn này của lão, bèn vươn tay dùng mũi kiếm điểm tới đầu côn của lão, tuy tránh thoát nhưng người đã bay lùi ngược vào trận. Triệu Vô Cực tóc dài tung tán, dịch chuyển lại khối đá ban nãy lộ ra chút kẽ hở khiến Lạc Hàn suýt nữa thoát ra được rồi mới chống côn ngẩng lên, dưới ánh sao mờ mờ, những nếp nhăn trên mặt lão khắc sâu. Gã thiếu niên này rốt cuộc là người gì thế? Chỉ cần có chút kẽ hở, hắn dường như có thể nhân cơ hội len tựa thủy ngân mà thoát ra, nếu không nhờ Loạn thạch đồ này, thật không biết trong thiên hạ còn có thứ gì có thể vây khốn được hắn! Lão đã tận hết sức lực, hơn hai ngày nay đã phát huy hơn cả lĩnh ngộ ngày thường của lão đối với Phá trận đồ. Nhưng võ công của Lạc Hàn hoàn toàn không theo lẽ thường, không tuân đạo lý, ba ngày nay tuy cầm chân được hắn nhưng mỗi một kích của Lạc Hàn đều nhắm vào chỗ Triệu Vô Cực đã suy đi ngẫm lại, khó khăn tính toán, có vài lần đã dọa cho Triệu Vô Cực toát mồ hôi lạnh, vả lại trong đó tựa hồ còn bao hàm không ít tinh nghĩa võ học, đáng tiếc, Triệu Vô Cực đã không rảnh mà tham ngộ. Nếu không phải toàn đại thạch trận này quả thực rộng lớn, thường có những diệu dụng mà Triệu Vô Cực chưa từng dự kiến thì nếu chỉ dựa vào lý giải ngày trước của lão, sợ rằng sớm đã bị Lạc Hàn xông thoát khỏi trận rồi. Từ lúc vây khốn tới nay, chỉ có mỗi nửa ngày đầu là Triệu Vô Cực có thể có chút nhàn nhã, uống vài ngụm rượu bản thân đem tới, hơn hai ngày còn lại, lão còn chưa được ăn một miếng nào. Cho tới giờ này, lão đã không biết là mình dùng thạch trận vây khốn Lạc Hàn hay là Lạc Hàn dùng trận này vây khốn mình đây?
Lúc này, trong đầu Triệu Vô Cực không khỏi nhớ tới bức Âm dương ngư trong Thái Cực đồ hồi nhỏ lão từng xem. Hai con cá bám đuôi nhau, con nào âm, con nào dương? Trong phần Vĩ của sách Dịch nói: “Phản Thiệt hữu thanh, ninh nhân tại trắc(1)”, tình cảnh này, bản thân cùng Lạc Hàn chẳng phải giống như câu Phản Thiệt hữu thanh kia sao? Càng giống hai con cá âm dương, là âm tới từ dương hay là dương ôm ấp âm? Là lật ngược hữu đến vô? Hay là toàn bộ lấy vô làm hữu? Triệu Vô Cực tóc bạc tiêu điều, nghĩ ngợi chỗ này.
Sách Dịch có câu: “Cửu tam: Vô bình bất bi, vô vãng bất phụ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc.(1)”
Tượng của hào quẻ rằng: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã(2).” Kẻ vây người không phải vây luôn chính mình sao? Triệu Vô Cực trầm ngâm suy tư ở chỗ này, Cảnh Thương Hoài thì lại đang nghĩ về vài chuyện khác. Hắn không dây dưa tới Dịch lý nhưng đang nghĩ tới một vài việc trên đời. Thái tổ, Thái tông và Quy Hữu Tông đều là bậc hào hùng một thời, nhưng hành vi xóa bỏ hết chiến binh trong thiên hạ để được yên ổn, đoạt sạch quyền của muôn dân để được vững bền, thật sự là đúng sao?
Hắn nghĩ tới chuyện từ khi khai quốc, lập triều Tống tới nay, loạn bên trong không ngừng, họa từ ngoài không dứt. Cứ nói nước thiếu rường cột, nơi thôn dã chẳng có nhân tài, nhưng cho dù có đi nữa mà cứ như buổi đầu triều Tống, hoàng thất nhà Tống tự bỏ đi thế nước, trong triều đình thì xóa hết binh quyền, nơi giang hồ thì nhốt sạch hào kiệt - xóa hết chiến binh trong thiên hạ để cầu không động đao binh, ngu hóa hết muôn dân trong thiên hạ để cầu không có nổi loạn. Từ đó thiên hạ như bị phế - lấy đó để đổi lấy thái bình, có thể lâu dài nổi sao? Đấy là thái bình thật sự sao?
Hắn nhìn vào trong trận, chỉ thấy bên trong đá lớn như sao giăng cờ bày, kỳ diệu như quỷ thần, Lạc Hàn đang đứng trong đó, thân hình ngay thẳng. Thiếu niên này lúc thường trông uể oải nhưng mỗi khi gặp nguy khốn lại thể hiện sự sắc bén. Đại Thạch Pha khí tượng muôn vàn nhưng không che khuất nổi khí thế của hắn. Hắn đang trầm tư nhưng trên tay, trên vai, trên kiếm, trên mi mày đều có một luồng khí thế đặc biệt mà trận đồ cự thạch này cũng không vây khốn nổi! Hắn đứng đấy phải vài khắc, trên trời, sao mai đã lên, đã được nửa canh giờ, Lạc Hàn bỗng hô lên: “Triệu Vô Cực, ta hiểu rồi, ta sẽ phá trận pháp của lão vào khắc đầu của giờ Mão, trước ánh ban mai buổi sớm!”
Giờ Dần ba khắc, từ xa bỗng văng vẳng vọng lại tiếng gà gáy. Triệu Vô Cực chợt lại động thân, lão định trước khi giờ Dần qua hết, khí dương bắt đầu tỏa lập tức biến trận. Chỉ thấy bước chân lão vội vàng, xoay tới xoay lui trong thạch trận. Thoáng cái, lão đã lại dịch chuyển mười mấy khối đá lớn, sau đó ngẩng đầu trông sắc trời, tựa như đã rất cấp bách, lại càng mau tay. Cảnh Thương Hoài thấy biến hóa lần này của lão lại càng tinh vi. Mới rồi, Triệu Vô Cực ngồi trên tảng đá kia, trầm mặc không nói năng, khổ não tính toán, xem ra lần này lão mưu tính tới ói máu. Cảnh Thương Hoài quyết định phải giúp Lạc Hàn kia một tay, ngắm ba khối đá Triệu Vô Cực dịch chuyển ở vòng ngoài cùng, len lén lách đi. Tay chân hắn rất nhẹ, lại thêm việc Triệu Vô Cực chưa từng liệu tới việc trong trận lại có kẻ khác, hoàn toàn không phát hiện ra điều gì, chỉ vội việc của mình. Trong âm thầm, Cảnh Thương Hoài đã lén dịch chuyển hai khối đá trong đó đi nửa thước.
Cảnh Thương Hoài cũng không biết mình dịch đúng hay không, xê xích nửa thước này là có lợi hay có hại với Lạc Hàn, nên trước sau cứ lo việc mình, vô ý kích phát sát cơ càng lợi hại hơn trong trận. Chỉ thấy trong trận, bóng đen lập lờ, dường như không có biến hóa gì. Giờ này vốn là một khắc tối tăm nhất trước lúc bình minh, Cảnh Thương Hoài nhớ tới lời vừa rồi của Lạc Hàn, muốn phá trận này vào khắc đầu của giờ Mão, không biết vì sao, lòng bàn tay thấy hơi ươn ướt. Triệu Vô Cực cũng đã xong việc, quay trở về trên tảng đá nọ, trầm mặc chẳng nói chẳng rằng.
Ba người cùng chờ đợi thời khắc này, ý nghĩa một khắc ấy đối với mỗi người mà nói rất không giống nhau. Lạc Hàn là phải làm được, Cảnh Thương Hoài kiên quyết trợ giúp, Triệu Vô Cực lại cảm thấy mệt mỏi, nghĩ: Biến hóa trong đêm của trận pháp này có vài chỗ bản thân dường như còn chưa hiểu rõ, chỉ cần chống đỡ qua được một khắc này, có lẽ tới sáng ngày mai có thể có được một ngày yên ổn rồi.
Ắt hẳn ba người cũng chẳng nghĩ tới sẽ có một ngày, trong cùng một sơn cốc, cùng ngóng bình minh.
Trời bỗng sầm đi, sau đó, ánh sáng lóe rạng, lan khỏi chân trời. Chỉ nghe thấy Lạc Hàn hú dài một tiếng, âm thanh vang động mấy dặm, trong cốc ngoài cốc, chim đêm ồ ạt bay, tiếng kêu vang trời không dứt. Kế đó, một đạo kiếm quang theo ánh bình minh nhàn nhạt nở ra, tựa như thủy ngân thấm đất, kỳ hoa mới chớm, liên miên, man mác, rất khác kiếm ý trước đây của Lạc Hàn. Thế của nó tuy chậm nhưng không gì có thể cản trở, lan ra ngoài trận. Triệu Vô Cực cũng kêu to một tiếng, tay nắm Tề mi côn, phi thân tới, côn ảnh như dệt, từ trên úp xuống.
Cảnh Thương Hoài chẳng rảnh xem kĩ bọn họ, trầm eo vận sức, đánh tới khối đá thứ ba. Khối đá nọ tuy nặng nhưng vẫn bị hắn đẩy đi hơn ba thước. Hắn lo không đủ, xoay lưng tựa lên một khối đá lớn nặng gần vạn cân, vận hết sức bình sinh, đẩy mạnh một cái. Hay cho Cảnh Thương Hoài, tới đá lớn vạn cân cũng bị hắn đẩy lay. Sau đó, hắn liền thấy trong trận tựa hồ chớp mắt có biến hóa, đá vẫn là mấy khối đá ấy, nhưng không rõ có phải vì trời sáng hay không mà trông sáng tỏ hơn nhiều rồi. Có điều, khối đá kia quá nặng, lập tức lại đổ lại chỗ cũ, Cảnh Thương Hoài thiếu chút nữa có cảm giác thoát lực, trước mắt tối sầm, lại cảm thấy thế cục trong trận tối lại. Xem ra, trận này không phải nói hủy là hủy được!
Bấy giờ, Cảnh Thương Hoài nghe thấy tiếng cười của Lạc Hàn truyền tới. Ánh kiếm của hắn cùng cây Tề mi côn của Triệu Vô Cực vọng ra một loạt tiếng giao kích: “Keng keng keng keng”. Triệu Vô Cực đón đỡ một chập mới kinh hãi cảm thấy Lạc Hàn xuất thủ tranh đoạt chính là một thoáng thời cơ lúc ánh bình minh ló dạng, vào một khắc ấy, trong trận tựa như có chút kẽ hở. Lão toàn lực che chắn, khổ nỗi cảm thấy trong sự che chắn của mình mà trận thế lại lung lay, chỉ một thoáng ấy, Lạc Hàn đã mang kiếm men theo ánh bình minh thoát ra ngoài trận. Triệu Vô Cực sững sờ, thấy Lạc Hàn đã nhảy lên một tảng đá lớn thì hít sâu một hơi, mãnh hổ thoát cũi, mới rũ gông xiềng, sự sắc nhọn của nanh vuốt có thể tưởng tượng được. Triệu Vô Cực toác da đầu nhưng không muốn va chạm với Lạc Hàn vào lúc này. Sững một lúc, lão cười lớn một tiếng, xoay về hướng tâm trận thoát đi. Lạc Hàn hận lão giam mình ba ngày, bấy giờ đang muốn ăn miếng trả miếng, thấy hành động của lão thì không khỏi ngạc nhiên. Đại thạch trận này quá mức rối rắm, hắn cũng không dám tùy tiện đuổi theo. Triệu Vô Cực kia cười, nói: “Lạc tiểu bằng hữu, ngộ tính kiếm thuật của ngươi thực vượt xa tiểu lão nhi dự liệu lúc trước. Vốn ta cho rằng có thể dựa vào trận này vây ngươi ít nhất là bảy ngày, tới lúc ấy, thả ngươi hay không còn phải tùy hứng của ta. Ngươi chẳng qua cũng chỉ là có thể gây phiền toái cho Viên lão đại mà thôi. Nhưng giờ xem ra, ha ha ha ha, chỉ e ngươi là kẻ đương thời hiếm có có thể đối phó Viên lão đại. Hắc hắc, ta cùng đường huynh lúc trước cũng từng mấy lần mạo hiểm, mưu đồ dụ Viên lão đại vào trận này, ai ngờ hắn không mắc mưu. Nay xem ra, hắn không đến, thật không biết là phúc phận của hắn hay là phúc phận của bọn ta. Ta chỉ cầm chân ngươi được ba ngày, nhưng ba ngày này hẳn cũng đủ rồi. Lạc tiểu ca nhi, về sau chúng ta sẽ còn gặp mặt.”
Nói rồi, lão xoay sang chỗ Cảnh Thương Hoài ẩn thân, oán hận trừng mắt. “Sau tảng đá kia là vị cao nhân nào thế? Hắc hắc, với công lực này, Giang Nam hiện thời trừ Viên lão đại ra, chỉ có mình Cảnh Thương Hoài thôi. Nếu chẳng có trợ giúp của ngươi, Lạc tiểu bằng hữu thoát được ra khỏi trận này hay không còn chưa biết thế nào, ân đức của bằng hữu, Triệu thị huynh đệ ta nhớ rõ rồi!”
Nói xong, lão không nhiều lời nữa, nhảy xuống nước, thuận dòng mà đi.
Cảnh Thương Hoài thấy lão bơi xa mới lộ thân hình. Lạc Hàn đang thu kiếm, kiếm của hắn không có vỏ, là dùng một miếng vải bọc lại, cất trong tay áo. Hắn vốn gầy, ba ngày nay chưa có hạt cơm nào vào miệng, cái bụng càng hóp thêm. Cảnh Thương Hoài chỉ thấy hắn khom lưng, mượn dòng suối rửa mặt, nước suối lạnh băng khiến làn da trẻ trung của hắn càng căng ra. Mấy ngày không ăn không uống, sắc da nâu nhạt của hắn có chút nhợt nhạt, nhưng càng thấy được tinh thần. Cảnh Thương Hoài trước nay cảm thấy mình ít nói, nào biết Lạc Hàn lại càng lầm lì. Hắn rửa mặt xong thì dựa vào tảng đá nghỉ ngơi, xem ra trận vừa rồi hắn tiêu hao cũng rất lớn. Lạc Hàn cứ ở đó đợi tới sáng, cỏ cây trong cốc dần rõ ràng, giờ là mùa đông, trên nhành cỏ, sương sớm trong ánh bình minh mang sắc trắng giá, trong veo lạnh lẽo. Sau đó, thiếu niên nọ như đã được nghỉ ngơi, đứng lên, hít một hơi rồi nhảy xuống nước, bơi ngược về bờ sông.
Cảnh Thương Hoài đi theo hắn ra chỗ khe đá. Lạc Hàn liền chụm môi huýt một tiếng, ngoài khe đá lập tức có tiếng lạc đà kêu mừng. Một chủ một thú ứng tiếng, vang vọng trong sơn cốc, nghe thật hân hoan, tới Cảnh Thương Hoài cũng thấy vui vẻ. Chớp mắt đã thấy bãi cát, Lạc Hàn nhảy ra rồi liền tới ôm con lạc đà, tuy hắn cúi đầu, không thấy được vẻ mặt nhưng Cảnh Thương Hoài lần đầu tiên thấy hắn cao hứng như thế.
Cảnh Thương Hoài cũng định nói với hắn vài câu, bây giờ bỗng cảm thấy nói không nên lời. Viên lão đại, Đề kỵ, Tất Kết, bãi Bạch Lộ, cái loạn của võ lâm Giang Nam... tất tật những thứ ấy tựa hồ không cùng một thế giới với thiếu niên này. Cái hắn quan tâm không phải là chúng, hắn tuy cướp tiêu, giết người nhưng nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành dường như đều vì một thế giới khác của hắn. Cho dù ngẫu nhiên tới thế giới của người khác thì cũng mang dáng vẻ vô can, giọt nước chẳng dây, nhưng cũng khiến cho người khác nghi vấn: Thế hắn tới làm gì?
Cảnh Thương Hoài lẳng lặng suy nghĩ, không biết nên làm thế nào để tiến vào cái thế giới đó của hắn.
Cảnh Thương Hoài cũng chẳng ngờ, bản thân sẽ ở ngoài Đại Thạch Pha cùng thiếu niên này trọn ba ngày. Tuy hắn du hiệp giang hồ, dãi gió dầm sương nhưng cũng rất ít khi trú ngoài đồng không mông quạnh. Trông Lạc Hàn nọ thì có vẻ đã ở ngoài nơi hoang dã quen rồi. Ba ngày nay, Lạc Hàn chẳng mấy nói năng, trừ những lúc chải lông cho lạc đà thì chỉ ngủ. Thật ra, hắn cũng không ngủ nhiều, phần lớn thời gian là chui vào Đại Thạch Pha, một mình tĩnh tọa, xem Loạn thạch trận kia.
Cảnh Thương Hoài cũng hiếu kỳ hành vi của Lạc Hàn, liền theo hắn vào xem. Chỉ thấy Lạc Hàn ngồi trên tảng đá Triệu Vô Cực từng ngồi hôm trước, chống cắm nghĩ ngợi, đã ngồi là ngồi cả một ngày. Hắn cũng thật giỏi nhịn đói, một ngày không ăn gì là chuyện thường, Cảnh Thương Hoài cũng thấy không theo nổi.
Lần đầu Cảnh Thương Hoài thấy Đại Thạch Pha là lúc đêm tối, giờ ban ngày nhìn vào thật không giống. Mấy ngày này đều là ngày nắng đẹp hiếm có. Ngày đông ấm áp, trời sương lành lạnh, Đại Thạch Pha càng lộ khí thế hùng tráng. Một cái cây cọng cỏ, một đụn cát khối đá trong đó càng mang thâm ý mênh mông, quảng đại. Lạc Hàn ngồi trên tảng đá lớn kia cũng hiện ra sự nhỏ bé của con người. Trời đất sinh ra con người, nhưng thời gian con người có thể trở về thiên địa nơi mình sinh ra, quan sát thiên địa một cách gần gũi thì lại theo tuổi tác lớn thêm mà càng lúc càng ít. Mấy năm nay, Cảnh Thương Hoài bôn tẩu phong trần, cũng hiếm có được cái thú một mình đối diện với tự nhiên này. Cảnh Thương Hoài nhìn thiếu niên nọ, không biết vì sao bỗng thấy cảm động. Lạc Hàn này không quyền, không danh tiếng, trong lòng cũng không đoái tới quyền danh, ở riết nơi tái ngoại, cam nguyện tịch mịch, trông thần sắc của hắn, chính là có thể mỗi khi ở vào nơi tịch mịch không người thì quay về buổi nguyên sơ của thiên địa, dốc hết trí tuệ của mình mà tham ngộ tạo hóa. Chính là dựa vào thanh kiếm kia, cánh tay kia, đối diện với trời đất tựa lò luyện lớn, với tạo tác thần diệu của tạo hóa mà cầu cái tồn tại của bản ngã, niên kỷ lại ít là thế, thật là hiếm có.
Quả thật, trời đất sinh con người nhưng sinh con người làm gì? Người sống làm gì? Người vì đâu chết? Được sao cũng khổ? Mất sao cũng khổ? Đây đều là những nghi đề nhân sinh nảy sinh trong lòng Cảnh Thương Hoài khi còn trẻ. Có điều, xã hội quá lớn lao, cái học bản thân Cảnh Thương Hoài thành thạo, võ học cũng quá mênh mông, bao la như biển, đã nhập vào trong đó là tức khắc chìm đắm. Bao nhiêu nghi vấn lớn có tính cơ bản đều lui về trở thành vài nghi đề nhỏ bên cạnh mình. Trường nhân sinh này khiến con người không thể nghĩ xa, chỉ đành lo gần.
Lo gần là khổ, còn nghĩ xa... mênh mênh mang mang, không bờ không bến. Vũ trụ là gì? Con người là gì? Thời gian là gì? Sự tồn tại của con người là gì? Tất thảy những thứ này tựa quái thú thuở hồng hoang, khiến người ta kinh hãi. Nhất thời, Cảnh Thương Hoài chẳng bi chẳng khổ mà nghĩ tới mình cùng thế giới này. Thế giới này rất tốt, hắn hẳn không nên ai oán gì, bất kể thế nào, con người đều phải sinh tồn trong cái xã hội này, chính nó cho ta ý nghĩa của sự sinh tồn. Người liêm khiết thì giữ gìn thanh danh, kẻ tham lam thì mong kiếm tiền bạc; dân đen thấp bé thì luyến tiếc cái nhà nhỏ ấm áp, kẻ hùng tài đại lược thì muốn ôm lấy uy quyền trong thiên hạ; gã nhà giàu thì khoe khoang với hàng xóm, ả nhan sắc thì dụ kẻ quyền hành, đều là cái tâm muốn nhân cơ hội một thời; xuống ba thước lạch sông mò chút tôm tép, lên trăm thước lầu cao dâm đãng đàn bà, thế cũng có thể xem là chí nguyện bình sinh; nhập thế kiếm lợi, tránh đời để xứng danh hiền; giẫm đạp muôn dân mà được tôn vinh, ai vinh ai nhục? Mê đắm thú vui mọn như chơi côn trùng thành ra sở thích quái dị, thế là được hay mất? Đến như ông lão ôm hũ, Mễ Điên(1) lạy đá... Thế giới này sẽ luôn cho ta một ý nghĩa để sinh tồn, chỉ cần ta... thừa nhận nó trước.
Nhưng Lạc Hàn thì tựa hồ muốn phủ định nó, hắn một mình lánh ngoài tái ngoại hoang vu. Ở triều Tống luôn thích xưng giáo hóa, nhưng hắn tự mình cư ngụ ngoài giáo hóa. “Hóa” là gì? Rất nhiều người chưa từng nghĩ qua. Tới đây, Cảnh Thương Hoài mới hiểu ra được vì sao sự sắc bén nơi kiếm, sức mạnh nơi đòn đánh, nhanh nhẹn trong bước nhảy, quái dị trong cái cong mình của Lạc Hàn đều thành ra cái người ta khó đón đỡ, chưa từng thấy qua. Thật ra là bởi hắn đã bước ra ngoài con đường võ học rất xa. Võ học mênh mang như cát vàng sa mạc, chứa đựng vô số; các nhà các phái đều tự có dòng riêng, ngày tháng lâu dần, sinh lắm nhánh rẽ về yếu nghĩa. Năm xưa, trong phái Hoa Sơn có cuộc tranh chấp của hai phe Kiếm, Khí; Thiếu Lâm cũng không dứt cái loạn truyền thừa. Mỗi nhà mỗi phái mưu cầu là một mạch truyền đạo, nhưng cái “đạo” đó truyền xuống - tiền nhân lập cơ sở, hậu nhân điểm trang, căn phòng cái buồng, cái khung cái giá, đều xuất phát từ bao nhiêu cánh tay. Khó bảo là mênh mông hoành tráng thì thật sự cũng là kết cấu phức tạp; không bảo đẹp đẽ, huy hoàng thì cũng có chút khéo léo, hay ho riêng. Cái gọi là xuất thủ đánh nhau chính là đem cái bao tải của nhà này, phái này ra chụp ta, ta có bị trầm mê, sa vào đó không thì còn phải xem công lực ta cao hay là thủ đoạn của hắn hiểm. Nhưng Lạc Hàn lại một kiếm vượt ra, quẳng đi vạn loại pháp môn, lội ngược về thuở đầu của võ học. Một mình tìm tòi đầu nguồn, đương nhiên phải tự mình lội nước, tuy cái nghi nan khó hiểu, mênh mang mờ mịt gặp phải trong đó càng vượt xa người khác nhưng đích thực hắn đã có được thứ truyền thừa khác.
Thật ra, trong con mắt của vô số người trên giang hồ, thứ võ học mà hắn gửi lòng, trong cái mênh mông bể sở tìm về nguồn cội, quả thật là vô môn vô phái. Đó là một sợi chỉ mơ hồ từ thuở thiên địa mông muội, mới có ý thức. Còn nay, ngàn vạn môn phái, nhưng thông được tới đó, tiếp nối nguồn đó, mãi cũng chỉ có được chút đó mà thôi, còn như ngộ được điều ấy, vạn người chẳng được một, hai. Cảnh Thương Hoài võ học có thành tựu, thực ra là nhờ năm ba mươi tuổi có nghe được lời nói của một văn sĩ. Văn sĩ đó nói: “Việc học mà muốn cầu có được thành tựu, thì phải tìm được cái trước khi có lời nói.” Lời này thật sâu sắc. Cảnh Thương Hoài nhờ đó mà ngộ, võ học nếu muốn có thành tựu thì phải quay về trước khi có chiêu thức. Thật ra phải đứng ở nơi đầu nguồn đó thì mới là một mảnh mênh mông chưa từng khai phá. Ở chỗ ấy, văn võ tuy khác lối nhưng lại về cùng mối, Khổng, Mạnh trông thấy nó, nói: “Nơi đây mênh mông, trôi chảy là thế này chăng, dòng Lưu Sa, dòng Nhược Thủy(1), kẻ không có định lực tất chìm lún trong vô hạn, mà cái trí của thường dân không nên tùy tiện ngẫm tới”, thương xót chúng sinh, cho nên nói: “Kính trọng quỷ thần mà cách xa chúng”, để lại Ngũ Kinh, lục nghệ(2) dạy cho thiên hạ, vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, dựng căn cơ muôn đời không lay đổ, tuy có chỗ sứt hỏng nhưng cuối cùng đã thành đức lớn. Trăm nghìn năm nay, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ, ai nấy đại nho một đời, thêm phòng dựng gác, xây thành nhân luân, cũng là muốn tạo thành một tòa nhà để tư tưởng u mê của muôn dân được ở yên trong đó. Hành vi tuân lẽ thường, cử chỉ có chừng mực, không đến nỗi phải đối mặt với cuồng phong bão tuyết khó bề dự liệu trong cái hoang mạc của ý thức.
Bởi vì, cái mênh mang kia thật sự đủ để hủy hoại ý nghĩa sinh tồn của con người. Ngoài ra, Lão Tử có đạo của Lão Tử, Trang Chu có đạo của Trang Chu, chúng ta là đám hậu sinh tiểu bối, có lòng muốn quay về, chẳng ai không náu dưới đôi cánh của họ thì mới ngẫu nhiên có được ý nghĩa trong kiếp phù du. Giống như Cảnh Thương Hoài lấy việc cứu muôn dân, làm lợi cho đời làm nhiệm vụ, vin vào ý niệm “nước nhà” mà tự động viên mình, để đối chọi với cái vô thường của nhân sinh, cái khác biệt của lẽ vật, ngẫm nghĩ kĩ càng, chẳng qua cũng là như thế. Cho nên hắn vì Lạc Hàn nọ mà cảm thấy xúc động, người dám một mình đối diện với mênh mang bất kể thế nào đều khiến người ta kính trọng. Nếu không bởi thiếu niên này, hắn sẽ không nghĩ lại những thứ ấy.
Nghĩ rồi, Cảnh Thương Hoài bước vào trong trận. Khối đá thế này, phát động theo ý nghĩ của con người thành ra uy lực chừng ấy, trong lòng hắn cũng tự thấy kinh sợ. Nay kẻ khống trận đã đi, khối đá cũng chỉ là khối đá mà thôi. Hắn đi tới bên khối đá nằm chính giữa, quả nhiên trên mặt có chữ bậc võ thánh một thời Quy Hữu Tông khắc lên. Cảnh Thương Hoài ngẩng đầu nhìn, đường ngay nét thẳng, trong lòng không khỏi dâng lên cảm giác ngưỡng trông núi cao. Chỉ thấy tảng đá lớn nọ có khí tượng độc đáo, trên mặt đá, chữ nào chữ nấy to cỡ nắm tay, khắc một thiên văn chương, dẫn dùng Phục điểu phú của Giả Nghị, bên dưới có chú rõ xuất xứ... Nếu không chú, Cảnh Thương Hoài cũng chẳng biết lai lịch thế nào, đoạn văn được trích dẫn là:
... Trời đất là lò hề, tạo hóa là thợ, âm dương là than hề, vạn vật là đồng. Hợp tán sinh diệt hề, sao theo lẽ thường; thiên biến vạn hóa hề, chưa từng có cùng cực. Ngẫu chợt thành người hề, sao phải giữ rịt; hóa thành thứ khác hề, sao đáng ưu lo!...
Lời tựa có tình, âu sầu sâu đậm, Cảnh Thương Hoài nhất thời ngây người. Quay đầu lại, Lạc Hàn vẫn đang ở trên tảng đá lớn kia, tĩnh tọa im lặng. Hắn ngộ được gì? Cảnh Thương Hoài cũng không rõ.
Tới đêm thứ ba, Cảnh Thương Hoài từ trong cơn mộng giật mình tỉnh dậy, ra là Lạc Hàn cất tiếng hú lớn. Tiếng hú của hắn cũng không giống người thường, trong cao lanh lảnh, xuất từ Đan Điền, về từ Hư Cốc, dường như có hình có chất, khiến cho sao Đẩu, sao Ngưu chói lọi. Cảnh Thương Hoài biết hắn ắt có sở đắc, ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy tinh tú đầy trời. Đêm càng tối, sao lại càng sáng, tiếng hú kia thành ra khí của con người trong trời đất này. Tiếng hú trọn một tuần trà mới ngưng, thôn dân gần đó nghe thấy, sợ tựa trong mộng nghe thấy tụng thiền; nếu có cao thủ ngang qua nghe thấy, càng không biết sẽ kinh sợ tới mức nào.
Ngày hôm sau, Lạc Hàn thu dọn tư trang một lát, kiếm một bộ y phục trong túi da trên lưng lạc đà ra thay giặt, tắm rửa rồi mới lại dắt lạc đà lên đường. Hắn tựa hồ biết Cảnh Thương Hoài sẽ đồng hành, không rõ có phải xuất phát từ lễ độ không mà không cưỡi, chỉ dắt lạc đà đi bộ. Cảnh Thương Hoài cùng lên đường, trước sau cách Lạc Hàn mười mấy bước, hai người cứ thế đi không nói chuyện, một trước một sau. Đi cả một ngày, buổi trưa thì nghỉ tại quán hàng dưới gốc cây du, tối thì dừng chân ở Thạch Kiều.
Trấn Thạch Kiều rất nhỏ. Lúc này hai người họ đã ra khỏi An Huy, tiến vào địa giới Tô Nam. Dọc đường tới đây đã thấy được sự thay đổi khẩu âm. Thiếu niên dắt lạc đà đi trong phường chợ, tuy quái dị nhưng hắn cùng bách tính bản địa lại khá hợp nhau. Tuy ngôn ngữ không thông nhưng khoa khoa vạch vạch cũng giúp hắn tìm được chỗ tá túc. Ở con đường lát đá xanh trong trấn nhỏ này có một cái Quân An điếm.
Dọc đường, không ít trẻ con đuổi theo con lạc đà của Lạc Hàn, mãi không tha. Con lạc đà có vẻ bực bội, Lạc Hàn lại rất thân thiện với lũ trẻ. Có đứa nhóc to gan thi thoảng vươn tay sờ lạc đà một cái, sau đó cười vang, có vẻ sợ mà chạy tản ra. Kế đến, thấy lạc đà và Lạc Hàn đều không có phản ứng, chúng liền tụ lại. Con lạc đà đôi lúc nhìn qua Lạc Hàn, dường như không muốn nhẫn nại, nhưng sắc mặt Lạc Hàn vẫn như thường, không có phản ứng. Cảnh Thương Hoài thấy trong mắt con vật có vẻ muốn thở than, lẳng lặng nhẫn nhịn đám trẻ con, thuận theo ý của chủ nhân, mặc bọn nhóc cù gãi.
Tìm được khách điếm Quân An, Lạc Hàn moi ra bạc vụn, mướn một gian phòng. Cảnh Thương Hoài thấy hắn cướp bao nhiêu bạc, vậy mà chi tiêu lại không xông xênh, càng bất ngờ là, bấy giờ Lạc Hàn chợt quay đầu cười với hắn, nói câu đầu tiên kể từ ba ngày qua: “Ta không có nhiều bạc, không mời nổi huynh, huynh cùng ta ở cùng một phòng đi!”
Cảnh Thương Hoài sửng sốt, có cảm giác “được ưu ái mà sinh lòng kinh sợ”. Trước nay hắn chẳng ngại sự yêu ghét, cái cảm giác này, nghĩ mà thấy buồn cười. Căn phòng chỉ có một cái giường, Lạc Hàn bảo hầu phòng lấy cánh cửa ghép thành cái khác. Hắn không cần chăn nệm, Giang Nam đã vào tháng Mười một mà chỉ ngủ trơ trọi trên ván gỗ, cũng thật đơn giản. Bốn vách tường của gian phòng đều có dấu vết ẩm ướt, loang loang lổ lổ, kỳ hình dị dạng. Cảnh Thương Hoài thật chẳng ngờ có một ngày mình sẽ ở chung phòng với thiếu niên cô độc này.
Hai người ăn cơm tối, Lạc Hàn rửa mặt, nằm lên cái giường phản cứng xong mới nói câu thứ hai với Cảnh Thương Hoài. Đây là một câu hỏi: “Huynh tìm ta có việc gì?”
Cảnh Thương Hoài trầm ngâm một lúc mới nói: “Là Viên lão đại nhờ ta tìm ngươi, hắn muốn gặp ngươi một phen.”
Thật ra, chính Cảnh Thương Hoài cũng không rõ vì sao mình phải thay người ta chuyển lời này.
Lạc Hàn lãnh đạm nói: “Không phải ta đã bảo người chuyển lời cho hắn, mọi nợ nần sang năm mới tính sao?”
Cảnh Thương Hoài ngạc nhiên. “Cái ấy ta không biết.” Lạc Hàn nhất thời không nói gì, Cảnh Thương Hoài ngồi ở mép giường. Người trong tiểu trấn nghỉ sớm, bên ngoài đã rất yên tĩnh. Lạc Hàn không nói, Cảnh Thương Hoài dường như cũng không tìm ra lời gì để nói. Nghĩ một hồi, bèn cởi giày, kéo áo, nằm xuống giường. Nằm một lúc, cảm thấy người ngưa ngứa, mới phát hiện có bọ chét. Lạc Hàn không cần chăn vậy mà có lý. Cảnh Thương Hoài giết vài con, liếc mắt nhìn qua phía Lạc Hàn, liền thấy hắn nằm thẳng nhưng thật ra chỉ có xương hậu chẩm và gót chân là chạm mặt giường, toàn thân thẳng băng như bút lơ lửng, cách mặt giường một đường. Cảnh Thương Hoài giật mình, chưa từng thấy ai luyện công như thế, sau đó phì cười. Nhãn lực hắn tốt, vận đủ nhãn lực liền thấy toàn thân Lạc Hàn căng cứng, tới cả mặt cũng thế, thì ra trên cái giường nọ của Lạc Hàn cũng không phải không có bọ chét, trên tay hắn cũng có vài con, có lúc liền thấy lông mày Lạc Hàn giật một cái, rõ ràng là bị bọ chét cắn. Chỗ da lộ ra ngoài của Lạc Hàn đã có vài nốt đỏ, nhưng mấy con bọ chét cắn hắn cũng khổ, bởi đúng lúc bọn chúng cắn thì Lạc Hàn liền căng da, khiến chúng không rút miệng ra được. Hắn cũng thật trẻ con, không chịu lấy tay bóp, người cùng bọ chét cứ thế giằng co. Cảnh Thương Hoài cười thầm, mình từng này tuổi rồi mà chưa từng thấy trong võ lâm có “người - bọ đại chiến” thế này.
Lại nghỉ một lúc, Cảnh Thương Hoài thật không chịu nổi, đành ngồi dậy. Đèn dầu vẫn sáng, Cảnh Thương Hoài thấy Lạc Hàn nhắm mắt như đã ngủ rồi, liền búng ngón tay, dập ngọn đèn dầu. Ngoài cửa sổ, ánh trăng khẽ tràn vào, khiến Cảnh Thương Hoài có cảm giác đêm nay là đêm nào, trong lòng nhớ tới Tiểu Lục Nhi, còn cả... Sính Nương. “Sương thơm tóc mây ướt, trăng rạng tay ngọc hàn(1)” chính là nói về tâm cảnh vào thời khắc thế này chăng? Bọn họ giờ thế nào rồi? Có nhớ tới hắn không?
Đêm buốt trong như nước, chút lạnh lùng đó tựa nhớ mong nơi đáy lòng Cảnh Thương Hoài, giống vị trà, tuy nhạt nhưng là một phần quyến luyến với cuộc sống, không thể thiếu được.
Hồi lâu, Lạc Hàn chợt hỏi: “Rốt cuộc Viên lão đại là hạng người gì?”
Thì ra hắn chưa ngủ, Cảnh Thương Hoài muốn đáp lời, bèn suy nghĩ thật lâu. Hắn không tùy tiện đáp, đã có đáp án thì cần phải tường tận, bởi vì nó liên quan tới xung đột có khả năng xảy ra giữa Lạc Hàn và Viên lão đại, đây là một vấn đề can hệ tới sống chết.
Cũng may, Lạc Hàn có kiên nhẫn để chờ, mãi sau Cảnh Thương Hoài mới cất tiếng: “Hắn là cao thủ cả đời ta hiếm thấy. Năm nay hắn đã bốn mươi sáu. Thật ra hắn xuất thân cũng rất khổ, nửa đời sống trong loạn ly. Nghe nói, hồi nhỏ, vì trong nhà hắn có một hòn đá lạ, bị triều đình trưng dụng xây Hoa Thạch Cương, để chuyển hòn đá nọ liền hủy cả căn nhà của hắn. Trong cơn phẫn nộ, hắn bèn đi ra giang hồ, bái sư học nghệ nhưng rồi mấy lần bị đồng môn công kích, cũng vài lần bị ép phải phá môn mà đi. Nhưng hắn có tính kiên nhẫn trời sinh, mới đầu chỉ là tập luyện một môn Viên công kiếm tầm thường, vì có một chữ đồng âm với họ của hắn, vậy mà hắn đã mài giũa nó thành một bộ kiếm pháp tuyệt thế. Kiếm pháp hắn tự sửa đổi đó ta từng thấy qua, khi ấy Viên Thần Long mới hăm tư tuổi, có tài tình, có ngộ tính. Nhưng thứ đáng quý hơn mà hắn có là phách lực, là kiên nhẫn. Ta và hắn quen biết nhau vào năm Tuyên Hòa thứ bảy, chính vào lần đầu tiên quân Kim xuống nam. Khi ấy, võ nghệ của hắn chưa thành, nhưng thân đệ Viên Hàn Đình lại bị người Kim bắt đi, nghe nói hắn theo dấu nghìn dặm, mấy lần vào ra giữa mười vạn đại quân, vài phen đổ máu, còn một bận gặp phải cao thủ người Kim, thủ hạ của Tả tướng quân Kim Trương Tôn, trọng thương gần chết. Phải mất một năm hai tháng, hắn mới cứu được tiểu đệ mình từ trong tay người Kim. Cứu được rồi, hắn càng nỗ lực, dần dần lộ tài năng. Nhất kiếm tam tinh chính là bại trong tay hắn trong hai năm đó. Nghe kể, hắn lấy nghĩa khí kêu gọi, bấy giờ tụ tập được vài người, đó hẳn là tiền thân của cái bây giờ Mạc Dư gọi là Viên môn. Kể từ nạn Tĩnh Khang, ta nghe bảo hắn gia nhập đội quân của Tông Trạch, bởi tính tình quá cứng nên thăng giáng nhiều lần nhưng công lao hiển hách. Lúc Khang Vương qua sông, hắn theo hộ tống. Sau đó, quân Kim xuống nam, Khang Vương một dạo lao đao ngoài biển để tránh quân Kim, sở dĩ may mắn bảo toàn được tính mạng, công hộ vệ của Viên lão đại cùng một nhánh thân binh của hắn có thể nói là lớn lao, nhưng tới lúc triều đình mới ổn định lại, công lao của hắn lại mấy phen bị kẻ khác mạo nhận, Viên lão đại nhất thời chìm xuống hạng quan tép. Triệu Cấu một dạo bởi nghe gièm pha mà còn định phế bỏ Viên Thần Long. Nhưng hắn cũng không bỏ bê, trong giang hồ, thế lực của hắn dần bành trướng, lớp tay chân bắt đầu thành hình, lông cánh dần đủ, trong khoảng thời gian đó, hắn cũng có vài bận phục chức nho nhỏ. Một là giúp Lưu Kỳ tiễu phỉ dữ ở Tương Tây, thứ đến là phóng thích khách của người Kim, đều có được công lao. Triệu Cấu mãi không dám cách chức hắn hẳn, thực ra là vì sợ người trong giang hồ, lại thêm vẫn còn Tông thất song kỳ tồn tại nên vẫn không dám vứt bỏ Viên lão đại. Tới năm Thiệu Hưng thứ tám, có vùng nổi loạn, hắn thụ mệnh phục chức, chỉnh lại Đề kỵ, từ đây thế lực khuếch trương, đã phát là không thể thu hồi. Tới giờ, tin tức tình báo trong triều, việc truy bắt, xét xử, tất thảy đại sự an nguy, hắn đều được tham dự, có thể nói là quyền khuynh một đời. Từ đó về sau, Giang Nam thành ra cục diện ngày nay.”
Cảnh Thương Hoài nói rồi thở dài, hắn bất mãn với Viên lão đại, có lúc thấy Đề kỵ tàn bạo, hận không thể giết đi cho thỏa lòng. Có điều... hắn lấy mình ra mà xét: Nếu bản thân ở vào vị trí của Viên lão đại, bảo vệ triều đình lớn là vậy, quản thúc cho được những cự tộc cường hào nọ cùng muôn dân trăm họ, Cảnh Thương Hoài rất lấy làm nghi hoặc liệu bản thân có thể làm tốt hơn Viên lão đại không, hay là ngược lại, tiến lui sai lầm, khiến cho thiên hạ tan nát, hỏng bét tất tần tật?
Cảnh Thương Hoài thở dài, chính trị dơ bẩn có lẽ là bởi... con người dơ bẩn. Tuy điểm này Cảnh Thương Hoài không muốn thừa nhận nhưng hắn vẫn cảm thấy, mọi loại uy hiếp đều là bẩn thỉu. Bất đắc dĩ chính là, đời đời kiếp kiếp, từ lúc có con người tới nay, mọi người đều sống trong sự dơ bẩn, nhơ nhớp này, đồng thời uất ức mà sinh tồn dưới những hèn hạ và mưu mô, hy sinh và lợi dụng.
Lạc Hàn im lặng lắng nghe, không chen vào, đợi Cảnh Thương Hoài nói xong một lúc mới lại hỏi: “Võ công của hắn thế nào?”
Cảnh Thương Hoài chững lại, nhất thời không biết nên trả lời thế nào, chuyện này thật không tiện đánh giá, mỗi người mỗi khác, tiêu chuẩn của mỗi người không giống nhau, hắn không biết tiêu chuẩn của Lạc Hàn ra sao, liền cười, hỏi lại: “Theo ta nhớ, hình như hồi ở Giang Tây, ngươi từng bám theo ta, thấy ta xuất thủ, ngươi cảm thấy võ công của ta ra sao?”
Lạc Hàn “ừm” một tiếng, ngầm thừa nhận chuyện bám đuôi, nghĩ một lúc rồi đáp: “Cũng được.” Sau đó nói thêm: “Quá mức quy củ.”
Cảnh Thương Hoài chẳng ngờ hắn lại đáp như thế, không khỏi bật cười, lại nghe Lạc Hàn rất thật thà nói tiếp: “Luyện võ như thế sẽ rất mệt nhưng chắc chắn tinh thâm.”
Nghĩ một chút, Lạc Hàn lại thêm một câu: “Ta không chắc sẽ thắng được huynh.”
Tựa như chưa hết ý, Lạc Hàn nhìn ra ngoài song cửa, cuối cùng nói thêm: “Nhưng có lẽ ta có thể giết được huynh.”
Cảnh Thương Hoài trước lấy làm ngạc nhiên, sau thì hiểu ra: Giết một người với thắng một người là khác nhau. Có điều, hắn không ngờ Lạc Hàn sẽ nói thế. Hắn không thấy thế là ngỗ ngược mà ngược lại cảm thấy thiếu niên này thẳng thắn tới mức đáng yêu, bèn khẽ cười, nói: “Nếu án theo lời ngươi, vậy thì võ công của Viên lão đại không quá quy củ, thậm chí có thể nói là rất không quy củ.”
Khóe mắt đảo nhìn Lạc Hàn một cái, mặt thoáng có nét cười, hắn nói: “Nhưng hắn luyện võ hẳn cũng không thể không vất vả.” Trên đời này có thứ võ công không vất vả mà có thể tu luyện tới tuyệt đỉnh sao? Lạc Hàn ngươi luyện công không gian khổ chắc? Cảnh Thương Hoài cười khổ nghĩ: Chẳng qua phương thức lấy khổ làm vui của mỗi người khác nhau mà thôi.
“... Công phu của Viên lão đại rộng và sâu hơn ta, ta hơn được hắn, chỉ là hắn không như dạng ngu nhân như ta khổ luyện mà có được một chữ “tinh” mà thôi, nhưng võ công của hắn khá bá đạo. Hắn nhiều lần gia nhập danh môn, hiểu sâu nhiều loại quyền pháp, gần như võ học thiên hạ không gì là chưa từng ngó qua, cho nên cũng gần như có thể xuất chiêu không theo quy củ nào, khí thế tựa sóng lớn cuồn cuộn, biển cát ùn ùn. Ta chỉ có hồi trẻ từng thử thân thủ với hắn, đã hơn chục năm chưa gặp lại, nhưng võ nghệ của hắn khi đó, nghĩ lại vẫn khiến người ta kinh hãi.”
Nghĩ một chút, Cảnh Thương Hoài nói tiếp: “Danh gia trong giang hồ, đa phần mỗi người có tuyệt kỹ riêng, ví như ta, dựa vào Thông tí quyền, Khối lỗi chân khí và Hưởng ứng thần chưởng cũng coi như có chút tiếng tăm, nhưng Viên lão đại lại khác, sở học của hắn quá nhiều, tuyệt học mật kỹ các phái, các nhà hắn thường chẳng hỏi xuất xứ, cứ thế đem ra dùng. Hắn lại thường bận bịu chuyện công vụ, không có lòng dạ nào chỉnh lý sửa sang, cho nên chẳng ai biết hắn sở trường môn võ công gì. Nếu muốn gọi ra, chỉ có thêm vào cái tên “Viên thị” trước các loại quyền cước, khí giới của hắn, ví như Viên thị La Hán quyền, Viên thị Thái Bình đao, Viên công kiếm, Viên môn tâm pháp...
Ta cả đời ít phục ai, nhất là những người không cùng chí hướng, không đáng cùng mưu sự. Nhưng luận riêng võ công, nhắc tới ba chữ Viên lão đại, ta chỉ có thể nói ba lời bình: Bội phục, bội phục... cuối cùng vẫn là bội phục.”
Lạc Hàn lặng nghe, chẳng hề có cảm giác Cảnh Thương Hoài khoa trương. Hồi lâu, Cảnh Thương Hoài than thở kết luận: “Cho nên ta cũng không cung cấp được cho ngươi tư liệu gì liên quan tới hắn. Chỉ nghe bảo gần đây hắn có một môn tâm pháp tự sáng tạo, gọi là Ưu năng thương nhân, không biết ảo diệu trong đó ra sao. Ài, lại nói, với công phu của Viên Thần Long, thật sự đã tới mức có thể khai sơn lập phái rồi. Chỉ là việc hắn muốn làm trên đời quá nhiều, không rảnh đến thế, mà có rảnh đi nữa thì chỉ e cũng chẳng có hứng làm.”
Lạc Hàn nhất thời không nói gì, sau cùng mới hỏi một câu: “Vậy huynh cảm thấy võ công của ta thế nào?”
Cảnh Thương Hoài nghĩ ngợi, muốn nói nhưng lại không nói được rõ, nghĩ một lúc mới bảo: “Không dễ so, không dễ so. Ta cũng chỉ thấy ngươi xuất thủ một, hai lần mà thôi, mau lẹ, sắc hiểm, quả không phải người thường có thể bì kịp nhưng thứ cho ta nói thẳng, kiếm pháp của ngươi khí tượng không lớn, xuất thủ dường như vẫn có chút nhỏ hẹp.”
Câu này tựa như đánh thẳng vào lòng Lạc Hàn, từ đấy về sau, hắn một mực không nói gì, khiến Cảnh Thương Hoài hối hận, có phải mình nói thẳng quá không, nhưng cũng không tiện sửa lời. Thực ra, hắn đã xem Lạc Hàn là tiểu huynh đệ của mình. Chẳng qua là muốn làm đại ca của vị tiểu đệ này thật khó.
Sau đó, hai người lại tiếp tục đồng hành hai ngày. Nhân vì tạm thời không bận gì, Cảnh Thương Hoài dứt khoát đi cùng Lạc Hàn, xem hắn hành động thế nào. Chỉ thấy dọc đường Lạc Hàn vẫn chẳng nói chẳng rằng, tới lúc nghỉ trọ buổi tối cũng không hỏi Cảnh Thương Hoài điều gì. Tới đêm thứ hai, Cảnh Thương Hoài đang chìm trong mộng thì chợt nghe có tiếng mài kiếm, tỉnh dậy lắng nghe, tiếng vọng tới từ trên đầu. Hắn mở mắt, thấy Lạc Hàn đã không còn ở trong phòng nữa. Trong lòng hiếu kỳ, Cảnh Thương Hoài ra ngoài xem, thấy Lạc Hàn đang ngồi trên mái nhà, lấy ngói phòng hứng ánh trăng mà mài thanh đoản kiếm hai thước của mình.
Những đêm sau đó, Cảnh Thương Hoài cảm thấy, có lúc Lạc Hàn dường như cả đêm không ngủ, hoặc dùng ngón tay, hoặc dùng mu bàn chân, treo người lủng lẳng trên xà nhà, hoặc trên đại thụ ngoài cửa, luyện sức eo, sức chân của mình. Cảnh Thương Hoài thấy tư thế hắn khác lạ, cũng không biết xuất xứ môn công phu này của hắn, chỉ thầm ngạc nhiên.
Một đường này hai người họ đi về hướng đông. Chưa tới hai ngày, trên đường đã truyền tới tin Viên lão đại bất mãn với hành vi cướp tiêu giết quan, đả thương thân đệ hắn của Lạc Hàn, đã dẫn theo thủ hạ tinh binh tọa trấn Trấn Giang, thế ép Hoài Thượng, bảo nếu Lạc Hàn không ra sẽ tìm tới người nhận tiêu bạc là Dịch Bôi Tửu đòi giải thích. Lạc Hàn trước giờ đi đường toàn đi đường nhỏ nơi ven sông hoặc chỗ đồng hoang, ít người đi lại, mấy lời này đều do Cảnh Thương Hoài nghe ngóng được. Lạc Hàn nghe xong cũng không nói gì, chỉ là đi đứng càng lựa chỗ hoang vu hơn, không trọ ở khách điếm nữa mà trú nhờ trong nhà nông dân nơi thôn nhỏ vắng vẻ. Bởi hắn lựa đi đường vắng, dọc đường quả thật không gặp nhân vật giang hồ nào, càng không ai biết được hành tung của bọn họ, chỉ có tiếng mài kiếm hằng đêm của Lạc Hàn là càng lâu, càng dài.
Mấy ngày nay, giá lạnh ùa xuống nam, gió bấc lạnh căm căm, Cảnh Thương Hoài cũng cảm thấy áo quần mỏng manh. Đêm đó nghỉ chân, lúc nửa đêm, Cảnh Thương Hoài liền nghe thấy ngoài cửa loáng thoáng có tiếng kiếm phong. Mở mắt, liền thấy đèn dầu cạnh cái sạp của Lạc Hàn vẫn sáng, dưới đèn có một cuốn Kiếm thức tạp phổ giấy đã ngả vàng, chính là thứ mấy ngày nay lúc nhàn rỗi Lạc Hàn thường xem. Cảnh Thương Hoài đi tới cửa sổ, nhìn qua khe cửa ra bên ngoài, chỉ thấy trong sân nhà, giữa gió bấc, Lạc Hàn đang múa kiếm. Trông lên trên, bầu trời mây mờ trăng sáng, trải lên sân nhà khiến cả ngôi nhà cũng sáng.
Kiếm phong của Lạc Hàn nhanh, mạnh, trong tiếng “viu viu” của gió bấc vang lên tiếng “vù vù”, bỗng nghe Lạc Hàn thấp giọng ngâm rằng:
“Tạc tiêu yến khởi phong mãn đường,
Nhất thất xuyên sương đại phong trường.
Phong vu môn ngoại sắt hàn mộc,
Nhất liêm phốc tác Tí dạ trường.
Độc hữu nhất tử đương tây song,
Hoảng hoảng mộng tỉnh tâm mang mang.
Dục trì cổ quyền ủng khâm khán,
Hoàn nhiễu nhất đăng ảnh hôn hoàng.
Nại hà vật hữu kê thanh khởi,
Khởi trước giáp y xuất hành lang.
Bất vi biến dạ tầm tinh Đẩu,
Chỉ khủng tâm sự cửu đê ngang.
Ngã tức thiếu niên mộ lỗi lạc,
Thùy năng giáo ngã thản đang đang?”
(Đêm trước trời trong gió đượm nhà,
Buồng không hiên trống gió lùa qua.
Ngoài cửa gió cùng cây đàn gảy,
Mành lay le lắt khuya chửa qua.
Có người một bóng chốn tây song,
Hoảng hốt mộng tan mê man lòng.
Muốn cầm sách cổ ôm chăn đọc,
Lại thắp đèn khuya ánh loang loang.
Bỗng đâu vang tiếng gà gáy sớm,
Khoác áo ra ngoài dạo hành lang.
Chẳng vì đêm lạ tìm sao Đẩu,
Chỉ sợ việc lòng mãi ngổn ngang.
Ta gã thiếu niên ham lỗi lạc,
Ai người dạy được lòng thênh thang?)
Cảnh Thương Hoài muốn vỗ tay. Hay cho câu: “Bất vi biến dạ tầm tinh Đẩu, chỉ khủng tâm sự cửu đê ngang. Ngã tức thiếu niên mộ lỗi lạc, thùy năng giáo ngã thản đang đang?”. Đây chính là một thứ hào tình nửa đêm giật mình tỉnh giấc, múa kiếm trong sân bao lâu nay Cảnh Thương Hoài chưa từng thấy.
Ngày hôm sau, Lạc Hàn đi không lời từ biệt, hai ngày sau, Cảnh Thương Hoài nghe nói, cái ngày Viên lão đại ép lên Hoài Thượng, có bóng một thiếu niên dắt lạc đà thấp thoáng bên bờ Trường Giang cạnh Thạch Đầu thành. Cảnh Thương Hoài chỉ thấy huyết mạch căng ra. Trừ Lạc Hàn, trên đời còn ai dám một mình đón mũi nhọn của Viên lão đại?
Cảnh Thương Hoài cũng một đường đi về hướng đông, muốn xem trận quyết đấu không thể tránh này có kết quả thế nào. Trên đường, hắn trông mây trời ngày càng dày đặc, tích lại tầng tầng, thế đè xuống Giang Nam, một trường gió mây vần vũ chỉ sợ cũng sẽ phát sinh trên mảnh đất Giang Nam này rồi!