CHƯƠNG 1
Tránh họa

     goài Lâm An có huyện Dư Hàng,
Ở huyện Dư Hàng có Hảo Đăng lâu.”
Tam Nương Tử ngâm nga cười.
Trải tới thời Tống, tửu lâu đã trở nên cực kỳ phong phú và hoa lệ. Ở thời Tống, riêng Biện Kinh đã có hơn trăm tòa danh lâu. Nào là Bạch Phàn lâu, Hân Lạc lâu, Ngộ Tiên lâu, Thiết Tiết lâu, Khán Ngưu lâu, Thanh Phong lâu... tên đến là đặc sắc, các loại rượu nổi tiếng Ngọc Luyện Chùy, Tư Đường Xuân, Tuyết Du, Nội Khố Lưu Hương lớp lớp theo nhau xuất hiện tranh hương đua tiếng, tiếng lành đồn xa. Sau khi dời xuống phía nam, Khang Vương là Triệu Cấu kế thừa tật xấu của cha anh, lại càng tham nhàn hưởng lạc. Cục diện mới hơi yên ổn, chốn lầu các yên vũ trong thành Hành Châu các loại phấn hương ca múa lại lật mình đổi mới, khéo léo mà hưng thịnh trở lại.
Hảo Đăng lâu nằm trong địa giới của Dư Hàng, ngay cạnh phố lớn. Cửa lâu rất to, hai bên cửa có đặt hai cây xoa sơn đen sáng bóng, dùng để ngăn người ngựa lộn xộn ngoài đường, dưới lầu bày ba mươi tư chỗ ngồi, trên lầu đặt hơn hai chục ngăn gác, tất tật đều buông rèm xanh biếc, hoa văn rong tảo, từ cửa sổ giáp phố có thể nhìn thấy sông xanh núi biếc xa xa, quả nhiên là có chỗ hơn người.
Lúc này, gần đằng trái của cửa sổ có một cặp phu phụ trung niên đang ngồi. Người đàn ông thần thái hờ hững, hình dáng cao to, chỉ mặc một tấm áo dài bằng vải thô màu xám tro. Người phụ nữ mày liễu mắt hạnh, điềm đạm thanh lệ. Mọi người đều chú ý tới người phụ nữ đó, thấy nàng chỉ vận một tấm áo ngắn tay, một chiếc quần màu lam, đầu cài thoa gỗ, mặt không phấn son, nhưng thanh tao tự nhiên, nói cười cao nhã.
Cả hai đều đã ba lăm, ba sáu. Chỉ nghe người phụ nữ đó cười mà nói rằng: “Ngạo Chi, chàng có biết trên Hảo Đăng lâu này từng có đôi câu đối nổi tiếng không?”
Người nam nọ “ồ” một tiếng, ngước mắt nhìn sang Tam Nương - hai người này chính là vợ chồng Thẩm Phóng và Tam Nương Tử, vì liệu trước được tai ương nên đã lánh khỏi phủ Trấn Giang. Người vợ này của Thẩm Phóng tên gọi là Tam Nương Tử - nói ra thì đoạn nhân duyên giữa hai người cũng có chút li kỳ, có điều đó đã là chuyện của mười năm trước - Thẩm Phóng trước nay rất kính trọng thê tử, giờ không khỏi nghiêng tai nghe nàng nói.
Chỉ thấy Tam Nương Tử kể: “Thiếp nghe vị tiên sinh kể chuyện có nói, danh lâu trong thiên hạ truyền đời tổng cộng có ba mươi sáu nơi, Lâu Ngoại lâu ở Lâm An, Nhạc Dương lâu ở Động Đình, Ngũ Nhàn lâu ở Kim Lăng, Phàn lâu ở Biện Kinh, Tây lâu ở Tương Dương, lại thêm Hảo Đăng lâu nơi đây được mệnh danh là sáu tòa lâu trung chi lâu. Mấy tòa lâu khác bởi đâu được xưng là danh lâu thì thiếp không biết, nhưng cái sự thành danh của tòa Hảo Đăng lâu này chỉ e là nhân một câu chuyện.”
Thẩm Phóng lại “ồ” tiếng nữa, hắn biết tuy Tam Nương là phận nữ nhưng kiến văn rất rộng, mà trước nay hắn cũng thích nhất là nghe nàng kể chuyện, tuy đều là thứ không ghi trong chính sử nhưng lại rất sống động.
Lại nghe Tam Nương cười, nói: “Hồi mấy năm đầu nam độ, Tập Hiền điện Thị Chiếu học sĩ là Hồ Thuyên phụng mệnh xuất hành, có đi ngang qua lâu này. Hồ học sĩ nọ là một tay hay chữ, con người chính trực, một bụng học vấn ấy có thể xem là không ai không biết. Hôm đó dừng ngựa nghỉ ở đây, vừa vặn tửu lâu này khai trương chưa lâu, chủ quán rất mực ân cần hầu hạ, đã chuẩn bị rượu ngon mực tốt, định mời ông thừa hứng mà đề chữ lại đây. Hồ học sĩ độc ẩm hai chén rồi cũng chấp nhận lời thỉnh cầu của chủ quán, chính lúc đang ngưng tâm sắp hạ bút thì chợt nghe dưới lầu ồn ào một trận, quay nhìn xuống dưới thì thấy từ cửa tiến vào một vị tướng quân uy dũng phi phàm, mắt ưng hàm én. Hồ học sĩ chăm chú nhìn vị nọ, không khỏi mừng rỡ, vội sai chủ quán mau mau đi mời. Vị tướng quân kia lên lầu, Hồ học sĩ liền múa bút như bay, nét bút đê mê, độ mực vừa đủ mà viết hai chữ lớn “Vui lắm(1)”! Vị tướng quân kia nhìn chữ của ông rồi lại nhìn cái dáng nhỏ người mà chắc nịch liền biết chính là quan ngự sử có tiếng đầu sắt Hồ Thuyên”. Ngừng một chút, Tam Nương cười hỏi: “Tướng công, chàng đoán xem vị tướng quân đó là ai?”
Thẩm Phóng nghĩ ngợi, Hồ Thuyên là danh thần một thời, chính trực thanh liêm đến mức kẻ quyền thế không ưa, cuối cùng treo mũ mà đi, đương thời tuy quan lớn vinh hiển đầy triều nhưng tướng quân mà lọt được vào mắt xanh của ông hẳn cũng chẳng quá một, hai vị, thế là chấm chấm ít rượu, viết lên bàn một chữ “Phi”. Người mà hắn muốn nêu họ Nhạc tên Phi, tự là Bằng Cử, từng làm quan đến chức Thái Tử thiếu bảo, đáng tiếc về sau bị gian thần Tần Cối hãm hại, thiên hạ nghe tin ai nấy đều tiếc thương. Tam Nương cúi đầu cười ngất rồi nói tiếp: “Hồ học sĩ gặp được ông ta liền quên việc viết chữ, hai người lại ngồi với nhau, chén rượu qua lại, bàn việc cả thiên hạ, cực kỳ vui sướng. Sau cùng, lúc sắp chia tay, Nhạc Tướng quân thấy tay chủ quán nọ nhăn nhó mặt mũi, tựa hồ có chỗ không thoải mái, bèn hỏi han một chút thì mới biết hóa ra là hiềm lưu lại có hai chữ thì quá ít, không đủ thành bức. Nhạc Tướng quân nhìn hai chữ đại tự mà Hồ học sĩ viết, vuốt râu cười lớn, nhấc bút lên, cũng lưu lại hai chữ đại tự nhưng là thành một bức đối xảo diệu tự nhiên, hợp cảnh hợp tình! Hồ học sĩ trông thấy, không kìm được cũng “ha ha” cười lớn, tiếp đó hai người chia tay, rời đi. Tướng công, chàng đoán coi hai chữ hạ liễn Nhạc Tướng quân lưu lại nên là chữ nào?”
Thẩm Phóng trầm ngâm. “Thế này thì biết đoán từ đâu? “Vui lắm“, “Vui lắm“...”
Tam Nương Tử mỉm cười. “Sướng thay!”(1)
Thẩm Phóng vừa nghĩ, chợt không kìm được mà vỗ tay hô: “Sướng thay!”, lấy “vui” đối với “sướng”, lấy “lắm” đối với “thay”, hư thực ứng nhau, đích xác là một cặp đối khéo léo xảo diệu, hai người nhìn nhau vui vẻ, từ bốn chữ này nghĩ về cảnh hai vị văn võ ngày đó đàm luận sảng khoái. Tam Nương Tử tiếp lời: “Chủ quán khôn khéo, liền đem khắc bốn chữ đối liên ấy treo lên trên lầu, ý nghĩa cũng hợp, vừa vặn là giọng chủ khách tiếp mời rượu nhau, ai mà không ngắm! Từ đó thanh danh tòa Hảo Đăng lâu này liền cất cánh bay xa.” Nói rồi lại thở dài. “Mấy năm nay, trong triều đình của chúng ta, thực sự làm được hai câu “quan văn không yêu tiền, quan võ không tiếc mạng” cũng chỉ có riêng hai vị ấy thôi, bảo sao người sau tưởng nhớ lại không khỏi khâm phục mà tôn kính cho được?”
Thẩm Phong nghe nàng kể một đoạn chuyện cũ thú vị, không khỏi châm đầy một chén rượu, uống cạn một hơi, cười hỏi: “Đôi đối liên ấy đâu rồi?”
Hai vị Hồ, Nhạc đều được tôn xưng là danh gia thư pháp thời Tống, Thẩm Phóng mê mẩn cái món này, không kìm được truy hỏi. Tam Nương thở dài, nói: “Về sau, hai vị đó, một người treo mũ bỏ nước, một người bị tội thân vong, đều chẳng được Tần Thừa tướng dung tha. Còn Tần Thừa tướng ở đó, tửu lâu này làm sao treo chữ của hai vị đó được? Không bị thu thì cũng bị đốt rồi.”
Sắc mặt Thẩm Phóng lại trở nên âm trầm. Lần này, hắn và Tam Nương tha hương tránh nạn, cũng là vì nghe phong thanh Hoàng thượng với Thừa tướng trên triều cực kỳ bất mãn với bài từ đề ở Trường Kiều, Ngô Giang, đang ngấm ngầm chiếu hỏi. Bài từ ấy tuy chẳng phải hắn viết nhưng Thẩm Phóng tự biết chỉ e bản thân khó mà được hôn quân, gian thần dung tha. Cái ấy gọi là ba người bảo trên chợ có hổ, có trăm cái miệng cũng chẳng cãi được, huống chi Thẩm Phóng cũng chẳng thèm biện bạch, chỉ cùng Tam Nương lẳng lặng rời khỏi Trấn Giang, tránh họa lén đi. Tam Nương Tử cũng vì thấy tâm tình hắn không tốt, mới cố ý kể câu chuyện cũ, gợi cho hắn vui vẻ, nào ngờ cuối cùng vẫn chẳng tránh được tâm trạng xấu đi.
Huyện Dư Hàng nằm ven phủ Lâm An, cách kinh thành không quá ba, bốn chục dặm, nếu phi ngựa thì quất roi một cái là tới. Đúng là ngay dưới chân thiên tử thì không như bình thường được - phố phường đông đúc, người với cảnh đều đẹp, năm phố mười ngõ, cây du cây liễu trong sân ngoài cửa. Lại thêm sớm nay mưa tạnh, người tới chợ, kẻ đi đường, quán xá hàng rong, đều muốn tận dụng buổi nắng đẹp hiếm gặp này, trên phố bởi thế lại càng tấp nập, một khung cảnh thái bình.
Thẩm Phóng nhìn ra ngoài cửa sổ, phủ Trấn Giang quê nhà của họ tuy cũng là một trấn lớn nhưng nằm ở biên giới, những năm nay, binh hỏa liên miên, bây giờ đem so với cái huyện nho nhỏ này, sự thua kém hiện lên rõ rệt.Vốn dĩ biên giới giữa Tống - Kim nên ở một dải sông Hoài, nhưng triều đình sớm đã buông bỏ vùng Giang Bắc, trong lòng chỉ lấy Trường Giang làm giới tuyến, lấy việc phòng thủ Trường Giang làm trọng, thế là phủ Trấn Giang trở thành nơi trọng địa để đóng binh. Thẩm gia vốn là gia tộc lâu đời ở Trấn Giang, tới đời Thẩm Phóng, tuy dòng tộc chưa suy nhưng dù sao cũng là sau cơn loạn lạc, tình cảnh so với ngày cũ đã kém đi nhiều rồi. May là Thẩm Phóng trời sinh tính tình thông đạt, chẳng giống như hủ nho thông thường, không hề vì gia cảnh suy vi mà lung lay. Hắn thích đọc sách nhưng cái học kinh truyện thì chỉ biết đại khái, còn như các loại tạp vụ kiểu gạo tiền binh lược lại có chút để tâm. Trải một phen nghĩ ngợi bèn cố ý dừng lại chốn phồn hoa ven kinh kỳ này. Trước khi triều đình chạy xuống phương nam, hai vua Huy, Khâm nay đã bị người Kim bắt đi kia rất lãng phí, xa xỉ, tô thuế thu một năm cũng không quá sáu nghìn vạn quan(1); không ngờ sau khi xuống phương nam rồi, đất đai đã mất đi già nửa, nhân khẩu lưu lạc quá bán, tô thuế triều đình trưng thu một năm ấy thế mà lại lên tới tám nghìn vạn quan, đủ để thấy được sự hà khắc trong việc trưng thu. Cái gọi là phồn hoa, cũng thật giống với lời Tam Nương: thỏ không ăn cỏ gần hang mà thôi.
Tam Nương đang đánh giá quy mô của tửu lâu này. Bởi hiện còn sớm, người ngồi trên lầu uống rượu không nhiều, khách đến phần lớn cũng là để giết thời gian với giải khuây, món gọi lên đa phần đều là món ăn nhẹ. Trước lan can gỗ chỗ cầu thang quẹo lên lầu đang đặt một cái ghế băng dài, ngồi trên đó là một lão mù đánh đàn tam huyền, tiếng “y y a a” từ xa văng vẳng, còn cả một tiểu cô nương đứng bên cạnh, hai người đang thuyết thư - kể chuyện Ngô Việt xuân thu. Tam Nương Tử dời ánh mắt, nhìn về hướng khác, chỉ thấy ngồi ở đầu đông là một vị lão nhân râu tóc hoa râm, người mặc một tấm trường sam có hình ngũ phúc đoàn thọ, một tay móng để cực dài, đang nhè nhẹ gõ xuống bàn, lại một chỗ khác, hình như có hai vị quan võ, xem ra có vẻ như vào kinh làm việc, ngẫu nhiên đi qua mới vào uống một chén, còn những người khác đều có vẻ rảnh rang. Tam Nương Tử khẽ thở ra một hơi, nàng không thể không cẩn thận một chút, Thẩm Phóng trời sinh tính tình phóng khoáng, lại là thư sinh, trước giờ chẳng chú ý tiểu tiết, mà cũng chưa từng gặp phải chuyện gì hiểm ác, hắn như chẳng hề xem lần trốn tránh này đáng nghiêm trọng, Tam Nương thì lại biết, cái họa mà bài từ ở Ngô Giang kia có thể đem tới rốt cuộc lớn nhường nào, mức độ quan trọng của lần trốn chạy này thật sự tới mức nào. Nàng biết năng lực của bọn ưng khuyển truy đuổi kia. Vừa nghĩ tới đây, trong lòng không khỏi hơi khổ não, nghĩ: Lẽ nào sau mười năm, số mệnh đúng là muốn ép nàng một lần nữa phải dấn thân vào giang hồ sao?
Lúc ấy, từ chỗ ngồi cạnh cửa sổ phía đối diện chợt vang lên một giọng nói sang sảng mà thô kệch, rằng: “Không nói cái lũ trồng chè(1) này ngu ngốc thì còn nói thế nào nữa! Làm phản thì cứ làm phản đi, lại còn nói xằng “phù Tống kháng Kim”. Mẹ kiếp, nói ra câu này mà cũng không sợ rụng mất lưỡi. Kháng Kim vốn là chuyện của triều đình, cần bọn chúng lo hộ sao? Mà quả thật, cái hội trà phỉ(2) này thực sự muốn từ mạn Hoàng Cương vượt sông lên phía bắc, xem ra đúng là heo tắm dầu sôi, não thối rồi, định đi kháng Kim thật! Bị Lã phó soái một phen phục binh, đứa chết đã chết, đứa chạy đã chạy, tan tành cả, cuối cùng còn được mấy chục đứa mà vẫn qua sông. Mẹ kiếp, bọn chúng tới cả quân Tống cũng đánh chẳng lại, còn bảo cái gì mà kháng Kim? Quân Kim dễ chống thế hả? Năm xưa tứ đại nguyên soái đánh trên mười năm, cuối cùng chẳng phải vẫn nhờ vào Tần Thừa tướng của chúng ta hòa đàm sao?... Kháng Kim? Đi chết đi!”
Giọng gã rất lớn, mọi người xung quanh nhất loạt nhìn về phía có tiếng nói, chính là từ hai quan võ đang ngồi cạnh cửa sổ nọ. Chốn tửu lâu trà điếm vẫn luôn là nơi tin tức nhạy bén, mọi người sớm đã nghe nói nửa năm nay, vùng Hồ Bắc xuất hiện một vị trà phỉ lợi hại, tên là Vương Hưng, hiệu triệu trung nghĩa, nhờ vào buôn trà mà giàu có, kêu gọi vô số nhân vật liều mạng, dần trở thành mối lo lớn trong lòng triều đình. Vị tham tướng này xem ra tới từ doanh trướng của Tuần phủ sứ Hồ Bắc Lã Duy Tài, không biết vào kinh có công vụ gì. Gã vừa mở miệng, người trên lầu liền không kìm được vểnh tai lắng nghe, nhưng lời này của gã cũng khiến chúng nhân trên lầu ngầm nhíu mày. Khi ấy, Tống triều vì vơ vét mồ hôi nước mắt của dân, định ra luật chuyên buôn trà phải chịu tô thuế cực nặng, khởi nguyên của trà phỉ chính là có một đám dân đen không chịu nổi khổ, đổi sang làm nghề buôn trà, len lén buôn lậu kiếm lợi, về sau xuất hiện đầu lĩnh Vương Hưng, gặp phải áp bức của quan binh liền tụ tập tạo phản. Trên lầu phần đông là đám dân ngoan của triều đình, tham an sợ họa, nghe thấy dân buôn trà tạo phản đã bị bình định, trong lòng thở phào một hơi, nhưng nghe thấy kẻ kia coi rẻ bốn vị tướng thuở trung hưng, ca tụng Tần Cối, có cái gọi là công đạo tự trong lòng người, trong lòng ai nấy đều cảm thấy bất bình. Kẻ vừa nói ăn vận theo chức tham tướng, dung mạo thô xấu, cử chỉ tục tĩu, trông thấy không ít người để tâm tới lời của mình thì không khỏi đắc ý, lại do trên lầu nhìn có vẻ như không có nhân vật nào xuất sắc, tất cả đều do hắn khơi gợi triển khai, không kìm được liếc quanh mà tự hào, huênh hoang lớn giọng, tên tì tướng ở cạnh cũng hùa vào tâng bốc gã, khen gã liều thân sa trường, chém người không đếm xuể, gã tham tướng kia cũng tự cho mình là hào hùng, chẳng bao lâu, hai người đã nói tới mức nước bọt tung hoành, hứng chí lắm rồi.
Lại nghe gã tham tướng nói: “Lần này đại soái phái ta về, Tần Thừa tướng khẳng định sẽ bẩm báo Hoàng thượng, ban thưởng trọng hậu. Lã đại soái của chúng ta lần vừa rồi đột xuất kỳ binh, chém được hơn một vạn sáu ngàn cái đầu, thiết nghĩ năm xưa, Nhạc Phi đại phá thủy trại của Dương Yêu ở hồ Động Đình, giết được còn chưa tới một phần mười lão gia tử của bọn ta, thế thì tính là phá giặc cái quái gì? Lã đại soái đã được Tào ngự sử gật đầu rồi, vừa có được quân công một cái liền có thể tiến cử, xem ra lần này có hy vọng lên chức rồi. Ha ha, huynh đệ ta cũng chẳng khỏi ăn theo mà đắc đạo, gà chó lên giời! Há há há!”
Người trên lầu nghe đã đủ hiểu gã chẳng thông văn chương, dùng thành ngữ chẳng ra thể thống gì, không khỏi cười trộm một cái. Lão nhân bên cạnh lại làu bàu: “Chém hơn một vạn sáu ngàn cái đầu? Trà dân tạo phản làm gì mà lắm thế được? Chẳng biết lại có bao nhiêu dân lành bất hạnh oan mạng dưới cương đao, chết chẳng toàn thây, đầu bị chặt xuống nộp thành trà phỉ giả mạo công lao đi lĩnh thưởng.” Người nói chính là lão nhân mình mặc trường sam có hình ngũ phúc đoàn thọ. Phân nửa số người trên lầu đều nghe thấy, gã tham tướng kia giận dữ nói: “Lão... ông già, ông nói bậy bạ cái gì đấy... Cái gì mà giả mạo công lao lĩnh thưởng, ông trông thấy à?” Gã vốn định quát là “lão nhà quê”, nhưng vì thấy lão nhân nọ mặc trường bào bằng lụa, thái độ nhàn nhã, giống như một vị viên ngoại ẩn cư, mới đổi thành “ông già”, cách xưng hô dễ nghe hơn một chút. Hắn đảm chức hàm phó tướng, phận vị không thấp nhưng ở nơi ven kinh thành này cũng không dám làm bậy.
Lão nhân kia nhìn gã một cái, lại thở dài, thiện ý nhắc nhở: “Một vạn sáu ngàn thì một vạn sáu ngàn đi, chỉ là vị quân gia ngài ở tửu lâu này đừng nên nói loạn nói ẩu, xúc phạm tới Nhạc Tướng quân, trên lầu này từng thờ bút tích của Nhạc Tướng quân đấy. Nhớ năm ấy, Nhạc Tướng quân đại phá thủy trại ở Động Đình là dùng trí mà đánh, không phải dùng sức mà chiến, với lại trong thủy trại phần đông là người có lòng trung nghĩa, Nhạc Tướng quân cũng bởi tình thế nước nhà mà không thể không làm, lại còn thu được viên mãnh tướng Dương Tái Hưng, về sau một trận sông Tiểu Thương, danh vang thiên cổ. Đương thời, Nhạc Tướng quân giết người tuy ít nhưng lập công cực lớn, thu nạp được một đạo giặc phỉ, đưa tới tiền tuyến kháng Kim giết địch, bảo quốc an dân, quay về nẻo chính, như thế chẳng phải còn tốt hơn nhiều so với giết sạch sành sanh sao? Đỗ Tử Mỹ(1) có thơ rằng: Chặn được thế giặc mạnh, há bởi chém giết nhiều(2), người xưa nói thật hay, nói thật hay!”
Gã tham tướng nghe lão nhân khoe văn, không đáp nổi, nghĩ chẳng có gì hay, liền lầm bầm: “Hay quái gì? Hừ, ở tửu lâu này thì đã sao? Lão đây xung phong hãm trận, có gì chưa thấy qua, cho dù có mắng họ Nhạc nọ mấy câu, hắn là kẻ chết rồi, còn có thể dọa lão đây rụt vòi chắc?”
Đây cũng có thể xem là lời xuống thang đấu dịu, người xung quanh chẳng ai đếm xỉa đến, ai ngờ một thư sinh tuổi chưa tới ba mươi bên cạnh lại nghe không thuận tai, lạnh lùng đáp rằng: “Dọa ngươi rụt vòi lại? Hà hà, như thế rốt lại rất không cần thiết, mà cũng quá bẩn thỉu rồi, chỉ có điều, cái đầu của các hạ ngài cần phải cẩn thận một chút.”
Gã tham tướng đang đầy một bụng tức, thấy thằng nghèo kiết kia cũng dám trêu mình, bèn đập bàn chửi: “Vòi của lão tử lại bẩn hơn vòi của tú tài mày sao? Lão tử chẳng phải thỏ(3), cần da mỏng thịt mềm làm cái gì? Trông cái tướng mày cũ kĩ tới mọc mụn, làm sạch vòi rồi cũng không giương nổi cung, phóng nổi tiễn, gieo không được giống, còn chẳng phải đồ bỏ sao!”
Người Giang Nam phần lớn nói năng điềm đạm, đẹp đẽ, ý tứ, thái độ nhã nhặn, nghe thấy gã mắng chửi lung tung một hồi, lời thì thô lỗ chẳng quản lý lẽ, người trên lầu không làm được cười lớn một trận. Thư sinh kia tức tới đỏ bừng mặt, cất tiếng cười lạnh, bực dọc nói: “Vị quân gia này thật cường hãn lắm, không biết là cậy vào uy thế của ai vậy? Tào ngự sử à? Lão cũng đủ cuồng ngạo đấy! Chỉ không biết đem so với vị Đề kỵ đô úy Phùng Tiểu Phì Tử thì như thế nào? Hà hà!”
Tham tướng trừng mắt, đang định phát hỏa nhưng thấy thư sinh nọ vừa dứt lời, người trên lầu đột nhiên im bặt, người cùng bàn thì anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, ai nấy đều mang vẻ mặt kỳ quái mà thì thầm với nhau, tựa như có chuyện gì bí mật lắm. Gã tham tướng cũng từng nghe tới vị Phùng Tiểu Phì Tử này, hắn là con trai của Phùng Thị lang trong kinh, Phùng Thị lang bởi bái làm môn hạ của Tần Cối, quyền thế đang lúc vượng, ông con trai chẳng được tích sự, chỉ giỏi bài bạc, chè chén của lão cũng được ăn ké ơn huệ mà tên được liệt vào “Đề kỵ Tam thập nhị vệ”, có thể xem là kẻ bất tài nhất trong Tam thập nhị vệ. Phùng Tiểu Phì Tử này nổi danh là có ba nhiều ba ít: Lâu la nhiều, cha nuôi nhiều, mẹ hờ nhiều, lông mày ít, râu ria ít, gia giáo ít. Nhà cũ của hắn ở huyện Dư Hàng, đất rộng nghìn khoảnh, lầu cao điện gác lắm, vốn là bá chủ ở địa phương, là một ông vua con nổi tiếng “con rùa hủi đầu vòi hỏng(1)” ai ai cũng sợ, có thể nói là tai họa một vùng.
Lão nhân ban nãy mở lời giờ cũng thiện ý khuyên nhủ: “Chẳng phải người trên lầu phải nói năng cẩn thận một chút sao? Hai tháng trước, Phùng Tiểu Phì Tử nọ cũng ở lầu này uống rượu, tuổi trẻ thích ồn ào, mang theo hai mươi mấy kỹ nữ với nhạc sư, xum xoe tíu tít, đàn ca hát xướng, nói bừa nói ẩu, mắng chửi chẳng chút kiêng kỵ, quậy tới chướng khí tối mù. Lúc ấy cũng có người khuyên bảo, nói ở lầu này từng thờ bút tích của Hồ học sĩ và Nhạc Tướng quân, thời buổi bây giờ nói năng nên cẩn thận một chút, có kiêng có kỵ, không nên làm bừa, tránh điều đụng chạm. Phùng Tiểu Phì Tử nọ cười nói: “Kiêng kỵ? Người thường không kiêng kỵ ta thì xem như hắn đen đủi rồi, từng thờ mấy chữ thì làm sao? Cho dù ta có sợ hắn là sợ tướng quân sống, giờ còn sợ tướng quân chết như hắn sao? Đương thế khiến ta sợ chẳng qua cũng chỉ có “ba sợ” mà thôi!
... Mấy đứa thích nịnh bợ hắn thừa cơ vỗ mông ngựa, thuận đà mà nịnh, hỏi: “Thì ra thiếu gia cũng có ba sợ, thiếu gia còn sợ ba cái gì? Khiến thiếu gia phải sợ, chẳng phải là thiên vương lão tử à?” Phùng Tiểu Phì Tử cười lớn, nói: “Ba sợ này ấy à, chỉ e chẳng phải mình ta mà ai ai cũng phải sợ. Thứ nhất là người Kim, một ngày nào đó, bọn họ trở mặt vượt sông, nhà cửa, tính mạng ai nấy đều khó giữ, ai dám không sợ? Đến đương kim Thánh thượng cũng sợ nữa là. Thứ hai, phải tính tới Tần Thừa tướng rồi, ngài quyền cao chức trọng, trên đời này còn ai dám không sợ ngài! Hoàng thượng cũng phải kính ngài ba phần đấy thôi. Thứ ba ắt là Viên lão đại của bọn ta, hà hà... Cái thứ ba này, thật ra ta cũng chỉ sợ hắn nửa phần nhưng một thân võ công, một gan đảm lược ấy của Viên lão đại, thật xứng là thiên hạ đệ nhất, đây là được Thánh thượng đích thân khen, khiến người ta không khâm phục không được. Trừ ba người này thì là cha mẹ lão tử, còn lại trên dưới một đám tạp nham, ta sợ thế nào đây?” Nói đến độ đắc ý, hắn bèn nhấc chiếc chén ngọc bích mà cao giọng lớn tiếng: “Ở cái đất Dư Hàng này, lão tử sợ ai? Ai dám giết ta?”
Người trên lầu nhớ lại, cũng từng phong thanh nghe tới việc này nhưng không ngờ lão nhân biết tường tận tới mức này, không khỏi vểnh tai lắng nghe. Lão nhân kia uống một ngụm rượu rồi nói tiếp: “Hắn lớn tiếng lắm, hôm ấy lão hủ tôi ngồi ở quán trà Hằng Ký đối diện, đang thưởng thức loại trà Vũ Tiền mới, nên nghe được hết.”
Nói rồi chỉ ra ngoài, quán trà Hằng Ký nọ nằm chênh chếch đối diện bên kia phố, cách tương đối xa, có thể tưởng tượng được phong thái rất mực đắc ý của Phùng Tiểu Phì Tử. Lão nhân nọ tiếp lời: “Lúc bấy giờ, Phùng Tiểu Phì Tử đắc ý lắm rồi, còn lặp đi lặp lại câu ấy ba lần, nói xong lần cuối, hắn nhấc chén, còn chưa kịp uống, lúc mới nhấc ngang cổ họng thì nghe thấy có tiếng nói: “Ta dám giết ngươi!”
Người trên lầu đều cả kinh, tiếng nói đó không to, chỉ nhàn nhạt bình bình, nhưng phảng phất như khua vàng gõ ngọc, lạnh tựa băng giá, đâm thẳng vào lỗ tai. Toàn bộ mọi người trên dưới lầu đều nghe rõ mồn một, kể cả người đi ngoài phố cũng có kẻ nghe ra, bấy giờ trên dưới trong ngoài lầu có không dưới hai trăm người. Khách trên lầu chỉ thấy loáng thoáng bóng người, tựa hồ có dáng thiếu niên eo gầy, lưng thon trong bộ y phục màu đen chợt hiện rồi chớp mắt lại không thấy đâu nữa, không ai nhìn rõ. Về sau, nghe tiểu nhị bảo người đó vốn là một vị khách ngà ngà say gục trên bàn, nhưng không nhớ rõ được dung mạo người đó, hình như là một nam tử tuấn tú lắm. Mấy đứa tùy tùng của gã Phùng Tiểu Phì Tử kia đều ngoác miệng chửi, nhoài ra phía cửa sổ tìm người kia, người xung quanh chỉ cảm thấy lạ, sao bỗng nhiên Phùng Tiểu Phì Tử lại trở nên khách khí thế... không hề đập chén chửi thề, đòi đánh cái thằng quỷ sứ hung hăng kia một trận, mà còn híp mắt cười, uống rượu tiếp? Được một lúc, chúng nhân mới phát hiện có điều không ổn, chỉ thấy đầu gã từ từ gục xuống, sau đó rượu trong ly bắt đầu nghiêng đổ, cuối cùng mới nhận ra một đường máu tí tách nhỏ xuống từ cổ họng gã, nhìn kĩ lại, thì ra cổ họng gã đã bị kiếm sắc xuyên thủng, đường kiếm đó xuyên qua chén phỉ thúy trong tay gã, đâm thủng cổ họng, trên chiếc chén chỉ lưu lại một lỗ mà không hề nứt vỡ. Mọi người trên dưới lầu chỉ thấy loáng thoáng bóng người, không ai trông rõ hình hài. Nếu đúng nhát kiếm đó là do người đâm thì quả thật đúng là quỷ thần, làm gì có người nào bản lĩnh lớn bằng ấy? Mà ngài nói xem, đã từng thấy ai một kiếm đã có thể xuyên thủng chén phỉ thúy chưa? Sau đó, Trịnh sư phụ của Tam Nghĩa tiêu cục mà bổ khoái phố này mời tới cũng nói, đấy tuyệt không phải là võ công... đó chẳng phải là âm linh của Nhạc Tướng quân thì còn là gì nữa?
Sau cùng, bổ khoái cũng từng đem những kẻ chứng kiến từ đầu đến cuối giữ lại thẩm vấn, chỉ nghe người dưới lầu nói, lúc bấy giờ loáng thoáng nghe được có tiếng cười lạnh, chẳng thấy người đâu, về sau, có vị quan binh trấn thủ cổng thành nói thấy thấp thoáng có một con vật kỳ hình dị dạng chẳng biết là ngựa hay la, chở một người nọ dần đi xa, mơ hồ có chút quái dị.”
Mọi người đều nghe hết cả. Lão nhân kia lại nhấp ngụm trà rồi hướng tới gã tham tướng nọ, nói: “Cho nên lão già này mới khuyên quân gia người nói năng nên cẩn thận một chút. Việc trên lầu này phân nửa không phải là giả, không tin, ngài ra ngoài hỏi thăm, nghe ngóng xem, người trong cái huyện Dư Hàng này đều biết cả, Phùng Thị lang hiện vẫn đang lo việc tang đấy!”
Tham tướng kia tuy thô lỗ nhưng loại người này cũng cực kỳ kính thần sợ quỷ, miệng há lưỡi đơ chẳng nói nên lời. Gã thư sinh ban nãy vẫn hậm hực với hắn, “hừ” lạnh một tiếng, trả tiền rồi rời đi. Đi tới chỗ xuống cầu thang lại dừng một chút, lầm bầm một mình: “Tào ngự sử trong kinh kết giao với phiên tướng, hay! Hay lắm!”
Thẩm Phóng trước nghe lời lão nhân, thấp giọng nói với Tam Nương: “Cái con vật mà ông ta nói sao mà giống hệt thứ ta gặp chỗ Trường Kiều ở Ngô Giang vậy!” Tam Nương không đáp lời mà chỉ khẽ gật đầu, tay kéo kéo hắn, ám thị hắn đừng nói tiếp nữa. Lão nhân nọ đợi thư sinh kia đi xa rồi mới nói tiếp với tham tướng kia: “Ngài lại đắc tội với hắn làm gì, ngài có biết hắn là ai không?”
Tham tướng biết là có chuyện không hay, đang muốn hỏi lại thấy ngượng, lão nhân kia đã nói tiếp: “Hắn là Thái học sinh Trần Tả Nghị, tự xưng là Trần Đông(1) tái thế, rất giỏi tụ tập gây chuyện, là thủ lĩnh trong đám biện luận. Hiện trong triều đình cũng đã có chút thế lực, đang muốn tìm Tào Ngự sử hạ thủ, sao ngài lại nhảy đúng vào tay hắn thế?”
Gã tham tướng ban đầu vẫn còn làm cứng, nghe tới đoạn sau thì mặt trắng bệch, trong lòng ảo não, không dám lên tiếng nữa.
Bên cạnh có người nhỏ giọng nói: “Lại chẳng, hiện giờ đám biện luận cũng có chút thế lực, cũng làm được một số việc hay. Trần Tả Nghị mấy ngày trước chẳng phải vừa lật đổ Tả đô ngự sử Vương Hòe sao? Ai dà, gã khốn ấy cũng quá bại hoại mà!”
Lão nhân nọ nghe nhưng không nói gì, hồi lâu sau mới ngừng chén, than rằng: “Hừm hừm, lại thành ra cái dạng gì chẳng biết! Bàn cãi chẳng qua là cãi vã, giận dỗi, tranh chấp cái việc đối với người Kim thì nên xưng là cha con hay xưng chú cháu, thật đáng cười, đáng cười...” Than xong lại nói: “Gom cả sức lực trong ngoài triều đình, nông dân thôn dã cho tới đứa trẻ còn đang bú mẹ mới chỉ lật đổ được có một gã Vương Hòe, đập được con rận nhép trên đầu lão hổ, mà lão hổ chẳng phải vẫn còn nguyên xi đấy sao? Thế mà một đám cứ tự cho là nước đã yên, bang đã ổn rồi không bằng. Ngài xem, Trần Tả Nghị nọ mới đắc thế chưa được hai tháng, đã vội đem áo lụa đổi thành áo vải cũ, trăm họ trong thiên hạ còn có thể trông đợi gì vào đám ấy đây?” Nói xong lão lại thở dài một tiếng, dặn dò tiểu nhị một câu: “Tính vào sổ nợ”, rồi đứng dậy đi khỏi.
Thẩm Phóng nghe lão nhân nọ nói rất có đạo lý, không khỏi ngầm gật đầu, mới nghĩ dựa vào cái đám học trò, kẻ sĩ dạng ấy, triều đình đúng là vĩnh viễn chẳng sạch sẽ, yên ổn nổi. Lão mù kể chuyện bên kia cũng sắp kể xong Ngô Việt xuân thu, chỉ nghe lão kể: “... Lại nói, Phạm Lãi thấy nước Ngô đã phá, Phù Sai thân vong, thù lớn của Việt Vương đã báo, chàng bèn gặp Tây Thi, hai người từ đó sum vầy vui sướng chẳng phải kể nữa. Tây Thi nói: “Đại phu, không ngờ chàng với thiếp vẫn còn ngày gặp lại”, nàng phải trái lòng thờ giặc, mấy năm nay, trong lòng đắng cay vô cùng, lời buông rồi che mặt khóc ròng, liền có ý muốn nhảy xuống hồ tự vẫn. Phạm đại phu vội vàng giữ nàng lại, dịu dàng nói: “Tây Tử, sự nghiệp một đời ta đã xong, thành bại hay dở, cứ để đời sau bình giá, giờ muốn cùng nàng dong thuyền chơi Ngũ Hồ, tiêu hết một đời một kiếp, sao nàng lại muốn tự tận?” Nói rồi nắm tay Tây Thi, một người mưu sĩ tài cao, một người giai nhân tuyệt thế, tuy trong lòng ai cũng có nỗi niềm nhưng đều tỏ tường nỗi khổ của cõi nhân gian, những lời khác cũng không cần nói nhiều nữa. Ngày hôm đó, Phạm đại phu liền bỏ quan mà đi, trước khi đi, viết một phong thư, gửi cho Tể tướng Văn Chủng. Trên thư viết rằng: “Chim đà hết, cung tốt đem cất. Thỏ khôn toi, chó săn vào nồi. Việt Vương là người cay độc vong ân, cổ dài mỏ nhọn, có thể chung hoạn nạn, chẳng thể cùng phú quý. Ngài sao còn không mau đi thôi?” Ý tứ là thỏ đã bắt xong, chó săn ắt phải chết, công lớn át chủ, chẳng bằng công thành thân thoái. Văn Chủng vẫn còn ngần ngừ, đóng cửa suy tư, hốt nhiên ngày hôm sau, Việt Vương mới sai người tặng tới một thanh trường kiếm, bảo rằng: “Văn Thừa tướng tặng ta bảy kế sách diệt Ngô, ta chỉ dùng có ba đã diệt được Ngô rồi, bốn kế sách còn lại dùng vào chỗ nào đây? Lưu lại nhân gian chỉ sợ thành ra đại họa cho quốc gia, đành mời Văn tiên sinh theo tiên vương đem thi hành thử nơi cửu tuyền.” Đây rõ ràng là bức Văn Chủng tự sát rồi. Văn Chủng thở dài một tiếng, chỉ than ba chữ “thật ân hận” rồi cầm kiếm tự sát. Đáng thương thay một đời danh thần, cuối cùng hồn về với đất, sao được như Phạm Lãi tiêu dao tự tại? Các vị, anh tư hùng tài, phương lược kế sách của Phạm đại phu lớp lớp đa đoan, sao không khiến người ta xưng tụng cho được? Cho nên, tới tận đời vua Thần Tông triều ta, Thừa tướng Vương An Thạch mỗi khi nghĩ lại hành nghiệp của vị Phạm đại phu này liền không khỏi ngâm mãi câu “Ngóng khi đầu bạc về non nước, muốn chuyển đất trời mới thuyền chơi(1)”, mấy lần không thôi, cho tới lúc rơi lệ. Tới giờ, trên dòng Ngô Giang này có một tòa đình gọi là Tam Cao đình, thờ ba vị cao nhân là Phạm Lãi, Quý Ưng, Lục Quy Mông, đứng đầu chính là Phạm đại phu đấy!”
Thẩm Phóng nghe người nọ tuy nói năng vụng về nhưng rốt cuộc lại chẳng mất đại lược của chuyện, với lại Phạm Lãi cũng vốn là người hắn trước nay hâm mộ - bấy giờ không khỏi thở dài, mới nghĩ Việt Vương Câu Tiễn tuy độc nhưng vẫn có thể dung được người tài cho tới lúc thành công, còn như nay, đám hôn quân gian tướng rốt cuộc lại chẳng dung nổi Nhạc Tướng quân cho tới lúc thống khoái uống rượu ở Hoàng Long(2), bảo sao người ta không siết tay thống hận đây!
Lão mù tiếp tục kể tới đoạn kết: “Chư vị, sao ngờ được Phạm đại phu hồn phách oanh liệt, tới giờ đã qua trăm, nghìn năm sau, lại thành ra không chốn dung thân rồi!”
Thẩm Phóng nghe rồi kinh hãi, không biết lại có câu chuyện động trời nào nữa đây? Chỉ nghe lão mù kia nói: “Tòa đình Tam Cao ở Ngô Giang kia nằm trên đất Ngô, xem ra trước thuộc về nước Ngô, không ngờ ngày nay lại biến thành đình “Nhị Cao”, mà chẳng phải “Tam Cao” nữa rồi. Chỉ vì ngày trước có vị học trò đất Ngô là Khúc Ngộ Hồng làm một bài thơ, bảo “Người Ngô chẳng cởi hận mất nước, lại thờ Phạm Lãi cúng thù to”, bảo rằng Phạm đại phu vốn là kẻ thù lớn của nước Ngô, người đất Ngô sao lại đi cúng ông ấy? Mấy vị thư sinh đất Ngô mới nghị bàn rồi đem bỏ thần vị của Phạm Lãi đi mất.”
Thẩm Phóng nghe mà trong lòng nguội lạnh, đám tú tài ấy chỉ biết lật lại món nợ hơn nghìn năm trước để tỏ ra mình uyên bác, đáng tiếc, tuy nhớ được mối thù của Phù Sai mà lại quên béng cái họa Kim binh áp cảnh trước mắt.
Lại nghe lão mù nọ tiếp tục kéo vài tiếng hồ cầm, khàn giọng nói: “Đáng cười thay cho Phạm đại phu này, hồn đã chẳng được nước Ngô dung lại càng không có chốn dung thân ở đất Việt! Tần Thừa tướng tu sửa miếu Tiên Hiền ở Cối Kê, lúc nêu tên các hiền nhân, cũng bỏ tên ngài đi. Tại sao vậy? Tần Thừa tướng nói: Chỉ bởi ngài ấy trước khi đi lưu thư, oán giận mắng quân vương, còn dám nói với Văn Chủng cái gì mà Việt Vương là giống cổ dài mỏ nhọn, thế chẳng phải đem quân vương ví với cầm thú sao? Tần Thừa tướng nói: Vua bảo bề tôi chết, bề tôi không thể không chết, đấy là đại nghĩa vua tôi, uổng cho Phạm Lãi là kẻ bề tôi mà chỉ khư khư giữ cái mạng nhỏ, chạy vào giang hồ, còn đẩy quân vương vào chỗ bất nhân, đã bất trung bất nghĩa như thế, phối thờ vào hàng tiên hiền thế nào được? Cho nên, ngài ấy không được hưởng thờ vào miếu Tiên Hiền ở Cối Kê. Phen khổ tâm này của Tần Thừa tướng là muốn kẻ làm thần tử về sau không thể không cẩn thận mà răn giới bản thân.”
Lão mù lạnh giọng mỉa mai, bắt chước điệu bộ mua danh của Tần Cối cũng thật tài tình. Thẩm Phóng chưa từng nghe câu này, nghe rồi không kìm được thầm chửi lớn: “Đây là cái thứ lý lẽ điêu toa gì vậy? Không coi lũ hôn quân gian tướng ấy như cá thịt mà ăn tươi nuốt sống thì tự nhiên sẽ trở thành bất trung bất nghĩa!” Rồi nhíu chặt hàng mày, mắng một tiếng: “Rắm thối!”
Tiếng chửi vang lớn, vốn chẳng ai chú ý tới bên này, giờ mọi người ngồi đây đều không làm được quay đầu lại, nghĩ ai mà to gan thế, dám ngang nhiên mắng Tần Thừa tướng là rắm thối? Tam Nương Tử biết ngay có chuyện không ổn, vội cẩn trọng cười cười với Thẩm Phóng mà rằng: “Tướng công không muốn thì bỏ qua đi, chẳng qua cũng chỉ uổng công thiếp phí lời thôi.” Chúng nhân mới vỡ lẽ thì ra hai người đang cãi cọ, cô gái này nói gì đó không vừa lòng, chọc tay kia mắng cho một câu. Chỉ quái lạ là người này trông cũng nho nhã, ôn hòa, sao lại thô lỗ nhường này? Tam Nương lại quay sang bốn phương, bày bộ dạng đáng thương mà cười xấu hổ, xem như thay trượng phu tạ lỗi vì đã làm kinh động đến mọi người. Mọi người mới quay đầu đi, nghĩ: “Uổng cho gã lấy được một cô vợ dịu dàng như thế!”
Thẩm Phóng chợt tỉnh táo lại, nghĩ nơi đây ven kinh đô, Tần Cối hẳn phải có tai mắt khắp nơi, huống chi hai người họ lại đương lúc tránh họa, bản thân vừa rồi thật lỗ mãng quá! Hắn cảm kích liếc Tam Nương một cái, thấp giọng cười nói: “Vừa rồi cũng xem như nàng hãm ta vào chỗ bất nghĩa rồi nhé!”
Đang nói, bỗng nhe thấy trên cầu thang vang lên từng tiếng “đang, đang, đang” nặng nề. Người ngồi trên lầu ngạc nhiên quay đầu nhìn về phía cầu thang, thắc mắc không biết nhân vật nào đang lên lầu mà lại có khí thế dời núi lấp bể đến thế? Sắc mặt Tam Nương chợt ngưng trọng, nhíu mày nói: “Người này đã thụ thương.”
Thẩm Phóng ngạc nhiên. “Sao nàng biết?”
Tam Nương khẽ nói: “Thiếp biết mà!” rồi nghiêng tai lắng nghe.
Chỉ thấy thần sắc nàng càng lúc càng kinh ngạc, lẩm nhẩm tự nhủ: “Phải nặng trái nhẹ, là bước Vong Ưu bộ trong Côn Luân liệu thương thập bát thức, đó là còn đang bị thương ở ngực, đã động tới gan tì. Khí tức không nhịp nhàng, dài ngắn đan nhau, trong ngực hẳn có chỗ tắc, hẳn đã trúng phải chưởng lực của nội gia. Một bước lại nghỉ, một bước đề khí, xem ra vẫn còn bị ngoại thương rất nghiêm trọng... Thật kỳ quái, bị thương nặng như thế, sao người này vẫn có thể bước đi thoải mái đến vậy?”
Thẩm Phóng càng nghe càng thấy lạ, vốn chưa từng nghe Tam Nương nói nàng tinh thông y lý, không khỏi chăm chú dõi về phía cầu thang, xem xem đó là người thế nào. Người nọ đi rất chậm, mãi sau mới lên hết cầu thang nhưng vẫn khiến người khác phải kinh ngạc một phen, thật là một nam tử hán oai phong lẫm liệt!
Thẩm Phóng căng mắt nhìn kĩ, chỉ thấy người đó trạc tuổi trung niên, diện mạo thô vụng, chân tay thô kệch, mặc một tấm áo vải nâu, vóc dáng không nhỏ, cũng không đặc biệt cao lớn, nhưng vừa nhìn đã khiến người ta có cảm giác uy hiếp rõ rệt. Chỉ thấy sắc mặt người này vàng bủng, gò má xanh xao, đồng tử đỏ ửng, Thẩm Phóng liền biết Tam Nương nói không sai, người này quả thật đã bị thương.
Bên sườn trái người này còn kẹp một đứa tiểu đồng, nhìn dáng hình cũng chỉ sáu, bảy tuổi, khuôn mặt gầy gò, đầu cúi gằm, không nhìn rõ diện mạo. Hai người này đều một thân bụi bặm, giống như đã bôn ba đường trường. Hán tử nọ lướt mắt quan sát trên lầu một lượt, chẳng nói chẳng rằng đi tới một chỗ trống giáp tường. Vừa xoay lưng, chúng nhân không nhịn được đều hít vào một hơi, có người còn “òa” thốt lên, chỉ thấy sau lưng người nọ máu thấm ướt đẫm, cơ thịt bầy nhầy, vết thương rách hẳn một mảng, dường như đã bị ai đó dùng cương trảo ngang dọc cào vài đường, khó ở chỗ làm thế nào mà hắn có thể chịu nổi? Thịt và áo rách dính bết vào nhau, nhìn mà rợn lòng, thật không thể tưởng tượng nổi đau đớn tới mức nào, có người không dám nhìn tiếp, vội vàng gục đầu, trong lòng phỏng đoán đại hán này tới từ đâu, chẳng phải phường cướp sông cướp biển thì cũng là kẻ giang hồ hào hùng.
Hán tử kia vừa ngồi xuống liền gọi: “Tiểu nhị!”, giọng rất thấp, giống khẩu âm người Trung Châu, hẳn là người phương bắc. Tiểu nhị nọ thấy đại hán lên lầu thì tim đã đập như trống dồn, bất đắc dĩ đi tới, hỏi: “Khách quan có gì sai bảo?”
Hán tử kia vẫn nén giọng nói: “Cho chịu mười lăm cân rượu trắng đi!”
Hắn nói rất chậm, như sợ tiểu nhị nghe không hiểu. Điếm tiểu nhị nghe người này vừa mở miệng đã nói chữ “chịu”, da đầu liền tê rần, hắn đang sợ cái người tựa ôn thần lão gia tử này mở miệng nói mua chịu, sao dám để gã mua chịu được chứ? Nhưng sao dám không cho gã mua chịu đây?
Ngập ngừng hồi lâu, tiểu nhị thấp giọng, ấp úng nói: “Việc này... việc này... quy củ của tiểu điếm là trao tiền giao hàng, chưa từng cho khách chịu. Tiểu nhân mắt kém, không nhận ra khách quan, xin chớ trách!” Nói rồi, tiểu nhị trưng ra bộ mặt nhăn nhó đợi ăn chửi, hoặc ăn đánh, trù tính làm thế nào để thoát thân, lại sợ đại hán nọ nổi cơn tam bành. Nhưng hán tử kia không hề nổi giận, hồi lâu mới ngẩng đầu, nói: “Đời ta trước giờ chưa từng có nợ không trả, cho mang chịu lên đi!”
Giọng của hán tử nén xuống cực thấp, dường như sợ động tới vết thương trên người. Hắn vừa ngẩng lên, tất thảy mọi người xung quanh đều nhìn thấy đôi mắt u trầm ấy - anh hùng sa cơ, không ai không khỏi nghĩ tới bốn chữ này.
Tiểu nhị kia gan ruột lạnh toát, chỉ cảm thấy cỗ khí thế không giận mà uy kia ép thẳng lên người, nếu không phải do chưởng quỹ hà khắc, có lẽ hắn đã cho hán tử kia chịu nợ để gã mau mau lên đường cho xong.
Thẩm Phóng nghe hán tử này khẩu khí bình hòa, không phải đám hung tàn gian ác, mà giống hạng kỳ nhân lang bạt giang hồ, lại càng kinh ngạc hơn vì vị này thương thế đến vậy mà còn đòi uống rượu. Chỉ thấy người nọ tuy thụ thương nhưng mặt mày vẫn có vẻ anh hùng cô quạnh, khí thế hừng hực, khiến tinh thần người nhìn bất giác chấn động. Thẩm Phóng nghe người này mở miệng nói ra chữ “chịu”, trong lòng sớm đã không khỏi khen thầm, nghĩ với uy thế của hắn, nếu cứ gọi lên trước, uống xong rồi đi, chỉ sợ đám tiểu nhị trên lầu cũng khó mà ngăn nổi, ấy vậy mà vừa mở miệng đã dứt khoát nói ra chữ “chịu”, đủ để biết lòng dạ hắn lỗi lạc, không bắt nạt kẻ bình dân. Đang muốn cất lời thế đại hán trả tiền rượu, lại sợ đường đột tráng sĩ, bỗng nghe Tam Nương hô “Tiểu nhị”, tiểu nhị vội vàng thừa cơ quay lại, Tam Nương chỉ nhàn nhạt nói: “Tặng đi!”
Tiểu nhị còn đang ngập ngừng, Tam Nương đã cười khẽ: “Ghi vào cho ta.” Nói rồi nàng và đại hán nọ bốn mắt nhìn nhau, trong mắt nàng có ý cười, còn trong mắt đại hán kia lại là một vẻ lạnh lẽo như băng, chẳng vương chút ý cảm tạ. Tiểu nhị thấy có người trả tiền, cuống quýt đi ngay, chẳng bao lâu đã đem rượu lên. Người trên lầu đều thấy ngạc nhiên, với thương thế như vậy, sao người nọ vẫn dám uống rượu? Mười lăm cân rượu trắng, chẳng phải có thể khiến mấy người say chết sao? Thế là mọi người nhất loạt quay sang nhìn xem đại hán uống ra sao. Lại thấy đại hán đó nhấc tay, hất đi lớp nắp bùn, đưa mũi ngửi ngửi rồi cười lạnh: “Kêu là rượu Trần Lương chín năm, nhiều lắm chỉ có bảy năm thôi, xem ra cái Hảo Đăng lâu này cũng chỉ đến thế này thôi.” Nói rồi, chẳng buồn để ý tới vò rượu đó mà ôm lấy đứa bé bên cạnh để nó đứng lên băng ghế. Mọi người giờ mới nhìn rõ đứa trẻ đó. Nó độ bảy, tám tuổi, mũi nhỏ, mắt nhỏ, khuôn mặt xương xẩu, giống hệt một chú gà con mới rụng lông mao. Chúng nhân đều hoài nghi thằng bé liệu có phải bị hán tử kia bắt cóc chăng. Đứa bé bị hán tử kẹp nách đi cả chặng đường, toàn thân y phục mặt mũi đều là bụi đất, áo quần lại rách nát, thật y chang một đứa ăn mày. Chỉ thấy mặt nó trắng bệch, thở không ra hơi. Ánh mắt hán tử kia trở nên lo lắng, do dự một lát, ánh mắt đảo đi đảo lại giữa đứa bé và vò rượu, sau đó, tựa hồ đã hạ quyết tâm, bèn nhấc một tay đặt trước ngực đứa bé, ra sức xoa vuốt một trận, rẻ sườn nho nhỏ trên người đứa bé tựa hồ sắp bị hắn nắn gãy. Hán tử đó xoa nắn một hồi, sắc mặt đột nhiên trở nên ảm đạm, còn khuôn mặt đứa bé lại hồng hào hơn, Tam Nương ở bên cạnh thấp giọng nói: “A, Phản Chiếu đại pháp, làm vậy sẽ hao tổn tinh khí nhất đó!” Bàn tay hán tử xoa càng lúc càng nhanh, trong cổ họng đứa bé phát ra những tiếng “ư ư a a”, rên rỉ không dứt, sau cùng, hán tử vỗ mạnh vào lưng đứa bé một chưởng, thổ khí phát tiếng, lúc này hắn dùng sức rất mạnh, xem bộ dạng thật giống như định chấn rung gan phổi đứa bé. Nói cũng kỳ quái, đứa bé lại chẳng hề hấn gì, mọi người chỉ nghe thấy hắn “hây” một tiếng, đứa bé đã “ọe” rồi nhổ ra một cục đờm lớn màu xanh lục, móc ruột móc dạ dày mà ho khan không ngừng, ho một trận lại nôn một bãi. Đại hán để nó nằm trên đùi mình, chỉ một lúc mà mặt đất đã lênh láng một mảng đờm lớn. Xung quanh ai cũng nhăn nhó mặt mày. Đứa bé ho rất lâu mới đỡ, dường như chất bẩn trong phổi đều đã nôn ra hết, trông sắc mặt mới có chút sinh khí. Trên mặt hán tử lộ ra nét cười hiếm hoi, hắn gật đầu, cười với nó: “Lục Nhi, tỉnh rồi đấy à, có thấy vất vả không?”
Đứa bé rất hiểu biết mà đáp: “Lục Nhi không vất vả, là bá bá vất vả.”
Khuôn mặt hán tử hết sức ôn hòa, nói: “Lục Nhi, bá bá sắp trị thương cho con, thương thế này của con không kéo dài được nữa, có thể sẽ rất đau, có điều cha con anh hùng nhường ấy, ta tin tiểu Lục Nhi của hắn hẳn sẽ không sợ đau.”
Tiểu Lục Nhi gật gật đầu, nói: “Nhưng mà, nhưng mà lão đầu đó nói bá bá chỉ cần dùng chân khí thì sẽ... thì sẽ...” Nó không nhớ ra từ tiếp theo, không nói được nữa. Hán tử thì chỉ cười, duỗi cánh tay, loáng cái đã cởi sạch y phục, giày tất của đứa bé, để lộ thân thể vừa nhỏ vừa bẩn, chỉ thấy có xương chẳng thấy thịt, nhưng nhìn kĩ, các khớp xương toàn thân nó chỗ nào cũng có một khoảng tím bầm, nhìn mà rợn người, hệt như phải chịu cực hình nào đó, sao lại có kẻ nhẫn tâm hạ thủ với một đứa trẻ bé nhỏ như vậy? Mọi người đều không kìm được, dán mắt nhìn nó trân trối.
Hai chân đứa bé khép chặt chỗ xấu hổ, có chút thẹn thùng nhưng không hề phản kháng. Hán tử kia chuyển sang vò rượu, hít một hơi dài, nhắm mắt lại, hai tay thọc vào vò rượu. Mọi người đều hết sức kinh ngạc, lẽ nào hắn đòi mười lăm cân rượu trắng chỉ để rửa tay thôi sao? Nhưng thấy hắn đã ngâm tới nửa khắc không bỏ ra, Tam Nương Tử khẽ giọng thốt: “Tam Dương chân khí?” Tựa như không chắc lắm, chỉ thấy chẳng bao lâu sau, từ miệng vò rượu bốc lên khí nóng, theo gió tan đi, cả vò rượu giống như được đun sôi, toàn bộ lầu trên đều phảng phất hơi rượu. Lúc này, hán tử mới rút tay lại, vê lên người đứa bé. Đứa bé cắn răng, bặm môi, nhịn không nổi mà “ư” một tiếng, hẳn là đau lắm. Nhưng nó ráng sức nhẫn nhịn, ban đầu chưa thấy gì, dần dần mặt mũi đều nhăn tít lại, tuy không dám kêu nhưng thân thể đã bắt đầu vặn vẹo, toàn thân cũng toát ra hơi nóng hừng hực, như đang tắm trong suối nước nóng vậy. Hán tử kia cứ lựa những chỗ bị thương ở khớp tứ chi của đứa bé mà hạ thủ, hạ thủ cũng rất nặng, không khí khắp lầu đặc mùi hôi thối lẫn vị tanh lòm. Bàn tay to lớn của hán tử hễ động là chỗ máu thịt ở vết thương sau lưng lại không khỏi cọ xát một chập, khiến người bạo nhìn mà kinh tâm, người nhát thì không dám nhìn nữa.
Chỉ thấy hơi rượu trên người đứa bé dần đậm, hết chuyển đậm thành nhạt, rồi lại chuyển nhạt sang đậm, đôi tay của hán tử cứ lần tiếp lần nhúng vào vò rượu, cứ thế lật đi lật lại mấy bận, sắc vàng trên mặt hán tử nặng thêm, lông mày nhíu chặt, tiếng rên của đứa bé càng lúc càng bé đi, trên khuôn mặt nhỏ nhắn hiện ra vẻ thoải mái. E rằng chỉ chốc lát nữa, rượu trong vò sẽ vơi đi phân nửa, bùn bẩn trên người đứa bé cũng theo bàn tay của đại hán mà rơi xuống từng mảng, lộ ra làn da non nớt, khí sắc trên khuôn mặt nhỏ cũng dần hồng nhuận, chỉ nghe thấy chỗ khớp xương vang lên tiếng “lách cách, lách cách”, cũng chẳng biết là thương thế tốt lên hay người đã say mèm rồi.
Tam Nương Tử lúc này lại lầm bầm: “Thì ra không phải là Tam Dương của Thanh Thành, là Khối Lỗi chân khí. Trừ người đó, còn ai có thể thực hiện được đại pháp này, nói vậy quả nhiên là hắn sao?”
Thẩm Phóng ngạc nhiên. “Tam Nương, nãy giờ nàng đang nói gì thế? Hắn là ai?”
Bấy giờ Tam Nương mới sực tỉnh, cười khẽ. “Thiếp cũng chỉ đoán thôi, giống một kỳ nhân trước đây từng nghe người ta nhắc tới”, rồi không chịu nói thêm.
Thẩm Phóng ngớ ra, hắn trước nay chưa từng nghĩ rằng thê tử của mình lại có chút hiểu biết ấy về giang hồ. Tam Nương Tử nhăn mặt, nói: “Thương thế hắn như vậy còn mạo hiểm trị thương cho người khác, không sợ nội thương nặng thêm sao?” Thấy nàng lại lẩm bẩm một mình, Thẩm Phóng liền biết lúc này có hỏi nàng cũng không chịu nói, nên không hỏi lại nữa.
Thời gian trôi được khoảng nửa bữa cơm trưa, hán tử kia mới ngừng tay, đợi hơi nóng trên người đứa bé tản hết, hắn mới cho nó mặc lại y phục. Khí sắc trên mặt hán tử đã rất tệ, dường như thương thế càng nặng thêm. Trên lưng lại có thêm vết thương mới vỡ ra, máu tươi ứa chảy. Lúc này, tiểu nhị bê lên một mâm màn thầu, vài món ăn phương bắc đậm đà và một tô cháo vịt đun nhỏ lửa, đó đều là những thứ Tam Nương nhân lúc không ai để ý mà dặn đem lên. Hán tử kia chẳng thèm liếc mấy món đem lên cho mình, đợi đứa bé ho xong, hắn múc từng thìa cháo vịt, bón cho nó ăn.
Bỗng nghe “e hèm” một tiếng, lão mù nọ hắng giọng, thu hút sự chú ý của mọi người. Vốn chuyện được kể xong là lúc lão kêu đứa cháu gái tới xin quan khách ngồi đây thưởng tiền, nhưng giờ cứ thế bị hán tử vừa lên lầu kia làm mọi người phân tâm, giờ cũng không tiện trực tiếp xin tiền, đành vịn đứa cháu gái, tới chỗ từng vị khách, hỏi: “Khách quan muốn chọn bài chăng?”, mà làm gì có ai còn tâm tư nghe lão nữa, có người thì cho ông cháu một chút tiền, có người lại chẳng thèm để ý tới, xua xua tay để bọn họ đi khỏi. Lúc tới bàn của Thẩm Phóng, trong cái làn nho nhỏ trên tay cô bé cũng mới chỉ có mười mấy đồng. Trong mắt cô bé đã ngân ngấn lệ, oán giận mà lườm về phía đại hán kia một cái - đều tại hắn, làm cả một buổi sáng kể chuyện thành công cốc rồi. Chỉ nghe lão mù khàn giọng hỏi: “Khách quan, chọn một khúc đi!” Lời nói tràn ngập ý van nài. Thẩm Phóng thấy hai ông cháu ăn mặc phong phanh, mùa thu tháng Chín thế này, trên người cô bé vẫn chỉ mặc độc áo đơn quần chiếc mỏng manh. Hai người nói khẩu âm vùng Sơn Đông, hẳn là nạn dân từ phương bắc lưu lạc xuống, nghĩ rồi trong lòng không khỏi cảm thấy buồn rầu, liền quay sang Tam Nương gật gật đầu, ý rằng muốn Tam Nương quan tâm. Tiểu cô nương cũng nhìn ra phu phụ hai người tướng mạo thiện lương, dường như biết cơm ăn ngày hôm nay xem như có cửa kiếm rồi, rụt rè hỏi: “Khách quan muốn nghe gì?”
Tam Nương hỏi: “Cô bé hát được bài gì?”
Thẩm Phóng ngớ ra, không nghĩ Tam Nương thật sự muốn nghe cô bé ấy hát. Tiểu cô nương nói: “Chỉ một vài tiểu khúc thôi ạ!”
Tam Nương cười nói: “Thế thì tự chọn bài nào ngươi thích mà hát đi.”
Tiểu cô nương ngẫm nghĩ một chút rồi nói với ông mình một tiếng, lão mù liền cầm hồ cầm lên kéo. Đàn đã cũ lắm rồi, thanh âm có chút lạc điệu, giọng của tiểu cô nương hóa ra lại hay, chỉ thấy cô bé thoáng nghĩ, đợi hồ cầm dạo xong liền uyển chuyển cất tiếng ca, hóa ra là một bài ca dao cũ của Lạc Dương, khẩu âm không được thuần, hẳn là học trên đường chạy nạn:
Xuân đi nhé, từ biệt miền Lạc thành! Liễu mềm gió lay tựa tay áo vẫy đưa, bụi lan sương đẫm như khăn ướt lệ từ biệt, một mình sầu nặng mi(1).
Lời ca kể về phong cảnh Lạc Dương, trong số người ngồi trên lầu cũng có nhiều người vốn ở Giang Bắc, nhớ lại Lạc Dương nơi kinh đô cũ miền Trung Châu, mẫu đơn khắp chốn, phồn hoa nhất thiên hạ, đường lớn tấp nập, dòng người không dứt, nhưng nay lại lọt vào tay người Kim, không kìm được nhẹ buông tiếng thở dài. Hán tử nọ ngồi bên kia cũng khe khẽ than dài. Tiếng ca của cô bé trong như ngọc, hát liền ba nhịp rồi mới ngừng. Quê gốc của Tam Nương Tử ở Giang Bắc, nghe hát mà nhớ việc cũ, mãi sau mới sực tỉnh, lấy trong túi áo mấy chục đồng, đưa cả cho tiểu cô nương nọ, cô bé cảm tạ, đang định rời đi, Tam Nương Tử chợt nghĩ ra cái gì, bỗng vẫy tay gọi cô bé trở lại.
Tiểu cô nương ngẩn ra, bước tới gần, chỉ thấy Tam Nương nâng mặt cô bé, ngắm nghía một chập, nhẹ nhàng ve vuốt rồi lắc đầu, nói: “Năm ấy tuổi ta cũng độ này...”
Nói rồi than khẽ, tựa như hồi tưởng chuyện cũ thương tâm, sau đó rút cây thoa cài trên đầu mình, vén tóc mai cô bé, dịu dàng hỏi: “Mẹ cháu đâu?”
Cô bé lắc lắc đầu, Tam Nương Tử liền biết quá nửa là đã chết rồi. Trầm ngâm một lúc, than rằng: “Cũng là người mệnh khổ”, nói rồi đưa cây thoa gỗ vừa rút trên đầu xuống cài lên tóc tiểu cô nương, nói: “Thấy đầu tóc cháu lộn xộn, ta cho cháu cây thoa này, tuy nó không đáng tiền nhưng vẫn có chút hữu dụng, chớ có tùy tiện vứt đi!”
Cây thoa ấy nhìn không ra là loại gỗ gì, chỉ là được dùng rất lâu rồi, khá sáng bóng, hình dạng cũng rất phổ thông, ấy vậy mà Tam Nương lại cực kỳ nâng niu. Thẩm Phóng không khỏi thấy hơi kỳ quái: Một cây thoa gỗ thì có đáng là bao? Tam Nương trước nay là người tính tình rộng rãi, sao giờ bỗng trở nên rầy rà thế này? Đại hán ngồi bên kia lúc bấy giờ tựa như vô tình hữu ý liếc trên đầu tiểu cô nương nọ mấy cái, dường như có điều gì suy tư.
Tam Nương vẫn cẩn thận, nghiêm túc dặn dò rằng: “Trên cây thoa này có khắc mấy câu - cháu có nhận được mặt chữ không? Nếu không nhận được thì tìm người biết chữ hỏi rồi học lấy mà hát. Về sau... nói không chừng có thể giúp được cháu một chút việc nhỏ, nhưng ngàn vạn lần không được vứt đi.”
Cô bé cảm tạ, chúc một câu vạn phúc rồi mới lui đi. Thấy đứa bé đã ăn hết một tô cháo thịt, đại hán mới vỗ vai nó, hỏi: “Tiểu Lục Nhi, có mệt không? Chúng ta lại phải lên đường rồi. Nói cho bá bá biết, con có sợ không?”
Đứa bé tựa như đã có chút tinh thần, lắc đầu, dứt khoát nói: “Không sợ!”
Hán tử gật đầu, nói: “Đúng, đừng sợ, lại có kẻ xấu đuổi tới rồi, xem bá bá giết kẻ xấu nhé! Sáng nay bá bá giết mấy đứa rồi?”
Khuôn mặt đứa bé không kìm được hưng phấn, duỗi bốn ngón tay, nói: “Bốn tên.” Giọng của nó là giọng Lâm An.
Đại hán nở nụ cười hiếm hoi, nói: “Không sai, bốn đứa, con đếm được rõ ràng chứng tỏ con thật sự không sợ.” Đang nói, hắn chợt lật tay, cánh tay cứ thế vòng ra sau lưng, đấy là công phu Thông Tí quyền của Thông Châu nhưng e là chưởng môn Hà Hiểu Dũng của Thông Tí quyền cũng chẳng luyện được tới mức duỗi gập như ý nhường này. Tam Nương ngầm thở dài, quả nhiên là danh phù kỳ thực! Lại thấy hắn giằng từng mảnh áo vải dính vào vết thương ra, máu ở đấy vốn đã khô lại, dính vào miếng vải, miếng vải đó liền giống như da thịt trên người, hắn giằng ra như thế chắc chắn thấu tim thấu phổi, đau đớn khôn tả, vậy mà đại hán nọ mặt không hề đổi sắc, vẫn nói chuyện với đứa bé kia như thường, sau lưng đã sớm lộ ra một mảng thương tích lớn, thấp thoáng nhìn được xương trắng. Đợi tới khi vải được giằng hết xuống, hắn thò tay vào chỗ rượu còn thừa trong vò, ngầm vận huyền công, không tới một nén nhang, hơi rượu trong vò lại bốc lên mù mịt, chỉ thấy hắn đảo miệng vò, đổ rượu từ vai chảy thẳng xuống miệng vết thương lớn kia, “xì” một tiếng, đám người trên lầu kinh sợ thét lên, trong lòng ai nấy đều khiếp đảm. Khóe miệng hán tử khẽ động, Tam Nương biết hắn muốn dùng sức rượu đốt miệng vết thương, tránh cho thối rữa. Mọi người vẫn đang kinh hãi, người nọ đã ôm đứa bé lên, không thèm nhìn người xung quanh một lần, đứng dậy đi thẳng.
Thẩm Phóng thấy hắn hành sự kỳ vĩ, nhất là giữa nơi đông đúc mà dám nói thẳng “giết mấy đứa rồi”, có thể thấy việc hắn làm ắt là việc khảng khái, hào hùng, không khỏi ngưỡng mộ lắm lắm. Thấy hắn đứng dậy, Thẩm Phóng vội bật dậy theo, cất tiếng gọi:
“Nhân huynh!”
Người nọ không ngó ngàng tới, vẫn đi tiếp xuống dưới lầu. Thẩm Phóng vội bước theo. Người đó chợt quay người, đảo mắt nhìn qua, ánh mắt lạnh toát đến kinh người, vẫn chẳng nói chẳng rằng. Thẩm Phóng liền cảm thấy sống lưng lạnh buốt nhưng cười nhẹ không nói, duỗi tay cởi tấm áo dài khoác trên người mình xuống, chỉ vào vết thương người nọ, mỉm cười, nói: “Tránh làm người khác sợ hãi”, nói rồi hai tay đưa qua. Hán tử nhìn tấm áo khoác trong tay Thẩm Phóng, lại nhìn hắn một cái, nghĩ một thoáng mới nói: “Vốn là không cần...” Ngừng một chút, hắn vẫn đón lấy, khoác lên người, cũng chẳng xem có vừa hay không, càng chẳng cảm ơn lấy một tiếng, cứ thế ôm đứa bé sải bước mà đi.