Chương 8

PHẦN VI
TỘI ÁC
Chương 52
TÊN THỨ MƯỜI MỘT

    
hững điềm gở xuất hiện từ sau vụ ám sát của Tổng thống Kennedy bỗng liên tục lặp lại trong những ngày tiếp theo. Thông qua tất cả các nguồn tin cũng như tiên liệu từ những con số thống kê cho thấy cuộc chiến chống lại lực lượng Cộng sản ở Việt Nam đang chuyển sang hướng ngày một xấu đi. Vậy nhưng các tướng lĩnh dường như vẫn rất hài lòng mà “ngồi đực mặt ra đấy” và chỉ phản ứng khi mà kết quả tỏ ra có lợi cho họ, nhưng ngay cả chuyện ấy cũng hiếm khi xuất hiện.
Mỗi tháng trôi qua, trên tấm bản đồ của Bộ Tư lệnh Quân viện Mỹ thì những vùng màu đỏ lại trở nên quen thuộc hơn và được mở rộng ra nhiều hướng trong khi những vùng màu xanh lại cứ bị thu hẹp dần. Chẳng còn ai ở Sài Gòn tin tưởng vào lòng trung thành, sự thông minh hay khả năng điều hành Chính phủ của các tướng Minh, Bích, Đôn, Kim và tướng Đính. Mặc cho Đại sứ Sedgewick cũng như tất cả các cơ quan thuộc Phái bộ Mỹ liên tục khuyến khích động viên, người dân Sài Gòn vẫn cảm thấy rằng thời gian nắm quyền của những người này cũng chỉ có giói hạn. Vấn đề duy nhất được đặt ra là: Ai sẽ là người lên thay thế họ?
Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau khi ám sát Ngô Đình Diệm bị chia rẽ sâu sắc, các tướng lĩnh thi nhau kết bè kết phái và cố gắng đổ hết mọi tội lỗi của mình cho người khác. Sự thống nhất trong đội ngũ chỉ huy ngày phát động đảo chính chống lại ông Diệm giờ đây không còn tồn tại, các tướng lĩnh, sỹ quan trẻ tuổi công khai phản bác và chống lại những tướng lĩnh cao cấp và coi đám người này chỉ là một lũ bất tài, hay ăn đút lót. Họ còn lớn tiếng hô hào thay thế và đòi “phục hồi nền dân chủ”. Thế nhưng, vì mất lòng dân mà những tay chính trị gia cơ hội cũng chẳng thể làm được gì hơn. Trên thực tế, bọn họ cũng chẳng có lý tưởng cụ thể nào ngoài việc mong sao tranh thủ kiếm lợi càng nhiều càng tốt, chẳng kém gì Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị tư tưởng cơ hội thao túng.
Ngày 30 tháng 1 năm 1964, Chính phủ của ông Minh “lớn” và những kẻ đồng mưu với ông ta đã bị lật đổ bởi cuộc đảo chính của tướng Nguyễn Khánh, một viên tướng mới có 36 tuổi và tám năm về trước cũng chỉ là một tay Trung tá trong đội quân của người Pháp. Nhóm tướng lĩnh tổ chức đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm - Minh “lớn”, Bích, Đôn, Kim và tướng Đính - đã bị trục xuất lên Đà Lạt và bị quản thúc trong một ngôi biệt thự. (Nhờ có sự nài nỉ của Đại sứ Sedgewick, tướng Minh đã được trả tự do và ban cho chức Quốc trưởng danh dự). Tướng Khánh đã thề rằng mục tiêu chính của Chính phủ mới là xóa sạch nạn tham nhũng và quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc chiến chống lại những người Cộng sản.
Theo đánh giá chủ quan của Đại sứ Mỹ thì Chính phủ của tướng Khánh có thể không thật hoàn thiện nhưng ít ra nó cũng có nhiều tiến bộ hơn Chính phủ tiền nhiệm - một nhận định giống hệt với Chính phủ lâm thời của tướng Minh “lớn”. Vậy nhưng điều đầu tiên chẳng khiến ai ngạc nhiên mà Chính phủ này thực hiện vẫn là bổ nhiệm một Thủ tướng mới và thay thế viên Thị trưởng Sài Gòn cùng toàn thể 42 viên Tỉnh trưởng và 253 viên Huyện trưởng mà Chính phủ tiền nhiệm vừa bổ nhiệm được vài tháng trước đây. Chẳng còn nơi nào khác trên thế giới này có thể thay thế các quan chức Chính quyền nhanh chóng như miền Nam Việt Nam, kết quả của hành động vội vàng này đã là quá rõ ràng.
Hôm 9 tháng 5, Đại tá Gascon gọi tới cho Marnin. Anh ta nói rằng, anh ta đã cố gọi cho ngài Đại sứ nhưng ông này không thèm nghe. Thực tế là nỗi bất hạnh của Chính quyền Sài Gòn càng tăng lên khi mà những khách hàng người bản địa của Đại tá Gascon hết lần này đến lần khác chỉ có thể tự chứng tỏ được rằng họ chẳng có khả năng xử lý được tình hình đang ngày một xấu đi thì cũng là lúc niềm tin của Đại sứ Segdewick dành cho anh ta bị mất hết và ông Đại sứ cũng như sếp trực tiếp của anh ta, Tân trưởng lưới điệp báo CIA ở Sài Gòn đã phải ngán tận cổ viên “Đại tá” ba hoa này.
- Có việc gì vậy? - D. Marnin hỏi.
- Tôi phải nói chuyện được với ngài Đại sứ ngay bây giờ.
- Ông ta đang mệt và không thể nghe điện thoại của bất cứ ai vào lúc này.
- Được rồi. Nhưng nhất định phải gọi cho ông ấy cho dù ông ấy đang ở bất kỳ chỗ nào và đang làm cái gì cũng vậy. Hãy báo cho ông ấy rằng tướng Khánh có kế hoạch hành quyết Ngô Đình Cẩn và Đinh Triệu Dã vào lúc 5 giờ chiều ngày hôm nay.
Trái tim của D. Marnin đập thình thịch như muốn nhẩy tung khỏi lồng ngực khiến cho anh cảm thấy như mình sắp quỵ hẳn xuống. Anh úp vội chiếc ống nghe xuống rồi chạy thẳng đến phòng làm việc của Đại sứ Segedwick. Ông Đại sứ đang thảo luận với ngài Roy Ewing, người thay thế ông Sam Sabo làm Tham tán chính trị về báo cáo mang tựa đề “Tân Chính phủ Việt Nam Cộng hòa - trong bốn tháng đầu tiên”. Đoạn tóm tắt đầu tiên đã viết là:
“Tướng Nguyễn Khánh không phải là mẫu người có cá tính được mọi người ưa thích, những người trong nhóm mà anh ta mới tập họp được cũng không có gì đặc sắc. Bây giờ rất khó đối xử hay gây ảnh hướng với con người này và anh ta còn hay thể hiện bằng cái mẽ bề ngoài hơn cả Mussolini nữa. Vậy nhưng không có gì phải nghi ngờ về cam kết của ông ta về tư tưởng chống Cộng cũng như quyết tâm chấn chỉnh lại Quân lực Việt Nam Cộng hòa, loại bỏ những tướng lĩnh bất tài, tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến tranh này đi đến thắng lợi cuối cùng. Trên cương vị này anh ta tỏ ra xứng đáng là người hơn hẳn tất cả những người tiền nhiệm và xứng đáng nhận được sự cảm thông và ủng hộ của chúng ta...”
- Chó chết thật. Tôi đã bảo cậu đêh cả trăm lần là đừng bao giờ làm phiền tôi khi tôi đã đóng cửa lại rồi cơ mà.
D. Marnin chẳng biết nói gì hơn là báo cho ông ta biết về kế hoạch của tướng Khánh.
- Cậu có nói đùa không đấy? - Đại sứ Sedgewick vội hỏi.
- Thưa ngài, tôi e là không đâu ạ - D. Marrũn trả lời.
- Thế thằng Bilder có biết không?
- Không thưa ngài, tôi nghĩ là ngài cần phải biết điều đó ngay.
- Gọi nó vào đây cho tôi. Và nối liên lạc cho tôi nói chuyện vói tướng Khánh. Sau đó tôi muốn nói chuyện vói cả tay Gascon nữa.
Đại sứ quán đã cho thiết lập một đường dây liên lạc trực tiếp tới Phủ Tổng thống. D. Marnin vội nói với Helen Eng để cô thông báo với ngài Thủ tướng về cuộc gọi trên đường dây nóng và anh cũng không quên nhắc cô ấy rằng anh đang đợi ở đầu dây bên này. Kể từ sau vụ đảo chính ngày 1 tháng 11, mấy người trực tổng đài ở Phủ Tổng thống đã luôn đặc biệt chiều theo những cuộc gọi từ Đại sứ quán Mỹ. Vậy nhưng lời cảnh báo của D. Marnin cũng tỏ ra chẳng có tác dụng gì. Cô Helen đã được người đối thoại cho biết rằng ngài Thủ tướng “đang khó ở” và không muốn nghe điện thoại của bất kỳ ai gọi đến. Cô ấy đưa cho D. Marnin cái ông nghe và anh vội gào lên:
- Ce n ’est pas possible. Il est très urgent que que L’ambassadeur parle ave le Premier Ministrle. [30]
Khi điều này cũng chẳng có tác dụng gì, anh đành yêu cầu được gặp Thiếu tá Đổng, một trong các phụ tá của tướng Khánh hoặc ông Luyện, Chánh văn phòng. Thế nhưng cả hai người này đều không có mặt ở đấy.
Ngài Bilder đã bước vào trong phòng làm việc của ông Đại sứ trước Marnin. Vào thời điểm đó, ngài Bilder đang bị mắc căn bệnh dị ứng với ánh mặt tròi vùng nhiệt đới nên ông ta có cả chục cái bớt đỏ rất kỳ quái trên da đầu và trên trán. Cùng với nó là tình trạng thê thảm trong cả tình hình chính trị và quân sự lẫn những khó khăn không thể vượt qua khi phải làm việc với Đại sứ Sedgewick đã khiến cho những ngày cuối cùng của ông ấy trong nhiệm kỳ tại Sài Gòn trở nên quá đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Thực tế là ông Bilder không nhận được sự tôn trọng từ Đại sứ Sedgewick và D. Marnin nghĩ rằng chính điều này đã trở thành nỗi đau khổ dày vò ông ta nhiều nhất.
Khi ông Đại sứ thông báo về tin mới nhận, ngài Bilder cũng không dám tin vào tai mình nữa
- Làm sao chuyện ấy có thể xảy ra mà chúng tôi lại không biết chứ - ông ta buột miệng thốt lên.
- Đó cũng chính là điều mà tôi muốn biết đấy - Đại sứ Sedgewick trả lời với ngụ ý rằng ông Bilder đã lơi lỏng trong công việc của mình khiến cho chuyện này xảy ra.
D. Marnin phá vỡ sự im lặng nặng nề giữa hai người bọn họ. Anh thông báo là Phủ Tổng thống từ chối mọi yêu cầu từ Đại sứ quán Mỹ bởi vì ngài Thủ tướng không nghe điện thoại.
- Đ. mẹ cái thằng con hoang ấy. Khi tao muốn nói chuyện với nó mà nó không thèm nghe tao hay sao. - Đại sứ Sedgewick gầm lên đầy bực tức.
Ông ta như vồ ngay lấy chiếc điện thoại màu đỏ và quát ầm ầm vào đó:
- Tôi là Đại sứ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đây. Tôi phải nói chuyện với tướng Khánh. Đây là trường hợp khẩn cấp... Tôi chẳng thèm quan tâm là ông ta có khó ở hay không. Tôi cũng Đ. thèm quan tâm nếu như nó có phải nằm trên giường và có đang trăng trối gì đi nữa. Tôi có một bức thông điệp khẩn của ngài Tổng thống Hoa Kỳ và tôi muốn nói chuyện ngay với nó.
Vậy nhưng cho dù ông ta có cáu giận điên cuồng như thế nào đi nữa với người trả lời ở đầu dây bên kia thì ông ta cũng chẳng thể làm được gì hơn D. Marnin lúc trước.
- Thằng ngu này điên thật rồi! một thằng điên chó chết! - vừa gào lên tuyệt vọng, ông Đại sứ vừa chạy loanh quanh trong phòng làm việc - Nó sẽ không yên thân được vì chuyện này đâu! Tôi sẽ bắt nó phải trả giá! Nó sẽ phải ân hận vì điều này.
Với cương vị như ông Sedge wick thì việc nói tục, chửi bậy mà đặc biệt là trước mặt các quý bà, quý cô hay cấp dưới là không thể chấp nhận được. Mặc dù trong những lời nói mang tính cách cá nhân mà ông Đại sứ đôi lúc vẫn hay nói như “chó chết” hay “mẹ kiếp” đã được xem là không tương xứng với phẩm giá của một chính trị gia ở Masachusetts nhưng cũng còn có thể tạm bỏ quá được và sau gần 9 tháng được làm việc cùng ông ta và họ cũng đã trải qua cả hơn bốn lần âm mưu đảo chính và hai vụ ám sát trong đó có cả một Tổng thống của một đất nước, nhưng đây đúng là lần đầu tiên D. Marnin nghe thấy ông ấy chửi “Đ. mẹ”. Đại sứ Sedgewick đập cả bàn tay lên cái nút gọi điện thoại nội bộ và ra lệnh cho Helen Eng:
- Hãy nối máy cho tôi với Bộ trưởng Ngoại giao.
Ông ta tiếp tục đi đi lại lại trong phòng một cách bực bội.
- Bộ truởng Ngoại giao cũng đang khó ở - Helen Eng trả lời vội vã - Ông ta không nghe bất cứ cuộc gọi nào khác. Ông ta đang ở nhà để chữa bệnh.
- Cô... chó chết thật... cô hãy gọi lại cho họ và bảo họ rằng Đại sứ Hoa Kỳ sẽ đi ngay đến nhà Bộ trưởng Ngoại giao bây giờ. Tôi sẽ lôi cổ cái thằng con hoang ấy ra khỏi giường nếu như nó chưa chết hẳn. Tôi sẽ bóp cổ nó cho nó chết luôn đi. Tôi sẽ đi ngay bây giờ và sẽ tới đó trong 5 phút nữa.
Nói rồi, ông ta quay về phía D. Marnin và nói tiếp:
- Cậu cũng đi vói tôi. Tôi cần một ngưòi ghi biên bản.
- Tôi sẽ gọi điện về cho Washington chứ, thưa ngài - ông Bilder lúng túng hỏi.
Đại sứ Sedgewick dừng lại và dướn người lên cau mày.
- Anh không được làm bất cứ việc gì mà không được sự cho phép của tôi hiểu chưa?
- Vâng, thưa ngài.
- Chẳng lẽ anh lại không nghĩ rằng tôi muốn nhận những cái lệnh từ Nhà Trắng là phải ngăn cản cái chuyện chó chết mà bây giờ chính tôi cũng đang phải cầu khẩn để nó đừng xảy ra hay sao? Nếu như điều tồi tệ nhất xảy ra, tôi muốn tất cả chúng ta trả lời rằng chúng ta chẳng biết gì về nó cả.
Ngài tân Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Đô đốc Nguyễn Thân Đình là một sỹ quan Hải quân cao cấp nhất trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa sống tại một ngôi biệt thự nguy nga tráng lộ với bôn cây lan dạ hương rất to trên đường Lê Quý Đôn yên ả gần Đại sứ quán Mỹ. Một chiếc xe limousine hiệu Cadillac và một chiếc Mercedes 450 Coupe đang đậu ngay trước cổng vào. Đô đốc Đình là một trong số hiếm hoi các sỹ quan chỉ huy của ARVN có thể nói thạo tiếng Anh mặc dù thi thoảng vẫn có lỗi, nhất là lúc xúc động quá. Trên thực tế, anh ta đã tốt nghiệp với số điểm cao nhất trong một khóa học đào tạo các sỹ quan hải quân cao cấp dành cho người nước ngoài tại Học viện Hải quân Mỹ ở Newport. Trước đó hai người chưa từng gặp nhau lần nào cho nên Bộ trưởng Đình đã nhầm Đại sứ Sedgewick, một quý ông thuộc dòng họ Brahmin ở Boston vói những người họ hàng gần của ông ta ở New England. Anh ta chào ngài Đại sứ như thể giữa họ đã là những người rất thân thiện rồi vậy.
- Ông bạn quý hóa của tôi - anh ta nói - chào mừng ông đã quá bộ ghé qua căn nhà xoàng xĩnh này của tôi. Đây đúng là một vinh dự lớn lao.
Anh ta đang mặc một bộ com-lê bằng lụa màu sang được may rất cầu kỳ với một chiếc áo sơ-mi màu trắng ở bên trong có gài bộ khuy măng-sét đính những viên ngọc trai màu đen và đeo một chiếc ca-vát bằng xa tanh màu đen bóng. Họ được một viên thiếu úy Hải quân đồng thời là phụ tá của ngài Bộ trưởng dẫn vào phòng khách. Một chiếc điều hòa nhiệt độ đang chạy hết công xuất kêu ù ù ở góc phòng. Chiếc máy quay đĩa đang phát ra bài hát “Je ne regertte rien” [31] với giọng của ca sỹ Edith Piaf. D. Marnin thoáng chút băn khoăn không hiểu rằng đây có phải là chuyện tình cờ hay không. Vị Bộ trưởng ngồi chễm trệ trên một chiếc ghế bành bọc da to quá khổ còn hai vị khách người Mỹ được mời ngồi trên một chiếc ghế sô pha màu trắng quá đồ sộ. Trong góc phòng là một chiếc tủ lạnh hai cánh, một thứ đồ hết sức xa xỉ ở Sài Gòn thời gian này.
- Ngài Bộ trưởng - Đại sứ Sedgewick bắt đầu đặt vấn đề - tôi xin lỗi vì phải quấy rầy ngài tại nhà riêng khi ngài vẫn chưa được khỏe.
Bộ trưởng Đình, người nhìn bề ngoài có lẽ chẳng bao giờ được khỏe như lúc này, nghe thấy vậy bỗng bật cười ngoác đến tận mang tai và e dè kiểu rất bồn chồn.
Ông Sedgewick cùng nhìn anh ta và cười châm biếm.
- Ngài Bộ trưởng, tôi tới đây trong một tình huống hết sức khẩn cấp, một tình huống mà có thể ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa hai nước chúng ta và nó có thể sẽ sinh ra nhũng hậu quả tồi tệ nhất đối vói những nỗ lực của chúng ta trong cuộc chiến chống lại bọn Cộng sản ở đất nước này. Chúng ta là đồng minh, Ngài Bộ trưởng ạ.
- Là những đồng minh gần gũi và thân thiết nữa chứ, ngài Đại sứ.
- Chính phủ của các ngài, nếu tôi buộc lòng phải tin vào những thông tin mà chúng tôi có được, chuẩn bị phạm phải một sai lầm lớn nhất nên tôi buộc phải kêu gọi các ngài hãy cẩn thận và chúng tôi sẽ phản đối ở mức cao nhất. Người em trai Tổng thống Diệm, ông Ngô Đình Cẩn đã tình nguyện đầu hàng Tổng lãnh sự quán Mỹ hôm mùng 5 tháng 11 năm 1963 và đã yêu cầu được hưởng quy chế tị nạn chính trị. Trong khi, hai người anh của ông ấy đã bị giết chết một cách dã man - chỉ hai ngày trước đó. Như ngài biết, ngài Bộ trưởng, vụ giết hại Tổng thống Diệm đã khiến cho cá nhân tôi cũng như Tổng thống Kennedy và Phó Tổng thống Johnson thật sự bàng hoàng. Và nó đã là một trong những quyết định khó khăn nhất của tôi trong suốt thời gian làm Đại sứ tại Việt Nam Cộng hòa, tôi phải lấy tư cách cá nhân để đồng ý chuyển ông Cẩn cho Chính quyền của các ngài, một điều luôn đi ngược với hy vọng và ý nguyện của ông ấy.
Thực tế là tôi đã chỉ đồng ý như vậy sau khi nhận được sự bảo đảm từ tướng Trần Văn Bích là ông ấy sẽ được đối xử một cách cồng bằng theo đúng các tiêu chuẩn về luật pháp đã được Quốc tế công nhận và sẽ không có điều gì làm tổn hại đến thân thể ông ấy cho tới khi ông ấy được xét xử bởi một tòa án hết sức công tâm. Hai tuần trước đây, khi Hội đồng Cách mạng quyết định tử hình đối vói Cẩn và Dã, tôi đã hết sức bàng hoàng. Tôi đã nói điều này với tướng Khánh, người bảo tôi tới gặp tướng Minh, người đang đứng đầu nhà nước và cũng là người có quyền hủy bỏ án tử hình. Vì thế, tôi đã tới gặp tướng Minh và được ông này cho biết rằng ông ấy chẳng có chút quyền lực nào hết nên cũng không thể giúp cho những người bạn cũ của ông ấy thoát khỏi cảnh bị giam lỏng tại nhà. Nhưng ông ấy cũng khuyên tồi nên tới gặp Hòa thượng Thích Trí Bình để để xuất vấn đề này với tướng Khánh vì ông Khánh rất cần sự ủng hộ của những người trong phái Phật giáo. Tôi đã nói chuyện này với ông Bình và một lần nữa với ông Khánh rồi cả hai người này đều nói với tôi rằng sẽ chưa có hành động vội vàng nào hết mặc dù họ đều cho đó là vấn đề khá phức tạp.
Đến hôm nay, tôi được biết là mặc dù chưa được cảnh báo trước nhưng Ngô Đình cẩn và Đinh Triệu Dã sẽ bị đưa ra hành quyết vào cuối giờ chiều. Ông thử nghĩ xem chuyện này đã khiến cho tôi ra thế nào chứ?
- Tôi đã nói với tướng Khánh - Đô đốc Đình ngắt lời - rằng sẽ là cực kỳ ngu ngốc khi thực thi bản án này mà không giải thích tường tận với người Mỹ các ông. Tôi đã bảo ông ấy rằng bọn họ sẽ không hiểu rằng họ chỉ nghĩ đến những gì như là ngài vừa nói là quá tàn bạo.
Rồi một lần nữa anh ta lại nở một nụ cười nhăn nhó.
- Nó không chỉ là quá tàn bạo đâu - Ông Sedgewick nói - mà còn là quá ngu ngốc nữa. Nó sẽ khiến cho các anh bị mất niềm tin ở Mỹ và cả trên thế giới nữa. Hãy để tôi nhắc nhở anh rằng - nếu như tôi có thể, các anh hãy nhìn xem hiệu quả ghê gớm của sự hy sinh của mấy nhà sư hồi năm ngoái đã gây nên phản ứng dữ dội như thế nào trên thế giới cả Washington nữa. Có một câu hỏi mà anh và tướng Khánh nên tự chất vấn bản thân mình là liệu rằng Ngô Đình Diệm có bị lật đổ ở đất nước này không nếu như những nhà sư ấy không hy sinh mạng sống của họ. Trong sự nghiệp của mình, tôi đã tự nguyện phấn đấu để trở thành một người chống chủ nghĩa thực dân. Tôi vẫn tin tưởng rằng người dân của các nước Châu Phi và Châu Á đều có đủ khả nãng điều hành đất nước mình. Khi Washington hỏi tôi về những bản án tử hình này, tôi đã nói rằng tướng Nguyễn Khánh và bản thân ngài, ngài Bộ trưởng ạ, sẽ không cho phép bản án được thực thi. Bởi vì các ngài là những người thuộc thế hệ mới ở Nam Việt Nam, một thế hệ luốn đặt mục tiêu chống lại bọn VC làm ưu tiên hàng đầu.
- Ông đã rất đúng đấy, thưa quý ngài đáng kính, rất đúng nữa ấy chứ - Đình nói xen vào.
- Hơn thế nữa, trong khi những người có thể hiểu về vụ việc này đều chống lại ông Cẩn - và tôi cũng đã từng nghĩ rằng ông ta không thể coi là vô tội được - thế nhưng việc kết tội thư ký Dã là hoàn toàn không cần thiết. Anh ta chắc chắn là chưa làm gì tồi tệ đến mức độ phải bị hành hình như thế.
- Tôi đồng ý với ngài, thưa đức ngài tôn kính, tôi đồng ý đến hai trăm phần trăm ấy chứ. Dã là một người bạn thân của tôi. - Anh ta lại cười rất to nhưng cũng rất nhăn nhó rồi lắp bắp nhắc lại - một người bạn rất thân...
Nhắc đến đây, anh ta lấy ngón tay lau nhẹ lên mí mắt như thể muốn gạt đi những giọt nước mắt nhưng thực tế là mắt anh ta vẫn khô khốc như những cồn cát ở miền Trung Việt Nam vậy.
- Khi Hội đồng cách mạng quyết định áp một bản án tử hình - Đại sứ Sedgewick nói - Tôi chắc chắn là cả ông và tướng Khánh đều nắm được điều này. Với tư cách cá nhân thì đây đúng là chuyện quá tồi tệ xảy ra với tôi, ông Bộ trưởng ạ, quá tồi tệ.
- Thưa quý ngài, ngài đã rất thẳng thắn vói tôi. Tôi rất thích điều đó. Tôi cũng nói thẳng với ngài thế này nhé. Để tôi đưa cho ngài xem lá thư của tôi mà tôi chưa công bố này vậy.
Viên Đô đốc cho tay vào túi áo trong rồi đưa cho Đại sứ Sedgewick một chiếc phong bì có đánh dấu niêm phong của Bộ Ngoại Giao. Đấy là một bức thư bằng tiếng Việt được viết bằng tay của Đình gửi cho tướng Nguyễn Khánh. Đại sứ cầm lấy rồi đưa luôn lá thứ cho Marnin, người có vốn tiếng Việt cũng nghèo nàn đến độ đủ để đi lang thang khắp các vũ trường, nhà hàng, quán ba ở Sài Gòn mà mặc cả với mấy cô gái bồi bàn. Tuy nhiên họ cũng đủ hiểu đó không phải là một văn bản chính thức có hiệu lực pháp lý nào đấy. D. Marnin khẽ nhún vai tỏ vẻ không hiểu gì cả rồi đưa trả lá thư đó cho ông Bộ trưởng.
- Đây là đơn xin từ chức của tôi - Đô đốc Đình nói - tướng Khánh là một thằng điên. Đây chẳng qua chỉ là sự trả thù thôi, một sự trả thù đểu cáng đấy, thưa quý ông đáng kính. Làm việc với một thằng thù vặt như thế sẽ rất khó cho tôi. Tôi sẽ từ chức đấy thưa ngài.
- Anh từ chức thì có đem lại cái gì đâu cơ chứ. Vấn đề của chúng ta bây giờ là phải dừng ngay vụ hành quyết này lại chứ không phải là cho anh ra khỏi Chính phủ. Tôi không muốn anh phải từ chức. Tôi muốn cứu ông Cẩn và cậu Dã kia.
Khi viên Bộ trưởng trở nên quá xúc động, khuôn mặt anh ta đỏ lựng nên và khả năng nói tiếng Anh của anh ta cứ kém dần đi.
- Chúng tôi đã cãi nhau với ông ấy mấy tiếng liền. Cuối cùng ông ấy đứng dậy và bảo là ông ấy sẽ đi săn. Ông ấy đi Đà Lạt. Và khi mà ông ấy quay về thì hoặc là hai đứa con hoang ấy phải chết hoặc là ông ấy sẽ không còn làm Thủ tướng nữa. Nếu chúng tôi không thích thế thì cứ việc tổ chức một cuộc đảo chính khác mà lật đổ ông ấy đi là xong chuyện. Đó là tất cả những gì mà ông ấy đã nói đấy. Vậy là tôi chẳng thể làm được gì vào lúc này hết. Không gì hết! Tôi cũng không thể tổ chức được một cuộc đảo chính. Tôi thuộc lực lượng Hải quân chứ không phải Lục quân.
- Vậy thì anh hãy xắp xếp để cho tôi nói chuyện với tướng Khánh đi - Đại sứ Sedgewick nói - chúng tôi đã hợp nhau lắm. Ông ấy nhất định sẽ nghe lời tôi.
- Ông ta đang ở tít trong một khu rừng nào đó gần Đà Lạt và đi săn hổ với mấy người dân tộc thiểu số rồi. Ông ấy không có máy bộ đàm. Không thể liên lạc được. Đó cũng chính là lý do ông ấy muốn không để ngài nói chuyện được với ông ta.
Ông Đại sứ ngồi chết lặng ra đấy. Khuôn mặt ông ta chảy thuột ra cay đắng. Viên Bộ trưởng đưa tay chỉnh lại cái ca-vát đeo trên cổ cho ngay ngắn.
Đại sứ Sedgewick đứng dậy một cách nặng nhọc.
- Các người là một lũ chó chết. - Ông ta gầm lên rồi đùng đùng nổi giận bước ra khỏi nhà. D. Marnin vội vã cầm lấy quyển sổ, cây bút và cả chiếc cặp lẽo đẽo chạy theo đằng sau.
- Ngài đã không để ý đến cái ca-vát đó hay sao? - D. Marnin nói khi họ đã ngồi vào trong xe - anh ta đã mặc sẵn một bộ đồ tang rồi.
D. Marnin cùng đi với Đại sứ Sedgewick đến khu cư xá ngoại giao đoàn rồi nhận chỉ thị của ông ấy. Khi quay về phòng làm việc, anh vội gọi điện thoại đi mấy nơi rồi lại dùng luôn chiếc xe Checker và người lái xe riêng của ông Đại sứ đi thẳng đến dinh Tổng thống gặp ông Luyện - Chánh văn phòng. Họ gặp nhau ở ngay ngoài cổng chính nên ông Luyện hiểu ngay ra rằng anh đã đến đấy trên danh nghĩa là đại diện cho ngài Đại sứ Mỹ bởi dù sao anh chỉ là một viên chức ngoại giao cấp FSO-8, cấp ngoại giao thấp nhất trong Đại sứ quán Mỹ.
- Vậy là, ông Marnin, ông có gì cho tôi biết đây?
- Vâng, thưa ngài - D. Marnin trả lời - tôi được ngài Đại sứ Sedgewick cử đến đây. Ông ấy giao cho tôi chuyển một bức thông điệp. Ông ấy nói rằng tôi phải báo cho ngài biết là ông ấy lấy làm thất vọng trước một hành động thiếu trách nhiệm và phi pháp như thế. Và rằng Chính phủ Mỹ cũng rất thất vọng vì điều này. Chúng tôi sẽ không thể chấp nhận và sẽ cực lực lên án một hành động dã man như vậy. Ông ấy hy vọng rằng Chính phủ của các ngài sẽ nhìn nhận thấy những lý do để ngừng ngay việc này lại trước khi quá muộn.
- Tôi cũng chẳng thể làm được gì cả - ông Luyện trả lời trong tiếng thở dài ngao ngán.
Họ đứng im nhìn nhau tại đó chừng gần một phút. Cuối cùng ông Luyện quay đầu rảo bước đi vào trong dinh Tổng thống mà không thèm quá bộ đưa D. Marnin qua mười bậc thang cuối cùng ra đến tận cổng đúng như nghi thức bắt buộc của người Châu Á.
Mặt trời đã ngả hẳn sang phía Tây và cái bóng của bức tường cao ngất đã từ từ chiếm hết khoảng sân trước nhà tù, nơi có đến hơn 30 người tới chứng kiến buổi hành quyết. Đúng 5 giờ 15 phút, người ta đã ngồi kín cả mấy dãy ghế được kê sẵn ở đó. Không có một người nước ngoài nào trừ anh chàng Claudio được phép có mặt ở đó - có thể anh ấy đến đây với tư cách là người đại diện cho những người cùng làm ăn ở đây. Điều này đã khiến cho nhiều người tin rằng những tay anh chị người Hoa trong giới giang hồ chính là những kẻ đứng đằng sau vụ hành quyết này.
Ngô Đình Cẩn là người đầu tiên được đưa đến. Ông ta được mấy người tù khênh ra trên một chiếc cáng và được đặt ngồi xuống gần chiếc cột rồi được hai vị linh mục mặc áo choàng đen làm lễ rửa tội cho. Bệnh đái tháo đường của ông ta ngày một trầm trọng thêm và trong phiên tòa xét xử cơn đau tim đã từng khiến cho ông ta bị đột quỵ. Cũng giống như mấy người anh là ông Diệm và ông Nhu, ông Cẩn nghiền thuốc lá rất nặng cho nên ông ta đã đề nghị được hút một điếu Salem cuối cùng trong đời. Ông ta hút điếu thuốc cháy đến tận đầu lọc. Hai vị linh mục vẫn tiếp tục cầu nguyện cho ông ta trong suốt cả thời gian của buổi hành quyết. Ông Cẩn đưa ra lời đề nghị cuối cùng là không bị chùm kín đầu khí xử tử nhưng không được chấp nhận.
Họ trói chặt hai bàn tay ông ta ra sau cột. Do không thể đứng dậy được nên ông ta phải ngồi trên một cái ghế rất bẩn thỉu. Họ lại phải dừng lại một lát rồi dựng ông ấy lên và lần này thì trói chặt hai khuỷu tay ông ấy ra đằng sau để ông ấy có thể ngồi thẳng lên cho dễ ngắm bắn.
Trước lúc đó, Thiếu tá Đông người chịu trách nhiệm thực thi bản án đã trùm lên đầu ông ta một cái túi vải màu đen, Ngô Đình Cẩn kêu lên một cách yếu ớt:
- Việt Nam Cộng hòa muôn năm!
Mấy người ngồi xem vỗ tay lịch sự như đang cổ vũ cho một trận đấu tennis.
Trong tiểu đội hành quyết có tất cả 10 người. Trong loạt đạn đầu tiên họ đã không thể hiện được độ chính xác cao lắm. Ông Cẩn bị trúng đạn vào đùi, vào ngực, vào bụng và ít nhất bị hai viên khác trúng vào đầu. Những người thực thi công lý đã rất đúng khi từ chối yêu cầu của ông ấy được chết mà không bị bịt mắt.
Thiếu tá Đông đã rất lúng túng vì hiểu rằng ông Cẩn đã bị bắn cả vào đầu và điều này sẽ khiến cho việc thực thi phát súng ân huệ là không còn thích hợp. Anh ta quay lại chửi mắng thậm tệ mấy tên lính thuộc quyền bằng những từ ngữ thô tục nhất trong từ ngữ tiếng Việt. Bởi vì đây đúng là cơ hội để mấy đám lính tráng cười vào mặt anh ta và bản thân anh ta cũng cảm thất xấu hổ vì phải bắn một phát súng cuối cùng vào đầu của một người chết rồi. Mấy người tù lúc trước lại lặng lẽ khiêng xác ông Cẩn trên chiếc cáng hồi nãy ra khỏi trường bắn. Hai vị linh mục vẫn tiếp tục cầu nguyện. (Mẹ ông ta, người vẫn sống trong ngôi nhà của họ ở Huế nơi trước kia hai mẹ con họ đã sống cùng nhau hơn mười năm trời, cũng qua đời chỉ một tuần sau đấy, đã có ba đứa con trai của bà ta bị hành quyết chỉ trong thời gian chưa đến 7 tháng qua).
Mười lăm phút sau đó đến lượt Đinh Triệu Dã bị áp giải đến. Anh ta mặc một chiếc quần kaki, một cái áo sơ-mi cộc tay và cả hai bàn tay đều đã được cuốn băng trắng toát. Anh ta bước đi với hai cánh tay bị bẻ quặt ra sau lưng và một nụ cười hoang dại như cố nở ra trên môi. Anh không được đám sỹ quan có mặt ở đó ưa cho lắm.
- Chúng mày là một lũ lợn. Chúng mày là một lũ chó chết.
Cho tới lúc đó, đám khán giả vẫn còn chút xúc động và một phần thương cảm nhất định. Họ đều biết là họ đang tham gia vào một cuộc thanh toán mang màu sắc băng đảng cá nhân. Có thể vì thế mà khi Dã vừa thốt lên mấy lời đó, bọn họ đã đứng cả dậy và mặc sức xỉ vả anh ấy. Họ chửi bới anh ta như một loài ác quỷ. Dã đã gào lên điều gì đó với họ nhưng tiếng nói của anh ta cũng bị chìm vào tiếng chửi rủa và xỉ vả của cả đám đông. Trước đây, Dã vốn là một người rất mềm tính. Chưa từng có ai thấy anh nổi giận hay cáu gắt bao giờ. Giống như Ngô Đình Cẩn, anh cũng đề nghị không phải bịt mặt, nhưng yêu cầu đó cũng không được chấp nhận. Họ trói anh đứng thẳng lên và nhanh chóng cố định anh vào đúng tư thế rồi đồng loạt ngắm bắn. Những viên đạn đã tạo thành một vòng tròn màu đỏ trên ngực áo phía ngoài trái tim con người đó. Mặc dù chẳng cần phải làm thế nhưng lần này Thiếu tá Đông cũng rất lấy làm mãn nguyện khi được thực hiện phát súng ân huệ theo đúng ý nghĩa của nó. Không giống ông Cẩn, thi thể của Dã bị mấy người tù buộc dây vào khủy tay lôi đi xềnh xệch như thể người ta lôi xác chết của một con bò ra khỏi đấu trường vậy.
Tất cả chuyện đó đã diễn ra rất nhanh. Đám đông cũng giải tán trong im lặng, có người đi thẳng về nhà còn có người lại đi tới những quán bar trên đường Rue Catinat và kể cho người khác nghe về cuộc hành quyết buổi chiều hôm đó.
D. Marnin thẫn thờ ngồi đó mà nghe chính Claudio thuật lại một cách tỉ mỉ toàn bộ sự việc này.
- Cậu có hạy đến xem người ta xử bắn không? - Claudio hỏi D. Marnin rồi tự nói luôn - chưa bao giờ tôi thấy người ta làm như thế bao giờ cả.
Bọn họ ngồi trong quán bar “Những đóa hồng ở Texas” cùng với hai cô bạn gái của Claudio là Rubi Ky và Heddy Lamarr. D. Marnin đã say khướt từ lúc nào không biết mặc dù anh dã đề nghị người phục vụ pha rất loãng rượu whiskey trước khi mang tới cho anh. Anh đã bắt Claudio phải kể đi kể lại cho anh nghe đến ba, bốn lần liền tới tận lúc anh cảm tưởng như anh có thể nhìn thấy và ngửi thấy tất cả những gì đã xảy ra.
- Lũ con hoang - anh tự lẩm bẩm với mình - một lũ con hoang bẩn thỉu.
Trong cái quán bar sặc mùi dâm đãng ấy, bỗng nhiên anh cảm thấy như mình thật lạc lõng và trống rỗng ê chề. Tất cả những gì đã xảy ra cứ liên tục hiện về trước mắt anh như những con sóng biển khổng lồ muốn nhấn chìm linh hồn anh xuống địa ngục của tội lỗi và sự ân hận. Lương tâm anh đang hành hạ anh như thể chính anh là tên lính thứ 11 trong cái tiểu đội vừa cầm súng bắn chết người bạn ấy của anh vậy.
[30] Không thể như thế được, việc rất gấp ông Đại sứ muốn nói chuyện với ngài Thủ tướng.
[31] Tôi chẳng hối tiếc gì cả.