Chương 21
Cái Chết Của Tên Du Đãng

Ông biện lý của nhà vua George Phana. thơm phức, khuy áo cài một đoá hoa trắng, theo sau là ông cò Kattran, bước vào vào căn nhà nơi phát giác ra xác của tên du đãng và con bé vị thành niên.
Căn nhà này cách căn nhà tổ phụ của Brahim chừng vài trăm thước, ở cùng một con đường không lề của xóm ngoại ô Baricat.
Vài toán cảnh binh, lính và cảnh sát tư pháp, đầu đội mũ sắt, đã vây xóm này từ rạng đông.
Nơi đây đầy ứ những cảnh sát và lính, đúng như trong những ngày đình công, như vào thời Partacus, cha của tên du đãng.
Căn nhà nơi xảy ra tấm thảm kịch giống y như căn nhà của Brahim sinh trưởng.
Nhà này nằm trong một cái sân, khuất sau những cây ăn trái, với tường trắng, quét vôi, mái ngói đỏ. Những cây hồng leo đến tận mái nhà. Một sợi dây dài phơi quần áo, nhiều buồng nhỏ phía sau nhà.
Ông cò theo sau ông biện lý vượt qua ngạch cửa. Chỉ có một phòng duy nhất. Sàn nhà bằng ván thông, bóng lộn vì sạch sẽ, tường sơn trắng.
Một cửa sổ bỏ màn ren, vài chậu hoa đỏ để trên bờ thành bên ngoài.
Ở trong cùng căn phòng có một cái giường lớn, còn dùng được.
Trên giường, hai xác chết: Mark Brahim mặc bộ quần áo xanh lao động, và bên cạnh Brahim, Lapheu, mặc áo choàng trắng.
Hai người ôm chặt nhau.
Người này dấu đầu mình trong cánh tay của người kia, giống như, khi chết, họ muốn hai thi thể của họ sẽ hoà lẫn vào với nhau.
Trong nhà không khí nặng nề, một viên cảnh sát mở cửa sổ và làm bể một chậu hoa đỏ.
Các phóng viên phải ở lại ngoài sân. Chỉ có các nhiếp ảnh viên của cành sát mới được phép vào bên trong mà thôi.
Sau khi đã chụp hình xiong, cảnh sát tách rời hai thi hài và đặt nằm riêng ra. Công việc khá khó khăn. Phải đến ba nhân viên cảnh sát mới đủ sức tách rời hai xác ôm nhau chặt cứng.
Họ quấn vào nhau như những rễ cây.
Một viên cảnh sát thưa:
− Thưa xếp, không thể tách rời họ ra mà không làm sứt da thịt được.
Khi chết, hai người ôm chặt lấy nhau đến nỗi người ta tưởng chừng như họ bị hàn liền với nhau vậy! Xếp hãy nhìn ngón tay họ bấu sâu vào da thịt nhau.
Ông có Kattran kêu lên:
− Đúng tên Baricat đây. Tôi vừa mới sợ là mình bị lầm, nhưng đúng nó rồi.
Con ranh con cũng đúng nữa, tôi nhận ra nó. Con bé này còn được nguyên vẹn khá hơn.
Tên du đãng thì một phần đã bị hư, từ dưới hầm muối. Hiện giờ, sau khi chết rồi, nó chỉ tiếp tục hư rữa ra mà thôi.
Ông cò Kattran vừa càu nhàu như vừa tìm cái gì.
Ông nhìn xuống chân giường, gần tường, xem cái túi sách của tên du đãng. Kho tàng có lẽ ở trong đó.
Gương mặt của ông cò vụt sáng lên.
Ông cho phép các phóng viên vào, sau khi đã để riêng một bên cái túi sách nặng trịch vàng bạc dưới một tấm vải phủ.
Trong lúc các nhà báo chụp hình hai xác chết. Ông cò và ông biện lý ra trước nhà - Một ngọn cỏ cao nghệu - Chưa bao giờ bị dẫm lên - Xâm lấn cái sân nhỏ tiến vào tận ngưỡng cửa cái.
Trước nhà một ông già bị còng tay đứng giữa hai cảnh binh đang đợi.
Một viên cảnh binh thưa:
− Thưa xếp, đây là chủ nhà.
− Đúng, tôi là chủ nhà. Nhưng ba mươi năm nay tôi không còn ở trong ngôi nhà này nữa. Tôi để cho mướn hàng tháng hoặc hàng năm, không có đồ đạc.
Ông biện lý hỏi:
− Người sau cùng ông cho mướn là ai?
− Người mướn nhà sau cùng làm tại sở hoa? xa. Hắn mướn sáu tháng, hắn trả tiền nhà hàng tháng cho tôi đều đặn.
Người chủ nhà khóc oà lên:
− Tôi không thấy gì là có tôi cả. Tôi là một người lương thiện.
Người mướn nhà tôi có đủ giấy tờ hợp lệ. Ông trưởng đồn cảnh sát đã trông thấy. Người mướn nhà tôi đã đến trình ở cảnh sát cuộc đúng theo luật lệ bắt buộc.
Ông trưởng đồn cảnh sát sẽ xác nhận với ông điều này. Tôi không có tội.
Tôi biết Mark Brahim như tất cả mọi người trong xóm biết nó, không hơn không kém.
Ông trưởng đồn cảnh sát phố Baricat giải thích:
− Đúng là ngôi nhà này cho mướn hạn sáu tháng. Tờ cho mướn nhà đã làm theo thời hạn dự định, tại cảnh sát cuộc. Người mướn nhà đã hiện diện trước mặt chúng tôi. Hắn đã trả đủ lệ phí, hắn đã ký tên.
Ông biện lý hỏi tiếp:
− Người mướn nhà ấy hiện ở đâu? Anh có gặp hắn không?
− Thưa có, Tại địa phương của chúng tôi, luật lệ khắc khe hơn ở nơi khác. Tôi cho gọi người mướn nhà mới đến đồn cảnh sát. Tôi đã thẩm vấn, kiểm soát các giấy tờ của hắn. Bắt hắn đem đồ đạc đến.
Tất cả mọi người đều trông thấy hắn, tất cả mọi người đều biết hắn. Đó là một công chức sở hoa? xa.
Ông có Kattran lên tiếng:
− Mọi người đã trông thấy và biết hắn, và sau khi cảnh sát đã kiểm chứng lý lịch của hắn, nhưng giờ đây, người ta biết hắn không còn ở trên đời này nữa.
Không có người công chức hoa? xa nào mang tên đó cả.
Những giấy tờ mà anh xem là giả. Người mướn nhà, đã dọn đồ đạc đến và đã trình diện tại đồn cảnh sát là một tên đồng loã của bọn du đãng.
Cái nhà này là một ổ du đãng.
Anh, với tư cách là một trưởng đồn khu phố, anh phải biết chuyện này.
Người chủ nhà tiếp:
− Vì là ông trưởng đồn không thấy vẻ gì là nghi ngờ cả, và tôi không phải là cảnh sát, tôi xin lỗi đã không biết thật giả trong trường hợp người mướn nhà này.
Vậy tôi yêu cầu quý ông trả tự do cho tôi. Tôi không có tội, hoàn toàn vô tội.
Ông cò Kattran nói:
− Chúng ta sẽ xem lại sau coi nếu anh biết hay thật tình anh không biết mà cho những tên du đãng mướn nhà anh!
Ông ta ra lệnh cho các cảnh sát viên:
− Mấy người hãy đem người đàn ông này về sở cảnh sát đô thành. Hãy giữ kỹ nó, hãy thẩm vấn nó và không được thả nó ra trước khi nó thú nhận.
Trong khi người chủ nhà bị dẫn ra xe cảnh sát vừa bị đòn túi bụi, cò Kattran liền cắt nghĩa cho ông biện lý hiểu:
− Tất cả dân chúng ở xóm này đều có tinh thần phản động. Đó là những kẻ thù địch của cảnh sát, nên cũng lả kẻ thù của Thượng đế và của vũ trụ. Kẻ nào không ưa cảnh sát là phạm tôi. Nếu tôi bắt tất cả những công dân trong xóm ngoại ô này để gởi họ xuống hầm tù khổ sai, tôi cũng không có làm điều gì là phi pháp.
Trong lúc ấy, các phóng viên bị đuổi ra khỏi nhà. Cảnh sát đã cho phép họ ba phút để chụp hình hai thi hài nạn nhân, ba phút đã trôi qua. Các cảnh binh xua nhà báo ra vườn.
Sở kỹ thuật và cò Kattran tham dự vào việc kê khai.
Trên giường, hai thi hài được đắp lại bằng một tấm vải trắng.
Cạnh giường có cái túi đựng kho tàng. Cò Kattran xem xét bên trong cái túi của Brahim.
Túi này đựng những hộp giấy cứng bên trong chứa đầy vàng, những xấp giấy bạc dollar Mỹ, đồng Franc Thuỵ Sỹ, dầy cộm như quyển thánh kinh, nhiều hộp sắt khác thì đựng ma tuý.
Cò Kattran bảo:
− Chúng ta đem về kê khai tại sở cảnh sát đô thành.
Các anh hãy để lại đâu vào đó và hãy tiếp tục xem.
Đúng theo luật lệ cảnh sát được quyền hưởng ba phần tư kho tàng này, thêm lệ phí điều tra, tính trực tiếp trên số chiến lợi phẩm.
Hơn nữa cò Kattran sẽ nhận vài triệu của Sở ngân khố.
Kattran được lệ phí, đúng vậy hắn phải quà biếu cho hàng chục ông tổng trưởng, cho các công chức cao cấp của Bộ tư pháp, quà cho cảnh sát đô thành.
Ông biện lý cũng vậy, hắn sẽ có một phần quan trọng trong này nữa.
Bác sĩ đô thành sau khi khám nghiệm xong cái xác khô đét, gầy còm, không ngực của Lapheu, tuyên bố:
− Con bé chết vì bị đầu độc bởi những chất ma tuý.
Đây không phải là một cái chết êm ái như người ta thường bảo.
Sự đầu độc bởi chất ma túy rất kinh khủng nếu liều thuốc dùng quá mạnh.
Nếu quý ông dùng thái quá một liều thuốc nào đó, quý ông sẽ chết trong sự đau đớn tột cùng. Củng như quý ông uống phải nước Javel vậy.
Bác sĩ kéo tấm vải trắng phủ lại mặt Lapheu. Ông khám qua xác Brahim:
− Người đàn ông không bị đầu độc, hắn tự bắn một phát ngay tim.
Quả vậy, Mark có một lỗ ở áo và trên ngực, ngang tầm trái tim.
Hắn chỉ bắn một phát duy nhất. Nhưng viên đạn lại trúng ngay đích - vào giữa tim. Khẩu súng của tên du đãng nằm cạnh giường, từ nơi tay hắn rớt xuống.
Bàn tay này, bàn tay cầm súng và sau đó đã tự sát, sau đó chìa qua cho Lapheu.
Trong lúc chết, cánh tay anh đã ôm thân mình con bé và xiết sát vào người anh.
Nhìn thân xác của hai người, vị bác sĩ cảnh sát chép miệng:
− Hai người chết như Romeo và Juliet.
Thật ghê tởm, nhưng cái chết này không tượng trưng cho tinh thần lãng mạn. Người ta có thể tự nghĩ rằng đang xem hát...
Thêm một điều lạ lùng, đó là người đàn ông này có lẽ đã nghĩ đến việc ghi lại tất cả những biến chuyển đúng như đã xảy ra, từng phút một, trước khi chết. Giống như một vị thuyền trưởng trong quyển nhật ký cuả ông, ghi lại giây phút trước khi tàu chìm...
Ông biện lý nhìn những trang giấy lớn đầy những nét chữ viết to nét.
Cò Kattran ra lệnh:
− Đóng cưa? lại.
Cưa? cái căn phòng nơi có hai xác chết, ông biện lý, cò Kattran, vị bác sĩ và ba cảnh sát viên, được đóng lại liền.
Bên ngoài chung quanh nhà, lính, cảnh sát, các nhà báo và nhiếp ảnh viên đang đợi chờ.
Cò Kattran ra lệnh cho một trong ba viên đội cuả hắn:
− Anh hãy đọc cho chúng tôi nghe tất cả những gì viết trong đó.
Anh cảnh sát đọc hết hàng chục trang giấy có gạch hàng, khổ lớn, chữ viết bằng bút chì.
Anh đọc lớn tiếng:
QUYỂN NHẬT KÝ CUẢ TÊN DU ĐÃNG TRƯỚC CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI.
" Tôi Mark Brahim, tục goi. là Baricat, đã viết ra đây điều này để cho mọi người biết, vì lòng tôn trọng sự thật cuả tôi.
Sau mười năm tù khổ sai trở về, tôi chỉ có một giấc mơ duy nhất: không trở xuống địa ngục nữa, từ nơi đó tôi đã về được nơi đây, nghiã là dưới những hầm muối.
Những hầm muối là đia. ngục. Sau khi đã biết nơi đó, tôi thề là sẽ không bao giờ trở lại.
Nhiều người tự ép mình theo khổ hạnh, cữ ăn uống, gầy ốm nhiều ngày, bỏ qua nhiều lạc thú để khi chết không xuống địa ngục mà họ chỉ biết bằng nghe nói mà thôi.
Nhưng dầu vậy, họ vẫn tránh nơi đó.
Còn tôi, tôi đã biết thật sự, tôi đủ thẩm quyền để nói hơn.
Tôi đã trở lên vùng ánh sáng, quyết định hy sinh tất cả những thú vui còn hơn là có thể bị trở xuống hầm muối, nơi phải gọi là địa ngục.
Trước khi bị bắt và bị gửi đi tù khổ sai, tôi có chôn giấu dưới nền nhà tôi một kho tàng.Khi trở về, tôi đã quyết định không đụng tới.
Tôi có quyết định như vậy để không còn sa ngã theo những cám dỗ nữa. Thượng đế làm chứng dùm tôi rằng, tôi đã không bao giờ có ý định đào lên cái kho tàng này.
Bữa cơm hàng ngày tôi đã kiếm được, và tôi cương quyết đổi nó bằng mồ hôi của trán tôi, bằng cách làm cái nghề mà trước đây tôi đã học được dưới ngục khổ sai.
Những bạn bè trong nhóm của tôi ngày trước đã theo đuổi tôi, nhưng tôi đã từ chối tiếp xúc với họ.
Tôi đã từ khước sống với vị hôn thê của tôi, với người đàn bà đã yêu tôi và hằng chờ đợi tôi suốt mười năm.
Nàng ở vào giới mà đã lâu, tôi không còn muốn dính dấp nữa.
Nàng không phải chỉ một mình, nói cho rõ ra, thật sự thì không có ai là kẻ thuần khiết vô nhiễm. Chúng ta, mỗi người đều là một phần tử từ nơi chúng ta sinh trường, lớn lên, sống ở đó.
Vị hôn thê của tôi có lẽ không còn chân thật, vô tư khi vào nhà tôi, mà đã hấp thụ cái không kgí của quán rượu, khách sạn, cuộc sống du đãng, với tất cả cái quá khứ của tôi và với môi trường nơi nàng đã sống.
Để không còn liên hệ đến cái thế giới đó nữa, tôi đã khước từ vị hôn thê của tôi.
Tôi sống độc thân như một thầy tu, với mẹ già của tôi.
Nhưng từ đó mới xảy ra cái chuyện khốn nạn này.
Do vị hôn thê của tôi không hiểu được sự quyết định của tôi là muốn sống trong đạo đức, nàng trở nên ghen tuông.
Nàng không hiểu rằng tôi tránh nàng là vì đạo đức - một danh từ quá trừu tượng đối với nàng - mà là vì một người đàn bà khác.
Bởi vậy nàng trở nên ghen bóng ghen gió.
Sáng nay nàng đã kéo tôi vào bẫy.
Nàng mời tôi đến khách sạn, với lý do là nàng đau nặng vì vụ toan tự tử.
Tôi lên lầu ba nơi nàng cư ngụ, trước hết, nàng thử buộc tôi khuất phục nàng, vì vậy nàng leo lên thành cửa sổ để doa. lao mình xuống đường.
Tôi nhào theo chụp nàng lại và trong lúc giằng co, nàng đã trật chân, chới với và ngã ra ngoài.
Nàng đã chết vì té từ lầu ba xuống. Tôi đã nghe d6an chúng gào thét lên. FDưới đường, tiếng còi cấp cứu của xe cứu thương, tiếng còi cảnh sát...
Tôi biết rằng tôi phải trở xuống hầm muối,
Tôi thử cứu lấy tôi.
Thượng đế biết rõ rằng trong vụ này tôi không có làm gì cả, tôi không có tội vì cái chết này.
Định mạng đã muốn nàng chết, nhưng định mạng không thể bị bắt và gửi đi tù khổ sai.
Tôi vẫn biết rằng tôi sẽ bị buộc tội là đã giết nàng.
Tôi đang hưởng tự do tạm. Có lẽ tôi sẽ bị gửi đi tù không cần xét xử.
Đó là điều tôi không muốn, không muốn trở xuống hầm muối một lần nữa.
Tôi là một con người dịu hiền, mặc dầu trên các tờ báo, người ta đã viết về sự hung bạo của tôi.
Tôi chỉ có thể tự tử bằng một phát súng hoặc độc dược mà thôi. Vì vậy súng và độc dược vẫn có sẵn ở nhà tôi, được chôn chung với kho tàng.
Tôi gặp mẹ tôi đang ngồi đan áo, tôi quỳ xuống chân bà.
Trước khi tự sát, tôi viết những điều này cho mọi người cùng biết rõ.
Sau khi ở tù về, mẹ tôi đã nhiều lần bảo với tôi: Không có con, mẹ sẽ chết.
Tôi đã hôn lên đầu gối của bà. Mắt tôi đẫm lệ, vì tôi phải nói với bà rằng tôi muốn chết, thật là khó khăn, nhưng tôi đã phải nói:
− Thưa mẹ, con đã phạm một tội sát nhân. Con phải tự sát, nếu không người ta sẽ vứt con trở xuống hầm muối nữa...
Rồi tôi thuật hết sự việc cho bà nghe đúng như sự thật đã xảy ra. Tôi nói với sự can đảm.
Nhưng khi tôi đứng lên thì mẹ tôi đã chết rồi.
Tôi đã giết bà - bằng những lời đầu tiên của tôi - Khi tôi thú nhận rằng tôi đã phạm một tội sát nhân. Bà không nghe thêm được hết phần còn lại.
Đó là cái thi hài thứ nhì mà tôi đã để lại sau tôi trong vòng không dầy một tiếng đồng hồ.
Tôi bị khủng hoảng tinh thần đến cực độ. Tôi liền đặt mẹ tôi lên giường.
Tôi đào kho tàng lên và tôi lấy khẩu súng, giấu chung với tiền bạc để tôi tự sát. Nhưng khi tôi trông thấy tiền, tôi nghĩ ngay rằng kho tàng này sẽ rơi vào tay cảnh sát, thì máu nóng trào dâng lên đầu tôi.
Cảnh sát đã hạ sát cha tôi, cảnh sát đã đập gãy xương tôi.
Cảnh sát đã hàng ngày tra tấn hàng ngàn người đang sanh sống trên xứ Romani này... kẻ bỉ ổi nhất, theo ý tôi là cảnh sát.
Cảnh sát là một thứ sanh ra để đánh đập nạn nhân của mình, và giết chết sau khi đã trói buộc họ lại.
Tôi đã bật lửa để đốt số tiền trên. Nhưng vàng không cháy được. Tôi tìm một biện pháp khác để vàng khỏi lọt vào tay cảnh sát.
Trong lúc ấy, tôi nhớ tời một người khác đã bảo với tôi rằng, không có tôi, họ sẽ không thể sống, đó là một cô bé con. Tôi luôn nghĩ rằng những lời nói của cô bé này không có một giá trị nào ca?
Khi mẹ tôi bảo rằng không có tôi, bà sẽ không thể sống nổi, bà đã hiểu biết và bà tin ở lời nói của bà.
Còn cô bé này nói vì còn trẻ con, có lẽ không hề biết gì về việc mình đã nói. Cô bé thán ohục tôi vì đã nghe nói tôi đã đau khổ quá nhiều.
Cô bé nói như một con bé con, chỉ vì thán ohục sự thành công cửa một tên du đãng! Vì thán phục tiếng tăm của một tên sở khanh. Vì thán phục hàng ngàn đàn bà đã yêu tôi...
Có lẽ cô bé đã vụng trộm yêu tôi bất ngờ, cũng như bao nhiêu người đàn bà khác mà tôi đã gặp trong đời tôi? Có thể lắm! Nhưng điều này không quan trọng.
Nên tôi đã quyết định liều mạng thêm một giờ nữa và đi đến hiệu bánh ngọt Hoàng Cung, nơi cô bé đang làm việc, để nói rõ ra: "Tôi đã phạm tội sát nhân. Để không rơi vào tay cảnh sát, tôi phải tự sát. Cô là người quen biết duy nhất cũa tôi. Tôi có một số tiền đây. Sau khi chết, tôi sẽ không còn cần đến nữa. Tôi biếu cô bé. Số bạc ấy nhiều lắm. Một số bạc kếch xù. Cô hãy thận trong lúc tiêu xài, để đừng gây nên sự nghi ngờ của cảnh sát. Như thế cô sẽ sống đến suốt đời."
Khi nghĩ đến những điều này, tôi liền thực hiện. Một khắc đồng hồ sau, tôi đứng trước cô bé trong sân hiệu Hoàng Cung. Tôi đưa cô bé cái túi đựng tiền và tôi xin vĩnh biệt.
Tôi quay lưng lại và tôi đi ngay. Trong lúc nhảy lên xe điện, tôi trông thấy thấy cô bé chạy theo tôi phiá sau, khi lên được xe, cô bé ôm chầm lấy tôi. Cô không muốn rời tôi nữa.
Tôi nói với cô: " Nầy em bé, tôi phải chết"
Cô bé trả lời tôi rằng, cô muốn chết theo tôi.
Chúng tôi đến ở trong căn nhà này. Tôi không thể rời cô bé con này ra. Cô bé luôn luôn sát cạnh tôi. Cô đòi tôi giết cô trước nhất.
Tôi không thể giết ai cả, tôi không có tâm hồn của một kẻ sát nhân. Cô bé vẫn van xin tôi, bảo rằng muốn đi cùng với tôi, sát cánh nhau, về cõi chết.
Cô bé đã van xin cho đến nỗi tôi phải chỉ cho biết những thứ ma túy có sẵn ở đây.
Cô bé uống và nằm ra giường.
Hiện giờ cô bé như mê man. Thần chết bắt đầu xiết chặt cô bé để mang đi. Cô bé mặc cái áo choàng dài màu trắng, trên áo có thêu "Hiệu bánh ngọt Hoàng Cung".
Cô bé đang hấp hối. Cô bé không ngừng gọi tên tôi. Cô muốn tôi đền bên cạnh cô...
Chúng tôi sẽ cùng chết một lúc, quấn chặt với nhau.
Tôi đến bên cạnh cô bé, một cách êm ái để cô bé đừng sợ hãi. Khi thuốc độc huỷ diệt cô và tôi sẽ tự bắn một phát vào ngay giữa tim. Tôi sẽ ném khẩu súng, tôi ôm cô bé vào lòng tôi, trong chốc lát, tôi sẽ cùng chết với cô bé, bên cạnh cô bé, đúng như cô bé vẫn luôn thiết tha mong muốn.
Cả hai chúng tôi cùng đi theo một nhịp điệu về cõi bên kia. Trong cận kề cái chết, bây giờ ới biết cô bé thương tôi, và tôi cũng tự hiểu rằng tôi cũng thương cô bé nữa.
Đó là một người duy nhất tôi thương thật sự, bằng một tình yêu cao cả hơn là sự say mê.
Bằng một tình yêu vĩ đại.
Nếu cảnh sát nhận thấy trong trường hợp này không có gì bất lợi, tôi yêu cầu chính quyền chôn tôi bên cạnh người thương vĩ đại của tôi - Bên cạnh Lapheu và ai đó, xin ghi trên thập tự giá cho hai nấm mồ, câu sau đây: " Nơi yên nghỉ của một tên du đãng và đoá hoa nhỏ bé của hắn. Mọi người xin cầu nguyện cho họ trong cõi bất diệt..."
Viên cảnh sát đọc xong. Không ai cử động. Sự xúc cảm làm môi ngừng nói, mặc dù đó là môi của những tên cảnh sát.
Viên cảnh sát lật qua trang, đây là những dòng chữ do Lapheu viết. Cô bé chỉ lưu lại một vài lời mà thôi:
"Tôi tự sát để mãi mãi được ở sát bên cạnh người yêu nhất đời của tôi cũng sắp chết. Qúy vị hãy chôn tôi bên cạnh Brahim và hãy ghi trên thập tự giá chung của chúng tôi: " Nơi yên nghỉ của Lapheu và tên du đãng của nó. Qúy vị hãy cầu nguyện cho mối tình của hai chúng tôi trong cõi bất diệt."