ưa ở Giang Nam luôn đến bất ngờ. Sau khi tới thì liền liên miên bất tuyệt, bờ mi mai tóc, vấn vít không thôi. Thẩm Phóng ngắm bóng hình Tam Nương đang cưỡi trên chú lừa hoa, giờ mới hiểu bốn chữ “tóc mai sương gió” rốt cuộc có hàm ý gì. Cơn mưa lúc bắt đầu chỉ lất phất, chỉ hơi cảm nhận được mà không nhìn thấy được, rồi dần dần dầm dề không dứt, lại có đôi chút lạnh lẽo, khiến người ta phiền muộn. May mà ở cùng Tam Nương, mưa thu có lúc cũng như mưa xuân vậy. Lúc hắn và Tam Nương tiếp tục lên đường, Kinh Tam Nương đã tìm một chỗ vắng vẻ đem bán con la của Dư Hàng Đại Xa điếm, đổi sang một con la và một con lừa hoa. Hai người song song cưỡi đi, thả lỏng tâm trí, chỉ cảm thấy dọc con đường, phong cảnh ngút ngàn. Thẩm Phóng từng một lần hỏi Tam Nương xem đi đâu, Tam Nương Tử không đáp, lúc hắn hỏi lại, Tam Nương Tử mới cười ngất, nói: “Hoài Thượng.” Hai người đi về phương bắc, Thẩm Phóng thấy Tam Nương đi thong dong, không khỏi lấy làm lạ. Không sợ Văn Đình Các đuổi tới sao? Bấy giờ Tam Nương Tử bật cười. “Chàng không biết con người Văn Đình Các này, bề ngoài nho nhã, thủ đoạn ác độc, bên trong thì lại tâm cao khí ngạo, một kích không trúng, sẽ thẹn mà không ra tay tiếp, thiếp không biết trong quan trường, gã a dua thế nào nhưng trên giang hồ thì hẳn vẫn giữ quy củ của bản thân.” Thẩm Phóng lấy làm lạ, hỏi: “Nàng ca ngợi hắn lợi hại nhường ấy, sao lại bị một người thân mang trọng thương chẳng nói chẳng rằng đuổi đi thế?” Tam Nương Tử lắc đầu, than: “Đời nay, khí khái võ công có thể bì được Cảnh Thương Hoài liệu được mấy người? Có thể trước mặt người đó tiến lui như thường, yên ổn rút đi cũng tính là không xoàng rồi.” Thẩm Phóng gật đầu, nhớ lại dáng vẻ hào hùng, kiệm lời của Cảnh Thương Hoài, trong lòng không kìm được kích động một trận. Lại nghĩ tới hôm ấy, Tam Nương Tử liều mạng cứu mình, càng cảm kích trong dạ, yên lặng mà ngắm Tam Nương, hồi lâu chẳng nói lấy một câu. Tam Nương Tử ngó hắn một cái, cũng biết trong lòng hắn đang quan tâm tới mình, bèn nở nụ cười khẽ, vỗ chú lừa hoa, phóng lên trước. Nói cũng buồn cười, hai người kết tóc đã mười năm, tuy trước giờ lòng dạ cởi mở, kính nhau như khách, nhưng trong lòng tuyệt chưa hề có tâm tình thiếu nữ như mấy ngày bôn tẩu trên đường này. Một phen lộn xộn, rốt lại khiến hai người biến thành trẻ trung rồi. Tam Nương Tử xưa nay một mực kính trọng Thẩm Phóng, rất ít khi vừa thẹn thùng vừa dịu dàng mà nghĩ tới hắn như hôm nay; Thẩm Phóng trước nay cũng cảm thấy bản thân rất yêu thương Tam Nương nhưng không giống bây giờ cứ thấy nàng vuốt tóc nhướng mày là trong lòng dâng lên cảm giác xót xa thế này, tựa như con tim khe khẽ run lên. Cảm giác này thật đáng để trân trọng cất giữ một đời một kiếp. Tới tối, sau khi vào điếm ở trọ, dưới ngọn đèn dầu, hai người thường yên lặng rất lâu, chẳng buồn động đậy mà nhìn nhau. Tuy biết từ sau cái ngày đầu đao nhuốm máu ấy, hai người đã ngang với việc kết thêm vô số phiền phức - Đại Xa điếm truy sát, Tần Thừa tướng lùng tìm, từ nay về sau trong chốn giang hồ hỗn loạn này chỉ sợ khó có được một ngày yên ổn. Nhưng chỉ cần hai người đó đây lặng lẽ nhìn nhau, tựa như đã cảm nhận được tuế nguyệt an tĩnh, một đời bình yên. Lúc này, thấy Tam Nương Tử đã chạy lên trước, Thẩm Phóng mới vỗ la, mau bước đuổi theo, nhưng không tìm được lời để nói, đành bâng quơ: “Thật không ngờ, nàng lại quen thuộc địa giới dọc đường đến thế, đúng là lão luyện giang hồ!” Tam Nương Tử ngoái nhìn, cười nói: “Người xưa bảo: “Đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường là hai chuyện vui lớn của đời người.” Câu trước đã nhường cho chàng rồi, vế sau thiếp cũng không dám khiêm nhường nữa.” Không nghĩ tới trận mưa thu càng lúc càng to, lúc hai người tới được Khốn Mã Tập ngoài Đồng Lăng thì đúng thật là bị vây khốn. Khốn Mã Tập chỉ có mỗi một khách điếm, trước sau hai dãy nhà. Chỉ là mấy con suối phía trước nước chảy rất xiết, lại thêm đường bùn lầy lội, mọi người đều sợ mấy con vật trượt chân sứt móng, không dám đi tiếp nữa, con đường hẹp đến đây thì tắc lại. Con đường này vốn chẳng phải đường quan đạo nghiêm chỉnh, chỉ bởi nó gần nên vẫn có người đi. Khách điếm đã nhỏ, cứ thế thêm dăm ba ngày, ngày nào cũng có mấy người vừa mở miệng chửi thời tiết vừa tiến vào điếm hong y phục, ăn bữa cơm rồi gục đầu xuống ngủ, đợi mưa tạnh. Mà cơn mưa đó vẫn chẳng chịu dứt. Ngày dài trôi đi một cách buồn bực, những người tới điếm này có bắc có nam, tiếng mắng ông trời cũng tự nhiên mà muôn hình vạn trạng, nghe riết rồi cũng có thể tính là một thú vui qua ngày dài. Mấy người như Thẩm Phóng tới trước thì còn có phòng, những khách tới sau chỉ đành ngủ trên sàn. Hôm ấy, thấy mưa vẫn không chịu tạnh, Thẩm Phóng trong lòng buồn bực, tới chiều bèn mượn nhà chủ một đôi guốc mộc, một cái ô giấy dầu, ra ngoài ngắm cảnh. Cách điếm khoảng mấy chục bước có một gò đất, Thẩm Phóng liền trèo lên đó, căng mắt nhìn về phía xa. Chỉ thấy sắc cỏ xanh nhợt, mưa rơi thành sợi, cõi lòng không khỏi chợt cảm thán cho cảnh hoàng hôn bảng lảng của Trung Nguyên. Bỗng nghe thấy tiếng nhạc ngựa, trông sang con đường phía nam, chỉ thấy tám, chín xe áp tiêu đang chật vật đi trên đường, ước chừng hai mươi mấy người áp tải theo phía sau, lép bép trong bùn. Đội xe kéo thành một hàng dài, đánh xe đều là xa phu lão luyện nhưng bánh xe thi thoảng vẫn sa xuống hố bùn. Hai mươi mấy người áp tải kia đều hết sức tinh tráng, đang độ tuổi trai trẻ, liền gồng mình gắng sức đẩy xe ra. Những gã trai này gia giáo cũng tốt, tuy gặp phải thời tiết quái quỷ cỡ này nhưng không hề mở miệng mắng lớn, chỉ lặng lẽ ra sức, nếu mà giống đám khách trong điếm, hai mươi mấy cái họng đang tuổi khí huyết tràn trề mà cùng gào lên, ắt hẳn phải hoành tráng lắm. Đoàn xe tiêu đấy cách tiểu điếm có hơn nghìn bước nhưng quãng đường ngắn là thế mà xe liên tiếp sa lầy năm, sáu lần, một xe dừng, xe trước xe sau đều phải dừng, mỗi lần đều lưu lại dấu lằn sâu hoắm, đủ thấy tiêu hàng nặng nề thế nào. Thẩm Phóng từ xa trông thấy họ đi vào điếm. Hẳn là bọn họ đã đi quen đường này, quen biết hết các lữ điếm, vừa tới cửa, nhà chủ liền ra chào hỏi không ngừng. Thẩm Phóng đứng thêm một lúc, thấy cảnh sắc xung quanh dần mờ mịt, cũng lê guốc gỗ trở về. Vừa về tới cửa điếm mới phát hiện không biết từ lúc nào đã có một con lạc đà được buộc vào cây cột cạnh cửa. Con lạc đà này gầy lắm, cửa mặt của tiểu điếm vốn đã lụp xụp, con lạc đà bị cột vào chỗ đó, sắc lông vàng xám lại càng hiện rõ. Chỉ thấy toàn thân nó vừa bùn vừa nước, cực kỳ bẩn thỉu, lưng chỉ có một bướu, mềm rũ xuống, cũng chẳng biết đã bao lâu không được ăn no, trên người cũng hoàn toàn không thấy yên cương. Con vật khá cao, bốn chân gầy chắc, càng làm nổi bật bốn cái vó rất to. Một cặp mắt nhắm hờ, dử mắt nhếch nhác. Giang Nam vốn không có thứ này, chỉ ngẫu nhiên có người từ quan ngoại cưỡi tới, không tránh được người ta thấy lạ mà nhìn, hai đứa con của chủ tiệm thì xúm vào vây lấy nó dưới cơn mưa, không chịu đi, đúng là “nhìn thấy lạc đà thì nhận thành con ngựa lưng bị sưng”, đúng là hiếm thấy! Thẩm Phóng cũng là lần đầu tiên nhìn thấy, không khỏi hiếu kỳ, đi vòng quanh con vật hai vòng, nhìn thêm mấy cái. Tay chạy việc trong điếm là người nhiều chuyện, thấy hắn dừng bước, liền cười nói: “Tiên sinh cũng thấy thứ này lạ mắt? Quả thật, tôi lăn lộn trên con đường này cũng hai mươi mấy năm rồi, lần đầu tiên được thấy thứ này. Xem như có được thêm kiến thức. Khung xương con vật này to như thế, một lượt không thể thồ được đấy chứ?” Thẩm Phóng đánh giá khung người con vật một chút, chỉ sợ tay chạy việc kia nói không sai. Tay chạy việc nói rồi nhíu mày. “Cái người mặc đồ đen kia cũng chẳng dặn dò lấy một câu, rốt cuộc cho ăn cái gì đây, lẽ nào dứt khoát để nó chết đói? Chỉ bảo có rượu thì cho nó uống mấy ngụm, thế nuôi được nó à? Dù thế nào cũng xem là khách từ xa tới, rốt cuộc bảo tôi cho nó ăn gì đây?” Thẩm Phóng không có lòng dạ nghe gã làu bàu, bèn vào cửa, thấy chủ tiệm vẫn đang lo liệu cho đoàn bảo tiêu nọ, miệng không ngừng xin lỗi mấy vị tiêu sư áp tiêu: “Quả thật rất xin lỗi, mưa thế này, tới hôm nay ngay cả phòng củi cũng chật rồi. Ngài xem phải làm sao đây? Chỉ đành thiệt thòi mấy anh em thanh niên ngồi trong phòng này một tối, mệt rồi thì tựa bàn chợp mắt vậy. Hai người bọn tôi cũng không dám ngủ, ở đây tiếp đãi anh em, có gì sai bảo có thể gọi ngay lập tức, như thế liền trống được một phòng, có thể để Tần lão gia tử với hai vị tiêu sư nghỉ ngơi... Tần lão gia tử, ngài thấy thế nào? Khiến các vị chịu thiệt thòi rồi, tôi nói thế nào cũng thấy xấu hổ.” Người trong tiêu đội đều đang rửa mặt mũi, bà chủ điếm tiếp đãi chu đáo, tự tay đưa khăn mặt cho bọn họ. Hai tiêu sư cũng không nhiều lời, chỉ đợi Tần lão gia tử phân phó. Vị Tần lão gia tử kia thoạt nhìn thì như một lão nhân gầy gò, nếp nhăn trên mặt như đao khắc đá tạc, tóc đã hoa râm, có điều thần sắc tươi tỉnh, không nhìn ra được tuổi tác thế nào, là vì võ công cao nên tinh thần vẫn vượng như thế, hay vì tuổi tác vốn chưa quá lớn, chỉ là vẻ già nua sớm lộ. Chỉ nghe ông ta nói: “Cứ thế đi, ra ngoài làm việc còn có thể cầu kỳ cái gì, muốn cầu kỳ thì ở nhà, đừng ra ngoài. Ngươi làm chút cơm đem lên, rồi lấy thêm ít thịt trâu, anh em đói cả rồi, ăn trước đã, nói sau.” Chủ điếm vội vâng dạ, thầm nghĩ chuyến tiêu này do Tần lão gia tử đích thân xuất mã, có thể thấy không phải chuyện chơi. Chủ điếm là người sành sỏi, cũng không hỏi nhiều, chỉ ngầm tính, năm năm trở lại đây, đây là lần đầu tiên thấy lão đầu này tự mình xuất mã, có thể thấy được độ nặng của chuyến hàng này, vừa nghĩ vừa vội vàng đi lo liệu. Tiền sảnh vốn là một nhà nối, tiết thu lạnh lẽo, nhà chủ liền nhóm lò sưởi. Lửa không lớn, là bởi chủ điếm vẫn giữ lại củi khô, nhưng ít nhiều gì cũng có chút hơi, trong phòng liền nức mùi gỗ tùng. Ở cửa có treo mảnh rèm vải, coi như để ngăn lạnh, giờ đang là lúc châm đèn, đám khách chẳng có việc gì làm, trừ mấy người gục đầu ngủ, đa số đều ngồi ở nhà trước, hoặc tự nói chuyện, hoặc nghe người khác nói chuyện giải khuây. Người gọi món ăn cơm thì chiếm bàn, người không cầu kỳ ăn uống thì ngả ngốn trên ghế băng, hoặc dựa góc tường, hoặc vây lấy lò sưởi kia, tùy tiện ăn chút gì đó. Thẩm Phóng thấy Tam Nương Tử cũng chiếm lấy một cái bàn ở một chỗ khá yên tĩnh mé phải, liền đi tới, cười hỏi: “Nàng sao lại cũng ra đây rồi?” Trên bàn đã bày vài món: một đĩa măng, một con cá, một miếng đậu phụ luộc, một bát đậu phụ ướp ngũ hương thái sợi, trong khách điếm thế này, có mấy món ấy cũng xem như không tồi, lại đều là thứ Thẩm Phóng thích ăn, cho nên Thẩm Phóng vừa nhìn, tuy đang ở nơi đất khách, trong lòng đã thấy ấm áp. Tam Nương Tử thấp giọng cười bảo: “Chưa đêm tìm quán trọ, gà gáy sớm lên đường; Giang hồ lắm mưa gió, cẩn thận nghe chuyện trò - đấy là khẩu quyết giang hồ sư phụ thiếp năm đó dạy thiếp. Bây giờ chúng ta đã có mắc mớ, không thể không cẩn thận một chút, buồn bực trong phòng cũng là buồn bực, chẳng bằng ra ngoài ngồi, một là nghe xem gần đây có tin tức gì mới không, đường nào đi được đường nào không, hay là có tin đồn bất lợi nào không; hai là cũng để bậc quân tử bân bân như chàng nếm chút mùi vị giang hồ xoàng xĩnh, xem xem so với thâm trạch đại viện, sân lớn tòa to chỗ chàng thì như thế nào?” Thẩm Phóng biết nàng đùa vui, lập tức cười cười, ngồi xuống ăn mấy miếng, chợt thấy một ông một cháu ngồi cạnh lò sưởi, chính là lão mù kể chuyện cùng cô bé được Tam Nương Tử cho cây thoa gỗ bữa trước gặp trên tửu lâu. Y phục trên người hai ông cháu mỏng manh, lại ướt đẫm, đang hong bên đống lửa tí tách. Thẩm Phóng ngạc nhiên, đúng là nơi chân trời có chỗ nào là không tương ngộ, hai người họ cũng tới rồi. Tam Nương Tử thở dài, nói: “Chàng cũng nhận ra rồi, ài! Những nạn dân này cũng thật đáng thương, đại khái là ở Dư Hàng vẫn không sống được, vừa rồi vào cùng đoàn áp tiêu kia.” Nói rồi nàng chỉ chỉ, trong đoàn tiêu cục có một thanh niên mày rậm mắt to, vừa mới rồi chính hắn đỡ lão mù sắp mệt tới đứt hơi tiến vào. Thẩm Phóng “a” một tiếng, dõi mắt nhìn bốn phía, lại thấy chỗ cái bàn dính đầy dầu mỡ gần cửa điếm trọ đang có một thiếu niên mình bận đồ đen ngả người ở đó, trên bàn còn để một cái túi vải, mới nghĩ, đây hẳn là chủ nhân của con lạc đà mà điếm tiểu nhị nói tới. Người này hình như đã ngủ rồi, mặt vùi trong cánh tay, hoàn toàn chẳng nhìn được, chỉ lộ dáng nghiêng nghiêng, thân hình xem ra rất gầy gò, dáng người rất đĩnh đạc, cũng rất tiêu chuẩn. Dưới chân dính không ít bùn lầy, có vẻ như con đường vừa đi không ngắn, người tuy mệt mỏi nhưng xem ra vẫn toát lên một cỗ khí thế tinh thần. Trang phục nhìn có chút giống người quan ngoại, chỉ không biết vì sao lại tới Giang Nam này. Chất liệu bộ đồ đen của người này cũng rất kỳ lạ, chẳng phải đay cũng chẳng phải gai, khá là thô chắc, cái túi bỏ trên bàn cũng bé nhỏ, trơ trọi, khiến người ta hoàn toàn không đoán ra được hắn làm nghề gì. Thẩm Phóng thầm lấy làm lạ: bản thân đứng ở gò đất ngoài cửa điếm lâu như thế, sao chẳng hề thấy hắn tiến vào, cũng chẳng hề thấy hắn đi đường nào tới? Nghĩ rồi, hắn thu hồi ánh mắt, trong lòng thoắt cái bỗng nhiên hỗn loạn, chỉ cảm thấy trên người thiếu niên này có thứ gì đó khiến hắn cảm thấy vừa hưng phấn vừa quen thuộc như đã từng gặp qua, cũng bởi thế mà dấy lên một tia bất an, nhưng lại không nói ra được là cái gì. Thẩm Phóng không kìm được, bất giác quay đầu nhìn, chỉ thấy phần giữa cổ áo đen với chân tóc lộ ra một cái cổ sắc nâu nhạt, dẻo dai mà cứng cỏi, màu sắc khác lạ, sắc da cũng cực kỳ nhẵn mịn, khiến người ta thấy rồi khó quên. Cái cổ của thiếu niên đó có sự cố chấp và mềm dẻo đặc hữu của người trẻ tuổi. Tam Nương Tử cũng chú ý tới hắn, nhỏ giọng nói: “Thiếp cũng cảm thấy thiếu niên đó rất lạ.” Thẩm Phóng cười. “Xem ra là người quan ngoại, cũng chẳng biết miền Nam loạn thế này hắn tới đây làm gì? Tái ngoại chẳng phải rất tốt sao? Nàng còn chưa thấy con lạc đà của hắn, trông đến là lạ...” Đang nói, chủ tiệm đã bước tới, mỉm cười xin bọn họ dịch bàn sang một bên thêm chút nữa, thì ra là muốn lấy chỗ kê thêm ba cái bàn cho người của tiêu cục, hai người Thẩm Phóng cũng làm theo. Nhất thời trong điếm càng là người đông chỗ ngồi ít, những bàn khác liền có thêm ba tới năm khách ngồi lẫn vào nhau, phu phụ Thẩm Phóng tuy ăn vận bình thường nhưng một người nho nhã, lịch thiệp, một người dung mạo như hoa, liền không có ai tới bàn họ ngồi. Kỳ lạ ở chỗ, cái bàn của thiếu niên nọ cũng không có ai tới, có thể là vì hắn cưỡi lạc đà tới, có đôi chút lạ lùng, khiến người khác không muốn tới gần. Mấy cỗ xe ngựa của tiêu cục bấy giờ đều đã được đưa vào hậu viện an bài ổn thỏa. Có bốn người chuyên thủ trong xe ăn uống canh gác, những người còn lại đều ngồi kín trong tòa tiền sảnh này, bọn họ đều đã đói cả nhưng rất có quy củ, không thấy họ ồn ào thúc giục mang đồ ăn lên như mấy bàn khác. Thẩm Phóng tò mò, muốn xem là tiêu cục nào. Hắn bình sinh có rất ít cơ hội giao tiếp với những hán tử sống đời đầu đao mũi kiếm này, lúc này nhìn kĩ, chỉ thấy trên bàn của họ cắm một cây cờ nhỏ, lúc gọi cơm vẫn không quên cái cờ hiệu này. Chỉ thấy trên mặt lá cờ có một con rồng vàng thêu bằng chỉ vàng, rồng có tám móng, bên dưới dùng chỉ đỏ thêu năm đóa mây hồng, lại dùng chỉ đen thêu hai chữ “Lâm An”, đường thêu cực kỳ khéo léo, có thể thấy được danh tiếng tiêu cục không nhỏ. Tam Nương Tử lẩm nhẩm: “Lâm An tiêu cục, Lâm An tiêu cục... đây hẳn chính là Lâm An tiêu cục, tương truyền năm đó lúc “Ngựa đất cõng Khang Vương qua sông(1)” có công hộ giá, về sau Hoàng thượng đích thân phê là “Giang Nam đệ nhất tiêu cục” chăng? Chấp chưởng tiêu cục không biết có phải vẫn là Long lão gia tử của Ưng Hạc song bác môn không. Nghe nói mười mấy năm nay, bọn họ chưa từng hỏng việc, lần này là thứ hàng gì mà cần nhiều người áp tải như vậy?” Thẩm Phóng biết kiến thức giang hồ của nàng cực kỳ phong phú, cười hỏi: “Thế nào, nữ hiệp khách của chúng ta cũng có ý cướp hàng sao?” Tam Nương bật cười khúc khích. “Chàng muốn nói là nữ cường đạo hả?” Nói rồi tỉ mỉ đánh giá bàn nọ. Nàng nhìn người không giống với Thẩm Phóng, mắt đưa tựa như vô ý kỳ thực đều nhìn thấu đáo từng người bên đối phương. Khóe miệng khẽ nhẩm tính: “A, cả thảy có ba tiêu sư, gã thanh niên mắt to chỉ e vừa mới xuất sư, còn chưa nhìn ra cái gì, hai người còn lại một người luyện công phu thiết chưởng, một người luyện Ngũ hổ đoạn hồn đao của Bành gia.” Thẩm Phóng biết nàng đang nói cho mình nghe, không khỏi càng thêm kinh ngạc và khâm phục Tam Nương. Bấy giờ, Tam Nương chỉ lão đầu tóc hoa râm, nói: “Nhìn thấy chưa, cái lão đầu nhi tóc hoa râm đó, đại khái ông ta họ Tần, chàng cho rằng cướp miếng ăn trong miệng Tần Ổn là vui lắm hả? Thuở lão đầu tử này tung hoành giang hồ, thiếp còn chẳng biết đang ở nơi nào. Sợ đúng là chỉ có Long lão gia tử mới có thể diện lớn đến thế, có thể mời được ông ta làm phó tổng tiêu đầu. Chàng có cho thiếp mượn thêm mấy lá gan, thiếp cũng chẳng dám động tới chuyến tiêu hàng này đâu.” Thẩm Phóng khẽ cười, nói: “Phó tổng tiêu đầu? Lâm An tiêu cục? Tiêu cục này gọi là Lâm An tiêu cục, cũng thật là cái tên tốt. Ài... lâm an lâm an, tạm thời bình yên. Đáng buồn đám quan to hiển quý đó, đang buổi nguy vong thế này, không nghĩ tới chuyện quân Kim tiến sát biên cương, lang sói đã ở ngay sát giường, chỉ biết mướn mấy tiêu sư bảo vệ nhà cửa, vợ con của mình, mà chẳng biết dưới gót giặc dữ há còn trứng lành, bảo tiêu có tốt hơn nữa thì có tác dụng gì? Quả thật chẳng qua là bình yên tạm bợ, cẩu thả trộm lấy bình yên đấy thôi!” Giọng của Thẩm Phóng không lớn, ở giữa lại cách mấy bàn, tiếng người ồn ào nhưng vẫn thấy bên phía tiêu cục có hai người nhìn lại, một chính là lão giả họ Tần, người còn lại là thanh niên mày rậm mắt to. Trong mắt gã thanh niên mơ hồ lộ nét không vui, lão giả họ Tần thì thần sắc không đổi, nhìn thẳng Thẩm Phóng. Thẩm Phóng sững ra, Tam Nương khẽ cười, nói: “Đã biết sự lợi hại của bọn họ chưa?” Nói rồi, Tam Nương Tử quay sang bên đó, gật đầu cười nói: “Chư vị chớ trách, tướng công nhà tôi thư sinh nghị luận, lão sư phụ người xin bỏ quá cho!” Giọng nàng thanh thúy, tuy không thật lớn nhưng cố ý nói cho bên đó nghe, đa số mọi người đều không nghe được nhưng người bên đó lại nghe rất rõ. Lão giả đứng đầu lại liếc Tam Nương một cái, hơi khom người, nói: “Không dám, vị tiên sinh này nói vốn cũng không sai, chỉ là bọn tôi mấy đứa dân đen, vì nuôi vợ con cũng chẳng biết làm sao, đành phải làm thôi.” Lần này Thẩm Phóng đúng là giật mình. Cách nhau xa như thế, Thẩm Phóng lại cảm thấy giọng của ông ta không cao, không thấp, vang ngay bên tai mình, cứ như đứng ngay bên bàn mình ngồi mà nói vậy. Liếc nhìn xung quanh, người bên cạnh tựa hồ đều không nghe thấy, trong lòng càng thấy rúng động. Nhưng thấy Kinh Tam Nương thần sắc không đổi, cùng lão đầu kia bốn mắt nhìn nhau một lát rồi tách ra. Chỗ ánh mắt giao nhau, mơ hồ như có ánh kiếm tóe lửa, ngay cả Thẩm Phóng cũng trông ra được. Sau đó, hai người họ đều quay đầu, không để ý tới nhau nữa. Qua một lúc, Tam Nương mới nhẹ “hic” một tiếng, cười nói: “Lão lộ công phu đó là để cho thiếp xem, rốt cuộc đúng là lão gia tửng hồ, vừa vào cửa đã nhìn chăm chăm thiếp rồi, lẽ nào trên mặt thiếp có viết chữ “trộm” sao?” Thẩm Phóng không kìm được cũng cười, nghĩ Tam Nương khí chất bất tục, có là người bình thường cũng sẽ chú ý tới nàng, nhưng Thẩm Phóng tính tình trầm ổn, tuy cùng Tam Nương vợ chồng hòa hợp nhưng cũng ngại mồm mép trêu chọc, chỉ cười cười coi như xong, hoàn toàn chẳng hiểu mấy thứ phép tắc đường lối giang hồ của bọn họ. Đang nói, chợt nghe rèm cửa vén lên đánh “phật” một tiếng, một người sải bước tiến vào, là một hòa thượng cường tráng, tay xách một cây thiền trượng sắt, hẳn là đã đi tới nóng người, vạt áo trước hé ra, cả người hừng hực hơi nóng. Y phục của hắn đã bị nước mưa nhuốm ướt sũng, bám dính lên người. Hắn miệng rộng, mũi sư tử, lông mày ngang rậm, khoác lệch một tấm tăng bào màu vàng đỏ, đám con gái mặc cái màu ấy trên người còn thấy thẹn đôi chút, vậy mà hắn chẳng bận tâm, dứt khoát khoác lên người, ấy vậy mà lại tôn thêm vẻ hung ác. Hòa thượng nọ vừa vào đã gọi rượu, rồi lướt mắt nhìn sang chỗ mấy tiêu sư, hình như có vẻ không hài lòng, liên tục gọi chủ quán. Trong lúc đợi chủ quán, hắn lại nhìn sang bên mấy tiêu sư lần nữa, “hừ” lạnh một tiếng, cực kỳ khinh miệt. Lúc này, chủ quán chạy tới, hòa thượng kia mới bảo: “Lấy cho ta ba cân rượu trắng với ba cân thịt trâu, không quản chín hay chưa, phải nhanh, chủ yếu là phải nhanh!” Chủ quán vội đáp ứng, tính toán định tìm chỗ ngồi cho hắn, thuận miệng nói: “Đại sư phụ muốn ăn cơm còn dễ, nhưng muốn ở trọ thì trong điếm đã chật kín rồi.” Chủ quán nhìn ra vị hòa thượng này không dễ chọc, vội nói hết những lời cần nói, tránh lát nữa hòa thượng nổi nóng sinh sự, đây âu cũng là điểm nhanh trí của người mở tiệm. Ai ngờ hòa thượng nọ tính tình tựa như rất tốt, không hề bận tâm. Hòa thượng lại nhìn sang mấy người tiêu cục rồi nói: “Dù có phòng ta cũng không ở, hòa thượng còn muốn trông mấy đứa con cháu nhà rùa.” Nói rồi lẩm bẩm trong miệng: “Đám con cháu nhà rùa chạy đến nhanh, lão tử uống ngụm rượu, thiếu chút nữa đuổi không kịp, hắc hắc, làm hòa thượng chạy cuống một trận.” Lời nói không chút che giấu địch ý. Thanh niên mắt to, mày rậm trong tiêu cục nổi giận, hình như muốn đáp lời, đám người tiêu cục các bàn cũng đồng loạt biến sắc, bấy giờ lại bị lão giả họ Tần lườm một cái, liền bất giác cúi đầu, kìm chế. Người trong điếm cũng không khỏi kinh hãi. “Lẽ nào hòa thượng này lại là cường đạo?” Trong lòng vừa lo lắng vừa hiếu kỳ, đang không biết chỉ có mình hắn thôi, hay là tới trước dò đường. Chẳng qua nhìn hình dáng này của hắn, một mình hắn tới quấy tựa hồ cũng đủ lắm rồi. Người cẩn thận thì càng thêm lo lắng, không kìm được sờ sờ hành lý của mình. Hòa thượng nọ thấy bàn nào cũng đã có người, không khỏi bực dọc, mắng: “Lão tử hôm nay số hẩm, dính cơn mưa ôn dịch không nói, khó khăn lắm mới tìm được cái quán, tới chỗ ngồi cũng không có sao?” Chợt thấy chênh chếch góc khuất tối tăm cạnh cửa ra vào có một thiếu niên một mình chiếm một bàn, đang ngủ gục, hòa thượng không nhiều lời, bước thẳng tới, miệng lầm rầm: “Nhiều người thế này, ngươi dựa vào cái gì mà một mình một bàn?” Nói xong thì đã tới nơi, tới rồi cũng không nói thêm gì, vỗ một chưởng lên mặt bàn, thật đúng là núi rung đất động, suýt nữa vỗ nứt chiếc bàn. Vỗ xong, hắn mới mở miệng: “Tiểu tử ngươi dựa vào cái gì mà một mình độc chiếm một bàn?” Thiếu niên nọ bấy giờ mới giật mình tỉnh lại, ngơ ngác ngẩng đầu, mặt vừa lộ, người nhìn thấy đều không kìm được khen thầm, chỉ thấy trên cái cổ da màu nâu nhạt là một khuôn mặt ngũ quan cân đối, đầu mày thanh tú, gò má lạnh lùng, phối với bộ đồ đen trên người cực kỳ chỉn chu. Những nhân vật đẹp đẽ miền Giang Nam vốn chẳng ít, nhưng trước giờ chưa từng gặp qua kiểu thần thái phong độ như thiếu niên này, cũng không thể nói hắn đẹp thế nào nhưng cảm thấy thần khí của hắn càng có thêm phần tự nhiên. Hòa thượng kia lại chẳng buồn nhìn, vươn tay, hất cổ thiếu niên, muốn thiếu niên ngồi xê ra cho mình ngồi. Hòa thượng cũng không ước lượng lực tay của mình lớn bao nhiêu, thiếu niên kia không đề phòng, thân thể vốn nhẹ, loáng cái bị hòa thượng hất cho loạng choạng mấy bước mới đứng vững lại được. Hòa thượng ngồi xuống rồi, thấy hắn bị đẩy thành bộ dạng ấy, cũng có chút xấu hổ, miệng lẩm bẩm: “Con mẹ nó, sao nhà ngươi nhẹ thế, ta cũng chưa dùng sức đâu...” Vừa nói, hắn vừa nhìn sang thiếu niên suýt bị hắn hất ngã kia. Thiếu niên kia vừa đứng vững, thần sắc của hòa thượng không khỏi ngây ra, mọi người giờ cũng nhìn rõ thiếu niên nọ, cũng nhất loạt ngây ngẩn. Lúc thiếu niên vào điếm, trong điếm vẫn chưa đông, sau khi vào rồi lại chỉ gục đầu xuống bàn ngủ, cho nên chẳng mấy người nhìn đến hắn, bây giờ hắn bị hòa thượng đẩy ra ngay dưới đĩa đèn dầu sáng trưng, thật sự soi tỏ tường con người hắn, dáng vóc của hắn khiến người ta chỉ nhìn một lần đã khó có thể quên: vai thon tay dài, eo nhỏ mông hẹp, gáy thẳng cổ thuôn, không chỗ nào không khiến cho người khác cảm thấy đẹp, dường như hợp với lòng người. Phần đông vẫn chưa từng gặp qua thiếu niên nào đẹp đẽ tới vậy, có người không khỏi đưa ánh mắt tức giận nhìn hòa thượng nọ, trong mắt rất bất mãn: “Người ta trêu chọc gì ngươi? Vừa mới tới đã thiếu chút nữa xô ngã người ta.” Hòa thượng cũng tự gãi đầu, lầm bầm: “Cậu nhóc thật đẹp trai! Con mẹ nó, hòa thượng lại thô lỗ rồi.” Mọi người thấy hòa thượng ngốc nghếch ra mặt, không nhịn được đều cười ồ lên. Chủ quán đã tìm thêm được một cái bàn nhỏ, đặt thật xa khỏi hòa thượng kia, sợ lại sinh sự, rồi mời thiếu niên ngồi đó. Thiếu niên cầm bọc đồ của mình, tới cái bàn đó rồi lại gục xuống bàn ngủ tiếp. Người xung quanh bình thường trở lại, mới nghe thấy giọng nói non nớt của một tiểu cô nương: “Ông ơi, ở đây có hai cái bánh bao, một cái của ông, một cái của cháu.” Thì ra là hai ông cháu lão mù đang ngồi bên lò sưởi hong quần áo ướt. Bàn tay trái của cô bé lại chỉ có một cái bánh, tay phải thì vờ như cũng cầm một cái. Cô bé đưa cái bánh trong tay vào tay ông mình rồi mới nói: “Ông à, cái này bé, ông ăn đi nhé!” Ông lão mù có chút nghi hoặc, hỏi: “Chẳng phải buổi trưa chỉ còn lại một cái thôi sao, thế nào lại biến thành hai cái rồi?” Lại nghe cô bé cười nói: “Buổi trưa là cháu đếm nhầm, dưới đáy túi vẫn còn một cái.” Nói rồi làm bộ cắn một miếng, còn “ui” lên một tiếng, nói: “Ông ơi, cái này của cháu hơi thiu rồi.” Mọi người mới biết thì ra vì lương khô không đủ, chỉ còn lại có một cái bánh bao, sợ ông mình không chịu ăn nên cô bé mới phải lừa ông ăn một mình. Thấy cảnh đó, không ai không cảm thấy khóe mắt cay cay. Lão mù giờ mới tin, bắt đầu ăn chiếc bánh trong tay, miệng vẫn không ngừng nói: “Tiểu oa nhi, chớ có kén chọn quá, lương thực trồng được không dễ, có ăn là phúc rồi, không được nhè ra đâu đấy. Đây là đồ ăn hôm nay, ngày mai còn không biết có cái ăn hay không đâu.” Mọi người thấy tiểu cô nương tuy bé mà hiếu thuận nhường ấy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thán, đều đang nghĩ muốn giúp cô bé một bữa. Hòa thượng bên kia cũng nhìn thấy, gãi gãi cái đầu, lầm bầm: “Con mẹ nó, con mẹ nó.” Rồi đập bàn một cái thật mạnh, gọi như sấm rền: “Tiểu nhị!”, dọa cho chủ quán sợ giật nảy mình, hòa thượng đã to tiếng bảo: “Còn không mau đem cho ông cháu tiểu cô nương đó mấy cái bánh bao? Phải nhân thịt đấy, thêm mấy khoảnh thịt trâu sấy khô để họ đem đi ăn trên đường, mang thêm hai bát canh nóng nữa, nhanh lên!” Chủ quán nghệt ra, hòa thượng đã giận, quát: “Làm sao, sợ lão tử không trả tiền à?” Chủ quán vội vàng chạy đi. Người xung quanh lúc trước thấy hòa thượng tướng mạo xấu xí, hành vi thô lỗ, vốn rất ghét, không ngờ hắn hóa ra lại là người tốt. Tiểu cô nương cũng không nghĩ lại có việc tốt đến vậy, cô bé hiểu chuyện, vội vàng đứng dậy tới cảm tạ, nghĩ chắc bởi cũng có lòng tự tôn, hoặc giả nhớ tới chuyện gì khác mà trong mắt đã lặng lẽ đổ lệ. Bấy giờ mưa bên ngoài vẫn tiếp tục tíc tách rơi không ngừng, được một lúc mới nghe thấy lại có tiếng ai đó dắt ngựa rủa trời đi tới trước cửa. Chủ quán vội ra nghêng đón, buộc ngựa, chỉ nghe người ngoài kia cất giọng the thé, khẩu khí nghênh ngang, vênh váo, vén rèm tiến vào, thì ra là một hán tử tuổi ngoài ba mươi, mỏ nhọn má khỉ, thân mặc áo lụa, trang phục kiểu gia nhân phủ quan. Thật đúng là “tể tướng gia nhân thất phẩm quan”, chỉ thấy gã thần khí kiêu căng, đưa mắt quét một lượt trong quán, đúng như gã nghĩ, chẳng hề có vị quan gia nào, mặt bèn lộ vẻ khinh rẻ. Đến khi nhìn tới bàn của tiêu cục thì thoáng ngớ ra, nhưng hình như có quen biết liền chắp tay hướng tới lão giả họ Tần, vái chào: “Tần lão gia tử, ngài cũng ở đây sao?” Bên kia Tần lão gia tử hơi khom người, đáp: “Lai quản gia cũng ra ngoài làm việc à? Không ở nhà hầu hạ Mặc Kỳ đại nhân sao?” Bộ dạng kẻ kia nhìn thế nào cũng không giống hạng quản gia đúng mực, Tần lão gia tử gọi như thế có lẽ là để cho dễ nghe. Vị “Lai quản gia” nọ nghe rồi quả nhiên mặt mày vui vẻ, giậm giậm chân rũ bùn, miệng nói: “Chẳng phải sao, vì một lão mù lão bất tử với một con nha đầu tiểu bất tử, Mặc Kỳ đại nhân ra lệnh xuống dưới, sai tôi đi thông báo tới các phủ nha truy bắt, khiến cho mưa gió thế này mà chẳng được yên thân.” Mấy cái giậm chân của gã rất mạnh, nước mưa lẫn bùn đất bắn cả lên mặt mấy người ngồi ghế thấp gần đấy. Mấy người bị bùn bắn thấy khí thế gã như thế, cũng đều không dám mở miệng, chỉ đành nhẫn nhịn, nhận mình xui xẻo mà lau đi. Lão giả họ Tần gật đầu, không nói thêm gì nữa. Từ lúc gã tiến vào, hai ông cháu ngồi bên kia đã sợ hãi run cầm cập, sợ gã nhìn thấy mình, bèn cố sức thu người ẩn vào bên trong. Có điều căn phòng nhỏ thế này, hai người lớn bằng ấy, có trốn cũng trốn được đi đâu đây? Lai quản gia nọ vừa quay người liền thấy ngay hai người đó, lập tức mặt mày vui vẻ, cười lạnh: “Ta bảo vì sao chỗ nào cũng tìm không được các ngươi, hai đứa nô tài không biết sống chết là gì - hóa ra hai đứa ăn mày nhà ngươi lại chạy tới đây, làm bọn ông tìm mãi! Ngoan ngoãn ngồi yên đấy cho ông, đợi ông đây ăn cơm xong thì theo về... Hại ông đây mưa to thế này mà cũng bị lão gia tử phái ra ngoài chạy đôn chạy đáo, rồi đây xem xử lý bọn bay thế nào!” Cô bé kia cầm tay ông nội, nước mắt sớm đã rơm rớm, lúc này kinh sợ không nhịn nổi nữa, cuối cùng “oa” một tiếng bật khóc. Bánh bao nhân thịt trâu trong tay không nuốt được miếng nào, khuôn mặt bé nhỏ bị dọa cho tái nhợt, mắt đỏ quạnh, vô cùng đáng thương. Mọi người đều không biết là chuyện gì, cũng không tiện mở miệng. Lão giả họ Tần thấy tiểu cô nương đáng thương, đang định lên tiếng, gã “Lai quản gia” kia đã phát hiện, tranh trước nói: “Đây là việc đại nhân nhà chúng tôi đích thân giao xuống”, lão giả họ Tần thở dài, chỉ đành không nói nữa. Lai quản gia nọ hẳn cũng đói rồi, trước gọi gà gọi thịt, loạn lên một lúc, hồi lâu sau mới gọi xong món. Gã vừa cầm đũa lên, nhìn sang ông cháu kia một cái mới sực nhớ ra gì đó rồi lẩm bẩm: “Tiểu nha đầu ngươi lanh trí, lần trước để cho ngươi chạy mất, lần này ta phải đề phóng một chút mới được.” Nói rồi móc trong túi ra một cái gông cực kỳ tinh xảo, xem trọng lượng chẳng quá hai, ba cân nhưng chế tạo rất công phu, chỉ thấy mặt dưới hai cái vòng to có xâu xích, xich này gắn với hai cái vòng nhỏ hơn ở mặt trên, dùng để trên trói tay, dưới cột chân. Thẩm Phóng cùng Tam Nương nhìn nhau một cái, gã này mở miệng đại nhân, khép miệng Mặc Kỳ, xem ra nhất định là Mặc Kỳ Tiết rồi. Vợ chồng Thẩm Phóng ở Trấn Giang từ lâu đã nghe rằng, từ lúc môn sinh của Mặc Kỳ Tiết là Ngô Cẩn đảm nhiệm chức Đại Lý Tự Thừa tới nay đã chế tạo ra rất nhiều hình cụ mới mẻ, gã gia nhân này đại khái là người của Mặc Kỳ gia. Món hình cụ kia đúng là mới lạ chưa từng thấy, thanh niên mắt to mày rậm của tiêu cục nhìn thấy không nhịn được đang định mở miệng, Tần lão gia tử bấy giờ vừa cẩn thận nhìn lên trên đầu tiểu cô nương một cái, liền lắc đầu với hắn. Thanh niên kia ngẩn ra, thấp giọng vội hỏi: “Sư bá, bọn họ tốt xấu gì thì cũng là tới cùng đoàn xe của chúng ta, cũng rất đáng thương, tiểu cô nương kia lại hiếu thuận, ngài cầu tình một phen, một tiểu cô nương có thể mắc được tội lớn thế nào?” Lão giả họ Tần vẫn lắc đầu như cũ. Gã thanh niên vẫn muốn nói gì đó: “Nhưng mà...” Lão giả đã chỉ vào đầu tiểu cô nương, nhẹ giọng nói: “Ngươi xem trên đầu cô bé.” Gã thanh niên nhìn về phía trên đầu tiểu cô nương, thấy ngoài cây thoa gỗ ra thì chẳng có gì đặc biệt cả, bèn nghi hoặc nhìn về lão giả họ Tần, Tần lão gia tử chỉ nhẹ giọng nói: “Nó là người trong Bồng môn, cây thoa gỗ đó là tín vật của Bồng môn, ngươi yên tâm, tự nhiên sẽ có người ra mặt cho cô bé.” Tiểu cô nương đã bị dọa cho chỉ trực trốn, gã kia vẫn đi về phía cô bé. Hòa thượng nọ đã ngứa mắt lắm, bèn mắng: “Cẩu nô tài, ngươi bắt nạt một đứa tiểu nha đầu là nghĩa làm sao?” Lai quản gia kia nổi giận, hắn thế nào mà chịu thua người khác đây? Đang định chửi lại, lại thấy hòa thượng này thân hình hùng tráng, bản thân gã đơn độc một mình, hảo hán không chịu thiệt trước mắt, chỉ đành miệng hùm gan sứa nói: “Người xuất gia lại tới quả việc không đâu làm gì? Nó trộm đồ của lão gia tử nhà ta! Ta mang nó về không được sao?” Nói rồi nhìn sang bàn Tần Ổn, yên tâm trở lại, muốn trước tiên lối kéo một vị trợ thủ mới nói: “Không tin ngươi hỏi vị Tần lão gia tử này xem ta từ đâu tới, lại có thể nói bậy, đổ oan cho nó à?” Tiểu cô nương kia tuổi nhỏ mà đã rất hiếu thuận, với rồi ai ai cũng thấy, tự nhiên chẳng quá tin cô bé đi trộm đồ của người khác. Người khác còn chưa nói gì, cô bé đã khóc nói: “Không phải, cháu không trộm”, rồi bất giác trốn ra sau lưng hòa thượng. Khuôn mặt hòa thượng lộ vẻ ôn hòa hiếm có, hỏi: “Cô bé, cháu nói đi, rốt cuộc là có chuyện gì? Không phải sợ, có hòa thượng làm chủ cho cháu.” Lai quản gia nọ hình như sợ cô bé nói ra, chạy tới định túm lấy cô bé. Hòa thượng đại nộ, một cước đạp qua, gã kia nhảy giật lùi tránh được nhưng không né thoát một chưởng khác vỗ vả vào mặt, một chưởng này tiếng thật vang dội, trong lòng mọi người không nhịn được đều ngầm khen: “Đánh hay lắm!” Lai quản gia không ngờ hòa thượng này lại dám động thủ, vội lùi lại hai bước, bưng mặt, chỉ tay chửi mắng: “Con lừa trọc nhà ngươi chán sống rồi, tới việc của Mặc Kỳ gia ngươi cũng dám quản, môn sinh của lão gia tử nhà ta chính là quan Đại Lý Tự Thừa, cẩn thận bắt ngươi vào đập nát ba trăm sáu mươi đốt xương của nhà ngươi.” Gã không nói câu này ra còn đỡ, vừa dứt lời, hòa thượng lại càng động nộ. Đương thời Đại Lý Tự có thể xem là danh tiếng hiển hách, bên trong là vô số oan hồn chết oan, tới bậc trung thần như Nhạc thiếu bảo(1) cũng chết ở đấy. Hòa thượng trong lòng giận dữ nhưng không động thủ ngay, ngược lại liền ngồi xuống, vắt chân, hỏi tiểu cô nương: “Thứ chó má này muốn bắt cháu rốt cuộc là vì chuyện gì, cháu nói thật ra đi.” Tiểu cô nương thấy có người làm chỗ dựa, dần dần bớt run, bèn kể lại đầu đuôi. Cô bé sớm đã nghe quen ông nội kể chuyện, tự nhiên miệng lưỡi cũng lanh lợi. Lai quản gia nọ không muốn nó nói nhưng cũng không dám tiến lên. Chỉ nghe cô bé kể: “Năm ngoài nhà cháu vẫn ở quê cũ vùng Sơn Đông, vì cha cháu bị người ta đánh chết, mẹ cháu lấy người khác, quan phủ lại muốn đánh chết ông nội nên ông cháu cháu mới trốn đi.” Người bên cạnh hỏi: “Sao lại muốn đánh chết ông nội cháu?” Tiểu cô nương khóc nói: “Bọn họ bảo ông nội là “Bát tự quân”! Giống như cha cháu.” Hai mươi năm trước, Bát tự quân ở một dải Ký Bắc vùng Sơn Đông kháng Kim giết địch, uy danh lẫy lừng, rúng động một thời. Người trong quán không khỏi đều nhìn về phía lão mù, thấy lão bây giờ đói rét, cùng quẫn đáng thương bằng ấy, hóa ra năm xưa cũng là một trang hảo hán, trong lòng không khỏi trào dâng chút tôn kính. Lão mù nghe thấy ba chữ “Bát tự quân”, bất giác lưng dựng thẳng dậy, hình như cũng đang hồi tưởng năm tháng chinh chiến oai hùng khi xưa. Tiểu cô nương kể tiếp: “Đầu tiên ông và cháu lưu lạc tới Trung Đô, không có cơm ăn, cháu với ông nội bèn dựa vào việc kể chuyện xướng khúc sống tạm. Nhưng cũng thường là một bữa no một bữa đói, hôm đó, lạnh lắm...” Nói rồi, người cô bé run lên, tựa như trở về với ký ức, đủ để thấy ấn tượng với chuyện lúc ấy rất sâu. Trung Đô nằm ở Bắc Quốc, người xung quanh thấy cô bé quần áo mỏng manh, chắc hôm ấy cũng chẳng khá hơn là bao, có thể tưởng tượng được nỗi bi thảm của hai ông cháu cô bé lúc bấy giờ. “Hôm ấy, hai ông cháu lại một ngày không có cơm ăn, trên phố tuyết vừa đổ, cháu với ông nội đi loanh quanh ngoài tửu lâu, muốn xin người ta chọn một khúc, mong đổi chút canh nóng uống. Cháu chỉ còn một chiếc áo đơn thêu hoa là còn sạch, áo khoác rách quá rồi, cháu không dám mặc, sợ khách nhìn thấy không thích, chỉ đành mặc cái kia. Đáng thương nhất là ông nội cháu, ông vốn bị bệnh thấp khớp từ hồi trong quân, chắc chắn là lạnh hơn cháu nhiều. Ông và cháu tới cửa một tửu lâu lớn, cười nịnh những quản gia sai vặt ra ra vào vào, cười tới mức mặt cứng lại, hy vọng bọn họ dắt tới trước mặt chủ nhân hát một khúc, đợi mãi đợi mãi, trời sắp tối rồi, trong tửu lâu vứt bỏ cơm thừa canh cặn, cháu muốn xin đầu bếp một ít để ăn nhưng bị ông ta quát mắng, liền không dám xin nữa. Ông nội không nói gì nhưng cháu thấy đôi mắt mù lòa của ông ngấn lệ.” Người trong điếm đa phần xuất thân khổ cực, nghe mà càng cảm thấy thảm thiết, không khỏi có chút cảm động, cô bé tiếp tục kể: “Về sau, có vị nữ chân nhân đội nón lớn gọi hai ông cháu vào. Trong tửu lâu ấm áp lắm nhé, nhóm than đỏ hồng, hai ông cháu tới một phòng nọ, trên tường dưới đất toàn là thảm lông, bên trên còn có hoa, ông nội không nhìn thấy, cháu lại nhớ được hết đấy. Mấy vị ngồi ở thủ tịch toàn là quan lớn, ngồi hai bên đều là quan nhỏ, vào rồi cháu mới biết thì ra còn có mấy vị là quan của nước Tống chúng ta. Cháu cũng không biết bọn họ tới làm gì, có lẽ là sứ thần của triều đình phương Nam mình từng nghe qua rồi. Vị đứng đầu trong đó là một người không có râu, béo múp míp...” Nói rồi sợ hãi liếc gã quản gia kia một cái, mọi người liền biết có liên quan tới gã. “... có lẽ chính là Mặc Kỳ đại nhân. Hôm ấy cháu lạnh cóng rồi, nhưng sợ hát không hay, ông nội lại bị đói một đêm, vừa vào cửa bèn ra sức xoa cổ họng. Hôm đó, người này...” Cô bé chỉ Lai quản gia. “... đứng cạnh vị quan nhà Tống mặt trắng nọ. Hôm đó, cháu hát tiểu khúc của Sơn Đông, không biết tại sao lại nhớ tới núi này, sông này, mùa xuân ấm áp hoa nở ra ngoài chơi này hồi còn ở quê, thật đấy, hôm ấy cháu hát hay lắm cơ, hát tới mức chính cháu còn quên mình đang ở đâu, lúc sực tỉnh thì thấy mấy người đó đều vỗ tay cười reo hào hứng vui vẻ, thế là cháu biết cơm tối nay có rồi. Vị quan nhà Tống mặt trắng, không râu cũng cười nữa. Cháu nghe vị quan nhà Kim nói tiếng Hán cứng đơ rằng: “Tiểu cô nương hát thật hay, thưởng!”, thế là có người thưởng cho cháu một nén bạc nhỏ, cháu mừng lắm. Vị quan nhà Kim mới quay sang vị quan nhà Tống mặt trắng, không râu, nói: “Chúng ta vừa nghe tiểu cô nương phương Nam hát rồi, nghe bảo đàn ông phương Nam hát cũng rất hay, lão già mù này không được, nghe nói Mặc Kỳ đại nhân đa tài đa nghệ, liền mời ngài cũng hát một khúc đi.’ Ông ta nói thế, một vài vị quan nhà Kim bên dưới người vỗ tay cười, nói: “Hoàng thượng của chúng ta năm xưa cũng từng xem hai vị Hoàng đế của các ông nhảy múa rồi, hôm nay chúng nghe Mặc Kỳ đại nhân hát ca thôi.” Cháu thấy mấy vị quan nhà Tống khác cắn răng không nói gì, có người cúi đầu đỏ bừng mặt, chỉ có vị Mặc Kỳ đại nhân kia mặt không đổi sắc, nói: “Nếu hạ quan hát hay, đại nhân cũng phải thường gì đó mới được.” Vị quan nhà Kim nọ cười bảo: “Được, ngài hát, ngài hát đi, hát hay có thưởng”.” Người ngồi đây vốn đều biết sứ giả đi sứ nước Kim luôn là chịu nhục mà về, chỉ có điều không nghĩ tới có người mặt dày vô sỉ tới trình độ đấy, quả thật còn chẳng bằng nhịn nhục lặng thinh, hòa thượng kia giận hỏi: “Hắn hát à?” Tiểu cô nương gật gật đầu. “Có hát.” Hòa thượng đại nộ, một chưởng vỗ lên bàn, chửi mắng: “Quân rùa đen trứng thối khốn nạn!” Thấy Lai quản gia nọ đứng bên cạnh, hòa thượng động thân, loáng cái đã tới bên cạnh Lai quản gia, một chưởng tát vào mặt Lai Phúc, Lai Phúc tránh không thoát, “ối” một tiếng, đương trường há mồm phun ra ba cái răng bị vả rụng. Hắn là dạng người khi yếu sợ mạnh, lúc này không ai chống lưng, mắt tuy trợn trừng nhưng cũng không dám hé răng phản kháng. Tiểu cô nương kể tiếp: “Về sau, chúng cháu lui ra. Sau đó, hai ông cháu cháu không sống nổi ở phương Bắc, trời lại lạnh thêm, ông nội mới đưa cháu chạy xuống phương Nam. Ngày qua ngày sống vẫn khổ nhưng cũng không thấy cảnh người Kim đánh người Hán nữa. Hai ông cháu trước ở Dư Hàng một chập, nhưng người Hán lại cũng vẫn đánh người Hán! Hai ông cháu cháu đến đâu cũng bị ức hiếp. Về sau, ông nội nói: “Đi, ông cháu mình vào kinh thành.” Mười mấy ngày trước, chúng cháu mới tới được Lâm An. Thành Lâm An lớn lắm nhé, vừa đẹp vừa phú quý, không ngờ ngày nọ, cháu hát kiếm tiền ở Thính Vân cư, vị Lai quản gia này lại tới dẫn hai ông cháu vào, ông ấy không nhận ra cháu, nhưng cháu nhận ra ông ấy. Đấy là một gian buồng thượng khách, bên trong chỉ có hai vị lão gia tử uống rượu, còn có một vị tỷ tỷ, thị hầu bọn họ. Trong đó có một vị lão gia tử, chính là Mặc Kỳ đại nhân đấy. Hôm trước, ông ấy hát, đèn tửu lâu rất sáng, cháu nhận được ra. Ông ấy thấy cháu vào, hình như sửng sốt, cháu biết ông ấy nhận ra cháu rồi, nhưng ông ấy vờ như không nhận ra cháu vậy. Cháu cũng sợ ông ấy biết cháu nhận ra ông ấy liền không dám nói gì, ông nội cảm thấy cháu run, liền hỏi: “Tiểu Anh Tử, cháu sao thế?” Cháu không dám đáp, vị Mặc Kỳ đại nhân nọ trừng mắt nhìn cháu, cháu biết ông ấy không muốn để cháu nói. Cứ thế hát được mấy khúc, Mặc Kỳ đại nhân liền bảo Lai quản gia đưa cháu ra sau nghỉ ngơi, lấy đồ cho hai ông cháu ăn, hai ông cháu cháu liền tới một gian phòng nhỏ phía sau.” Lúc này, mọi người đã đoán ra vị Mặc Kỳ đại nhân kia lòng mang ác ý, lão ở Lâm An trước nay bệ vệ như ai, sao chịu để tiểu cô nương kia nói ra trò hề của mình lúc đi sứ được. Tiểu cô nương kể: “Cháu với ông nội đợi trong gian phòng nhỏ đấy, đợi mãi, đợi mãi, bỗng thấy vị tỷ tỷ lúc trước đi tới, tỷ ấy nhìn chúng cháu một lượt, thở dài, chỉ điểm tâm nói: “Hai người ăn thêm chút đi.”, rồi cũng không rời đi, cứ nhìn cháu thở dài, tới mức trong lòng cháu thấy sợ, bèn lén hỏi tỷ ấy làm sao. Tỷ ấy nói: “Rốt cuộc hai người thế nào lại đắc tội với Mặc Kỳ lão gia tử thế, ông ấy vừa tiễn khách về, ta nghe trộm được ông ấy nói với Lai Phúc, sai đem hai người vào Đại Lý Tự giam lại đấy. Chẳng mấy chốc Lai Phúc sẽ tới thôi, hắn giờ đang chong đèn đưa Mặc Kỳ lão gia tử về phủ nha, không tới một tuần trà nữa là tới.” Cháu sợ chết khiếp, cháu với ông nội tới phương Nam tuy chưa lâu nhưng cũng nghe được đã vào Đại Lý Tự rồi rất ít người còn sống mà ra được. Cháu mới nói: “Vậy bọn em phải trốn thôi” Tỷ tỷ kia bảo: “Hai người trốn đi đâu, uổng phí công sức thôi, sao thoát khỏi lòng bàn tay ông ấy? Lại nói ông ấy sai ta tới chính là để trông hai người đấy.” Cháu với ông nội không biết làm sao, chỉ cầu xin vị tỷ tỷ đó, vị tỷ tỷ đó cũng chỉ than thở, không nói năng gì. Bỗng nhiên tỷ ấy nhìn lên đầu cháu một cái, thần sắc thay đổi, tỷ ấy chỉ cây thoa gỗ trên đầu cháu, hỏi: “Cái này ai đưa cho ngươi? Trên đó có khắc chữ phải không?” Cháu liền gật đầu.” Mọi người không khỏi dán mắt lên đầu cô bé, trên đầu cô bé quả nhiên có một cây thoa gỗ rất bình thường, không hiểu nổi tự dưng nhắc tới cây thoa là ý gì, chỉ nghe tiểu cô nương kể tiếp: “Vị tỷ tỷ ấy sáng mắt lên. Tỷ ấy nói: “Có thể cho ta xem không?” Giọng tỷ ấy hơi run run. Cháu mới để tỷ ấy rút cây thoa xuống, chỉ thấy tỷ ấy vuốt ve một lúc, hình như rất xúc động, nhìn thật kĩ chữ trên đó, mãi một lúc mới hạ quyết tâm, sắc mặt sáng bừng. Vốn trên mặt tỷ ấy sai phấn nhiều quá, cháu cảm thấy không đẹp, lúc bấy giờ chợt cảm thấy tỷ ấy đẹp rồi, chỉ nghe tỷ ấy thì thầm: “Không nhìn thấy cây Tử Kinh mộc thoa này mười năm rồi, trọn mười năm rồi.” Sau đó mới khe khẽ dạy cháu đọc chữ trên đấy...” Nói rồi, cô bé học theo khẩu âm của cô gái kia mà đọc: “... Cửa hèn chửa biết mùi nhung lụa, Muốn cậy người mai lại thấy đau, Ai mến phong lưu cao nhã hỡi, Cùng thương nghèo khó nhạt tô trang.(1)” Người biết chữ ngồi đây thì biết đó là bài thơ nổi tiếng của Tần Thao Ngọc gọi là Bần Nữ, hóa ra được khắc trên cây thoa gỗ đó, nhưng không biết bến câu ấy rốt cuộc lại mang hàm ý gì? Thẩm Phóng nhìn Tam Nương Tử, lại thấy nàng thần sắc xa xôi, ánh nến trong đôi mắt trở nên mơ hồ. Tiểu cô nương nói: “Vị tỷ tỷ ấy đọc xong hình như rất nhẹ nhõm, mở toang cửa sổ sau phòng, hất tung đồ trên bàn, lại chạy ra mở tung cửa sau mở ra mặt phố của tiểu viện. Khi về liền cho cháu với ông nấp lên trên giường. Trên giường có nhiều chăn lụa lắm, cháu sợ làm bẩn, không dám lên, tỷ ấy thì lại không để chúng cháu cởi giày, đem chăn chồng chất thật cao, tỷ tỷ nói: “Nhanh nhanh, nấp vào đi, nếu không thì không kịp mất!” Cháu với ông nội vội trốn đằng sau đống chăn, đợi chúng cháu nấp xong rồi, nghe tỷ ấy vừa sửa chăn vừa nói: ‘Sớm mai trời chưa sáng đoàn xe tiêu ở đối diện phố sẽ rời đi, hai người cầu xin bọn họ đưa mình theo. Bọn họ tốt bụng, nói không chừng sẽ đồng ý đấy, hai người trốn được hay không phải trông vào đó. Một lúc nữa có xảy ra chuyện gì cũng không được lên tiếng, nhớ kĩ, nhớ kĩ đấy.” Sau đó, tỷ răn cháu một câu cuối: “Sau này, nếu ngươi may mắn gặp lại người tặng ngươi cây thoa, thì nói tỷ muội bọn ta đều rất nhớ nàng.” Nói rồi cháu nghe bên ngoài có tiếng bước chân.” Tiểu cô nương chỉ Lai quản gia. “Ông ta tới!” Cô bé vốn rất sợ người này, lúc này giọng nói lại chợt trở nên sắc nhọn, tựa như có thâm cừu đại hận, sắc mặt Tam Nương Tử khẽ biến. Tiểu cô nương kia chỉ quản gia nọ nói: “Hắn, hắn vừa tới liền ép hỏi tỷ tỷ xem ông cháu cháu đâu, tỷ tỷ nói nàng vừa vào, không thấy đâu cả. Hắn nhíu mày, nhìn cửa sổ sau, lại nhìn ra cửa hậu viện, lầm bầm: “Hai đứa tiện nhân này cũng tinh tường gớm, lại gây phiền toái cho ông đây rồi.” Hắn định đi bỗng chợt quay đầu lại, chỉ tỷ tỷ nói: “Nhất định là ngươi thả đi rồi”, tỷ tỷ nghe thấy thế thì biến giọng nói: “Lai Phúc, lần trước ngươi ép ta không được, ngươi không được hại người như thế chứ.” Hắn cười khặc khặc: “Giờ ngươi mới nghĩ ra cũng không kịp rồi, ta nói với lão gia tử, chỉ sợ lão gia tử nhà chúng ta liền có lừa gỗ cho ngươi cưỡi”.” Chúng nhân vừa nghe thấy hai chữ lừa gỗ thần sắc đều cứng lại, đấy là một thứ cực hình tàn hại phụ nữ thời cổ, quả thật không phải là thứ người thường nghĩ ra được. Tiểu cô nương kia rõ ràng không biết lừa gỗ là ý gì, kể tiếp: “Cháu thấy tỷ tỷ sợ tới mức mặt mũi trắng bệch. Lai Phúc lại nói: “Vậy thì hôm nay ngươi thế nào đây?”, tỷ tỷ định cười nhưng cười không nổi, cháu biết tỷ vẫn là người trong sạch chỉ bán nghệ. Chỉ thấy tỷ chợt nói: “Ngươi xem, chẳng phải nó kia sao”, cháu sợ run người, cho rằng tỷ sợ rồi, chỉ chỗ bọn cháu, nhưng lại thấy tỷ chỉ ra ngoài cửa, Lai Phúc vừa quay đầu, cháu thấy tỷ tỷ bên kia đống chăn cất tiếng cười, tay cầm một cây kéo đâm vào ngực mình, nói: “Ta có chết cũng không chịu vấy bẩn trong tay loại nô tài ngươi.” Cháu sợ hãi thiếu chút nữa kêu lên rồi, đành cắn chăn, cái chăn đó chắc chắn bị cháu cắn rách rồi. Cháu thấy tỷ tỷ vẫn đang co ro dưới đất, máu chảy rất nhiều, rất nhiều. Hắn, hắn lại nhổ vào mặt tỷ tỷ, chửi: “Con điếm chết toi, xúi quẩy!”, rồi đá vào người tỷ tỷ một cái mới vội vàng chạy, cháu biết đấy là muốn đá đi xúi quẩy.” Lệ trong mắt Tam Nương Tử rơi lã chã, cây đũa trong tay cũng đang run rẩy. Răng cắn chặt, mặt vừa ngẩng, nước mắt cứ thế rơi xuống. Thẩm Phóng thấy mi mày nàng nhíu lại, ánh mắt lạnh lẽo nhìn Lai Phúc, liền biết bất kể trên trời dưới đất thế nào, thằng tiểu nhân này khó thoát một đao đoạt mạng của Kinh Tam Nương rồi. Một đoạn chuyện cũ này kể tới mức người ta nghe mà kinh tâm động phách. Cơn giận của hòa thượng nọ so với người xung quanh lại càng đậm, vừa đứng dậy đã vả thẳng một chưởng vào mặt gã quản gia kia, lần này đánh rất nặng, mặt gã quản gia sưng vù một mảng, miệng nhổ ra mấy cái răng, hòa thượng kia giận dữ nói: “Cô nương kia thế nào mà lại là điếm, dẫu có là thì con mẹ mày cũng không bằng được, cái ả sinh ra thằng Mặc Kỳ kia mới đúng là đĩ điếm, nếu không sao lại sinh ra hạng tạp chủng ấy!” Mọi người chỉ cảm thấy cú đánh của hòa thượng đúng là đã giải hận trong lòng người, tới cả người trong tiêu cục cũng ngầm khen hay. Bỗng có người cất tiếng lạnh băng, nói: “Kim hòa thượng, ngươi uy phong gớm!” Người lên tiếng ngồi ở trong góc, cái bàn ấy tổng cộng có sáu người, người kia vừa nói xong liền cởi áo ngoài, lộ ra một thân sắc phục công sai, là trang phục của bổ khoái. Ngay sau đó, bốn người sau gã cũng đứng dậy, cởi áo ngoài, đều trang phục công sai. Bốn người vừa đứng lên vừa cởi áo khoác rồi nhảy ngay ra, vây lấy bốn góc xung quanh Kim hòa thượng. Người lúc nãy vừa lên tiếng lạnh lùng nói: “Kim hòa thượng, tìm ngươi quả không dễ chút nào!” Kim hòa thượng bật cười quái dị: “Ta đang bảo kẻ nào rụt cổ rùa ở đấy, thì ra là Hà đại bổ khoái, ngươi không cần nói lão tử phạm tội gì, một câu thôi, thằng nhãi nhà họ Lưu là ta thịt đấy!” Hà bổ khoái cười lạnh: “Đúng là hảo hán, rất sảng khoái!” Nói rồi nhìn về cái bàn mình vừa ngồi. Chỗ đó vẫn còn một người nữa đang ngồi, gã ngồi trong phòng mà vẫn đội nón, vành nón kéo rất thấp, lại thêm ánh đèn ảm đạm, căn bản nhìn không ra mặt mũi. Tam Nương Tử không nhìn Kim hòa thượng, không nhìn Hà bổ khoái nhưng nhìn chằm chằm gã này, nhỏ giọng nói với Thẩm Phóng: “Ngạo Chi, kẻ này là cao thủ.” Thẩm Phóng ngạc nhiên, lại thấy gã đội nón nghe lời Kim hòa thượng nói xong, chợt mở miệng nói: “Ngươi giết? Tóm lại là có nguyên do chứ, chớ ép ta ra tay... Ngươi nghĩ kĩ rồi hẵng nói!” Trong lời nói tựa như vẫn lưu cho Kim hòa thượng một đường lui. Hắn nói không nhanh không chậm, khí phách như của kẻ ra vào trốn thiên quân vạn mã, tới khí thế như của Kim hòa thượng mà cũng bị hắn đè ép xuống. Nhưng trong lời kẻ này, sắc thái quan cách quá nặng, hòa thượng cười ha ha: “Nguyên do? Hòa thượng giết người trước giờ chẳng có nguyên do, mà có vì nguyên do gì thì cũng không nói với lũ ưng trảo các người, mình làm mình chịu, các ngươi có bản lĩnh thì tới bắt ta, không đủ bản lĩnh thì mau cút xéo.” Kẻ đội nón cũng không nhiều lời nữa. Hà bổ khoái nhìn về phía gã như dò hỏi, gã trầm ngâm, không biểu thị gì. Hà bổ khoái cắn răng, phất tay, bốn thủ hạ kia lập tức rút đơn đao ép tới. Người xung quanh thấy có chuyện đã sớm nhường chỗ, lập tức dư ra một khoảng trống, Kim hòa thượng lầm lẫm đứng giữa. Chúng nhân bấy giờ đã cảm thấy hòa thượng kia là một hán tử ngay thẳng, kể có giết người thật cũng chưa chắc là việc xấu, tuy nhiên công sai làm việc, ai dám nhiều lời, chỉ mong tai ương không dây tới mình là xem như vạn hạnh rồi. Hà bổ khoái cười lạnh: “Cháu trai của Lưu Kỳ Lưu đại soái mà ngươi cũng dám giết, thật đúng là không còn vương pháp, Kim hòa thượng, lần này ngươi phiền phức to rồi... còn chưa bắt lại!” Vừa dứt lời, bốn gã bổ khoái lập tức xuất thủ, họ nhanh, hòa thượng càng nhanh, thiết trượng trong tay khua lên, hất một cái đĩa đánh thẳng vào đầu một gã công sai, miệng cười nói: “Lão tử bình sinh giết người chính là phường quan to rỗng tuếch, công tử thiếu gia, đấy là tính khí trời sinh của lão tử, thấy bọn nó ức hiếp người tốt thì ta bực mình, giết một đứa ít đi một đứa, giết hai đứa bớt hai đứa.” Lúc đang nói, mấy người đã quần đấu một chỗ, chỉ khổ mấy thứ bàn ghế chén bát kia, bị người ta tung đi hất lại, chẳng mấy chốc đã loảng xoảng vỡ tan. Hòa thượng kia tuy không đánh thoát ra được nhưng một cây thiền trượng vẫn vung vù vù. Món binh khí này của hòa thượng ở trong phòng có chút không triển khai được, bốn công sai kia thì chỉ lấy khéo chế mạnh, quấn lấy khiến cho hắn chẳng động đậy được. Hòa thượng càng đánh càng buồn bực, miệng mắng tới rung trời lệch đất, nhưng ra tay lại chẳng thấy hiệu quả, thấy cứ quần chiến thế này không biết bao giờ mới xong, trong lòng đã có chủ ý, thấy có kẻ một đao chém tới liền không tránh nữa, một trượng đánh lên mình kẻ khác, tuy chân hòa thượng bị chém chảy máu nhưng kẻ bị hắn đánh trúng lại càng bị thương nặng hơn, một chân lập tức gập xuống, không thể tái chiến. Hòa thượng cười nói: “Thống khoái, thống khoái, thứ lão tử thích giết nhất chính là công sai.” Nói rồi, chớp mắt chiếm được ưu thế, càng cười mắng chửi không thôi. Hà bổ khoái trước vẫn lạnh lùng đứng cạnh tụ thủ bàng quan, bây giờ chợt một đao đánh tới, đao như độc xà thổ tín, trên vai hòa thượng liền thấy có máu, nhoàng một cái, Hà bổ khoái lại lui ra lạnh lùng quan chiến, hòa thượng giận dữ mắng: “Ngấm ngầm đánh lén, cái thứ hảo hán ở đâu thế!” Hà bổ khoái kia lạnh lùng nói: “Ta là bổ khoái, chẳng phải hảo hán, ngươi là cường đại, tự nhiên càng không phải hảo hán.” Rồi nắm cơ hội, bày thế như định hành động, hòa thượng lần này đã đề phòng, vội vàng che kín chỗ hở. Hà Trừu Đầu lại chẳng động nữa, trên eo hòa thượng đã lộ ra chỗ hở, bị người khác lại một đao vạch phá áo, thiếu chút nữa rách bụng lòi ruột. Người bên ngoài tuy không biết võ nghệ nhưng cũng hiểu cứ đánh thế này, hòa thượng tất bại vô nghi. Người ngồi bàn nọ chợt nói: “Kim hòa thượng, niệm tình ngươi là trang hán tử, mau mau bỏ vũ khí xuống theo ta đi, miễn phải chịu nhục.” Hòa thượng giận nói: “Ngươi lại ở đó mỉa mai gì đấy, theo ngươi đi chính là nhục, cái gì mà miễn phải chịu nhục! Hòa thượng ông đây chính là chiến tử cũng không muốn nhìn nhà ngươi giả nhân giả nghĩa mèo khóc chuột kiểu đó.” Lúc nói, tăng bào lại bị rách thêm hai miếng, may mà chưa bị thương, chỉ thấy hòa thương mặt mày hung ác, áo rách tung bay, trở thành nhà sư điên chính cống. Bốn thanh đao quấn chặt lấy hòa thượng, Hà bổ khoái lại thấy được khe hở, một đao chém tới, nhát đao này của gã nhắm vào vai trái hòa thượng, chỉ cần đắc thủ, sợ gì không chặt xuống được một cánh tay. Lại chợt nghe có tiếng huýt gió, trước khi hắn xuất đao đã có ba cái đòn gánh khóa lấy ba thanh đao của ba gã công sai kia, hòa thượng rảnh tay, lập tức toàn lực đánh trả, một trượng khóa lấy chiêu Hà bổ khoái đánh tới. Binh khí của hòa thượng thô nặng, lúc cứng đối cứng tự nhiên có lợi. Lần này Hà bổ khoái không chiếm được tiện nghi, đao bị toác một vệt lớn, cổ tay cũng bị chấn cho tê rần, cơ hồ không cầm nổi đũa ăn cơm nữa, trong lòng cả kinh, ăn phải một phen lỗ không nhỏ. Nhìn ba người cầm đòn gánh lại là ba hán tử bộ dạng thôn dân hiền lành chân chất, đều là dáng vẻ nông dân điển hình, mặt mày chất phác, nhận ra được đấy là ai, Hà bổ khoái lập tức cười lạnh, nói: “Trương Nhân, Trương Nghĩa, Trương Dũng, ta vốn định thả các ngươi một lần, đây là các ngươi tự mình tìm tới cửa. Xem ra các ngươi cũng có liên quan tới án này. Chớ cho rằng cậy chút võ công Hỗn Giang Long truyền lại là các ngươi có thể xưng tên tuổi trên giang hồ, quan gia chính đang tìm lỗi lầm của các ngươi mà chưa được đấy!” Ba người kia rõ ràng là huynh đệ, lão đại lão nhị thoạt nhìn có vẻ rất thật thà, chỉ có lão tam xem ra là giống thanh niên nóng nảy, hắn liền lên tiếng trước: “Người cày ruộng bọn ta với thứ ăn thuế các ngươi vốn là thế bất lưỡng lập, hôm nay có liều cái thân này cũng không thể để ngươi giết ân nhân của bọn ta được.” Hà bổ khoái cười âm lãnh: “Hừ, ân nhân? Bọn bây với Kim hòa thượng đúng là một phường, thế cũng đủ để chém đầu các ngươi rồi... Vậy việc giết Lưu công tử hiển nhiên các ngươi cũng có phần? Ngài là hậu nhân của công thần, các người tới ngài cũng dám giết, thật quá mức xằng bậy! Hắc hắc! Cho dù hôm nay ta không xuất thủ thì cũng có người sẽ xuất thủ.” Nói rồi liếc người đội nón ngồi bàn nọ, hắn biết hiện Kim hòa thương có thêm ba trợ thủ, chỉ sợ đối phó không dễ, cho nên muốn dẫn lửa đốt núi. Người kia lại chẳng nói chẳng rằng. Trong ba huynh đệ vẫn là người trẻ tuổi nhất, tiến lên một bước, nhìn hai huynh trưởng nói: “Đại ca, nhị ca, hai người vẫn nhịn được, đệ nhịn không nổi nữa rồi. So với việc bị đám chuột đồng này từ từ gặm nhấm tới còn da bọc xương, chẳng bằng thống khoái liều một trận.” Hòa thượng kia liền vỗ vai hắn một cái, nói: “Được, tay họ Trương này được, tuy hòa thượng giúp các ngươi một lần nhưng trước giớ trong lòng nhìn không lọt cái dạng cặm cụi cấy cày của các ngươi, không ngờ ngươi hóa ra lại là hán tử nhiệt huyết.” Thanh niên kia cười ngượng, sang sảng nói: “Hôm nay tôi sẽ nói rõ ràng cái đoạn kỳ án này, để mọi người nghe xem, người trong quán này đều không thân không thích với bọn tôi, đúng sai phải quấy tự có công luận, bấy giờ bọn tôi có chết cũng sẽ không để Kim đại sư bỗng dưng chịu oan, mà cũng sẽ đem nỗi oan khiên của mình rửa sạch với thiên hạ.” Lưu Kỳ vốn là danh tướng thời trung hưng, giết địch lập công, có ơn huệ với dân chúng, mọi người lúc trước nghe kẻ Kim hòa thượng giết là cháu của ông, đều không khỏi cảm thấy hòa thượng này lỗ mãng, giờ nghe lời nói của gã này tựa hồ bên trong còn có nội tình khác. Thanh niên kia chỉ đại ca mình, nói: “Chư vị, xin nhìn coi, ba huynh đệ tôi khỏe mạnh, trồng mười lăm mẫu ruộng, đáng ra nên đủ sống qua ngày rồi nhưng thuế thân có ba thăng, dân đen lại phải nộp một đấu, đại ca tôi hơn ba mươi rồi vẫn chưa thành thân, tới tận năm nay mới gom đủ tiền cưới chị dâu.” Người xung quanh không hiểu thế nào lại liên quan tới chị dâu gã, gã này nói năng thật không lanh lợi bằng tiểu cô nương kia. “Không ngờ người chị dâu này của tôi còn chưa nhập môn thì đã bị Lưu công tử nhìn trúng. Chúng tôi nào biết được, mà tới cả chị dâu chỉ e là cũng không biết, nàng vốn là con gái nhà bán đậu phụ trong thành Hồ Châu, thế nào mà lại rước lấy một trường đại họa vào thân. Cạnh chỗ chúng tôi còn có một phú hào, gọi là Chu Đại Hữu, nhà có mấy chục khoảnh đất, là bá chủ một phương, mười mấy năm nay đã nhìn chằm chằm vào mười mấy mẫu ruộng trong tay ba anh em tôi... Có được mảnh đất này của chúng tôi, ruộng của gã liền thành một mảnh, bèn ngấm ngầm cả ngày tính kế, ngặt vì thấy mấy huynh đệ chúng tôi có mấy người đây nên mới không bị hắn đoạt mất.” Nói rồi khuôn mặt gã hiện nét bi thương. “Nào ngờ, chị dâu tôi mới vào cửa được ba ngày, ba anh em tôi ra ngoài thăm đất, lúc về đã thấy chị dâu bị giết rồi, trên người không một mảnh vải, đầu lâu cũng không thấy đâu, ba anh em tôi hoảng sợ, mới khuyên đại ca nén cơn khóc lóc, vội vàng báo quan. Không nghĩ tới mắc phải nỗi oan bằng trời, chúng tôi mới tới sảnh quan thì đã bị huyện lệnh gông lại, ném vào nhà ngục, nói là ba anh em tôi lấy chung một vợ, luân phiên cưỡng gian không được, bèn giết người diệt khẩu, định vào đại tội, lập tức tống vào đại lao, định sau thu sẽ đem ba anh em tôi trảm quyết, đây há chẳng phải oan uổng tày trời sao! Nhưng phép quan như thế, dân đen biết làm sao? Ca ca tôi sợ liên lụy bọn tôi, chỉ đành một mình nhận tội, nói mình với chị dâu nhất thời bất hòa, mới động chân tay, tôi với nhị ca chẳng biết gì, chị dâu là do một mình mình giết, huyện lệnh mới thả hai chúng tôi ra. Đại ca trong lao, nha môn đòi nộp phí, chúng tôi muốn cứu đại ca thì phải nộp ngân lượng. Nhưng tiền trong nhà lúc cưới chị dâu đã dùng hết rồi, chỉ còn lại có mảnh đất. Chu Đại Hữu là thân thích của huyện lệnh, nhân cháy nhà tới hôi của, mười lượng bạc liền mua đứt mảnh ruộng tốt của chúng tôi, mà đại ca tôi vẫn y nguyên, không được thả ra.” Cái việc phú hộ chiếm đất bần nông này bấy giờ quan Tư Không nhìn quen rồi, mà mọi người cũng không lấy làm lạ. Thanh niên kia chỉ hòa thượng, nói: “Nếu không phải nhờ vị đại sư này, ba anh em chúng tôi vẫn một mực mù mờ không biết gì. Hôm đó, hai anh em chúng tôi đi thăm đại ca xong, dọc đường về nhà ôm đầu gào khóc, không ngờ vị đại sư này vừa hay đi ngang qua, thấy chúng tôi khóc, người mới hiếu kỳ, ngồi một bên nhìn. Chúng tôi cũng không có lòng nào để ý tới, lúc sống chết đến nơi rồi, mắt thấy huynh trưởng cùng mẹ sinh ra sắp chết oan trong ngục, làm sao không lòng dạ rối bời cho được. Không ngờ đại sư thấy chúng tôi khóc lóc không ngừng, người mới bực mình, đột nhiên đi tới, mở miệng mắng chúng tôi: “Hai thằng đàn ông, lẽ nào bị cắt cu rồi? Gào gào khóc khóc, còn ra cái gì nữa!”.” Mọi người thấy hắn kể lại lời tục tĩu của hòa thượng kia, trên mặt lại hoàn toàn không có oán giận, không khỏi buồn cười. Chỉ nghe hắn kể tiếp: “Anh em tôi lúc ấy không có lòng dạ cãi vã với ông ấy, cũng không thèm bận tâm. Vị đại sư này tuy thô lỗ nhưng rất nhiệt tình, lại truy hỏi tiếp, sau cùng bị đại sư ép quá, chúng tôi liền kể lại hết đầu đuôi sự tình. Đại sư ngồi đấy nghĩ ngợi một lúc, chúng tôi cũng chẳng biết người đang nghĩ gì, chỉ thấy mãi lúc sau, mặt trời đã chiếu khiến đầu đại sư vã đầy mồ hôi, người vẫn ngồi yên bất động, đời này tôi đúng là chưa từng gặp được ai nhiệt tâm như thế. Rồi đại sư bỗng nhảy bật dậy, to giọng nói: “Không đúng, không đúng”, chúng tôi mới hỏi có gì không đúng, ngài không đáp, lại nghĩ tiếp, hồi lâu chợt cười ha ha, nói: “Không phải lo, ta muốn xem, người chị dâu kia của ngươi chết thật hay chưa?”. Anh em tôi nghe mà ngây ra, chúng tôi tận mắt nhìn thấy thì sao mà sai được? Mới đem câu này hỏi xem ông ấy nói sao? Đại sư mới hỏi: “Đại ca các ngươi đúng là mới kết hôn có ba ngày?” Chúng tôi gật đầu, ngài lại hỏi: “Vậy hai người họ ngủ với nhau là ban ngày ban mặt hay buổi tối? Có thắp đèn hay không?” Câu hỏi này khiến tôi mù mờ, mới nghĩ ngươi là người xuất gia, sao có thể nói ra miệng những lời này, còn bày trò cười, không phải là khinh người quá lắm sao! Chúng tôi lập tức nổi giận, đang định xông vào đánh, không ngờ câu tiếp theo của ngài rất có lý: “Không phải cái xác ấy không có đầu sao? Lại không có y phục? Không thấy mặt mũi, huynh đệ các người thấy, sao xác định đấy là chị dâu ngươi? Nữ nhân trần truồng ngươi thấy được bao nhiêu rồi? Ngươi làm sao biết cái xác ấy không phải là của người khác, mà chính là chị dâu ngươi? Đừng lo, ta đã đoán được người đó quyết không phải chị dâu ngươi, hung thủ thật sự làm thế để che mắt người khác, khiến người ta cho rằng người chết là chị dâu ngươi để tiện bề động tay chân thôi, nếu không đã giết chị dâu người rồi lại còn cắt đầu làm gì? Cho vui à? Có thể làm bô tiểu đêm sao?”.” Mọi người nghe mà buồn cười, nhưng cảm thấy lời hòa thượng tuy thô tục nhưng trong thô tục có tinh tế, án này đúng là khả nghi thật. “Đại sư nghĩ ngợi một lúc lại hỏi: “Các ngươi có thù với ai không? Quanh đây mấy ngày nay có nhà nào thất lạc con gái không?” Hai ngày nay, anh em tôi cuống cuồng chuyện bản thân, còn quản gì việc khác? Anh em tôi trước giờ vẫn hòa hợp với láng giềng, chỉ vì chuyện bán ruộng mà có chút mắc mớ với Chu Đại Hữu, ngoài ra thấp thoáng nghe nói một đứa con gái của Vu Lão Thuyên làm nha hoàn cho Chu gia mấy hôm trước đã bỏ trốn, lúc ấy cũng không chú ý. Giờ kể mấy chuyện ấy cho đại sư nghe, ngài lại nghĩ một lúc, cuối cùng vỗ đầu, nói: “Không sai, chính là Chu Đại Hữu này!”, nói xong liền lẳng lặng rời đi, bọn tôi không hiểu, đang định đuổi theo hỏi, chỉ nghe đại sư nói: “Sau ba ngày nữa, ta sẽ quay lại trả cho các ngươi sự trong sạch”.” “Ba ngày sau, hai anh em tôi đang ngồi trong lều cỏ, lòng vẫn ghi nhớ chuyện này, không biết vị đại sư đó có trở lại hay không? Chợt thấy đại sư toàn thân đầy máu, tay cầm đầu người lắc la lắc lư. Sau lưng ngài là đại ca tôi, thứ cầm trong tay kia chính là đầu của Chu Đại Hữu. Bọn tôi bị dọa đến ngây người, nhưng không dám hỏi, thấy đại ca được cứu ra, trong lòng vừa mừng vừa sợ, liền chuẩn bị rượu, mời đại sư uống một hớp, uống xong mới tính đường chạy trốn. Đại sư vừa uống rượu vừa kể lại đầu đuôi. Ngài hỏi: “Ngươi có biết cái xác ấy là ai không?”, đại ca tôi rơi lệ đáp: “Là vợ tôi.” Đại sư liền phun nước bọt, mắng: “Óc lợn, tới vợ mình còn không nhận ra được, bị bắt là đáng! Ta tra ra rồi, cái xác ấy chính là khuê nữ của Vu Lão Thuyên làm nha hoàn trong nhà Chu Đại Hữu. Nó vì làm vỡ bát ngọc liền bị Chu Đại Hữu đánh chết, giết xong lại sợ bị người ta truy cứu, mới nghĩ ra cách ác độc, chặt đầu lột quần áo ném vào nhà các ngươi, rồi bắt vợ ngươi đi, vu cho ngươi giết người, hắn lại có thể thừa cơ chiếm đất của các ngươi”. Chúng tôi đều ngây ra, mới hỏi: “Thế chị dâu đâu?” Đại sư cười ha ha, đáp: “Đang khoái hoạt cùng một gã thiếu gia họ Lưu. Chu Đại Hữu thú nhận hết rồi, các người không biết chị dâu các người vốn có chút lẳng lơ, sớm đã bị thiếu gia họ Lưu kia nhìn trúng. Nếu chẳng phải Chu Đại Hữu tìm được người giao cho Lưu thiếu gia, chỉ dựa vào mình Chu Đại Hữu hắn, cái án này lại có thể kết thúc trơn tru thế sao?”.” Mọi người nghe mà lưng đổ mồ hôi, mới nghĩ Chu Đại Hữu này âm mưu thật độc! Trương Dũng lại kể tiếp: “Đại sư không chịu nhận ba người chúng tôi dập đầu, mắng bọn tôi hèn yếu, không có chí khí, không dám vào thành đoạt lại chị dâu, ngài tức giận bỏ đi, nghĩ lại thì chính là cứ như thế đi giết Lưu công tử, Lưu Kỳ Lưu đại nhân tuy là có ơn với thiên hạ thương sinh, nhưng giết Lưu công tử nọ lại thực sự là có nguyên nhân, không phải cái sai của vị đại sư này.” Chúng nhân nghe rồi cũng ngấm ngầm gật đầu, hòa thượng kia lại ha ha cười: “Nói cái gì đúng với sai! Xin chúng nó tha cho à? Hòa thượng ta giết người chính là giết người, không quản đúng sai. Ngươi sợ con mẹ nó vương pháp, đấy chỉ là vương pháp của một mình Triệu lão nhi, bủa giam chính là đám cá nhỏ trùng nhép xám xịt các ngươi, lão quản gì thương sinh bách tính thiên hạ?” Nói rồi, liếc nhìn bốn phía, thần sắc khinh miệt. Thẩm Phóng thấy hắn một mực thô lỗ, tục tĩu nhưng lời này lại cực kỳ sâu sắc, nghĩ một hồi càng thấy khắc sâu vào lòng, quay sang nhìn Tam Nương Tử, chỉ thấy trên mặt nàng cũng toát lên cảm giác gặp kẻ tri âm. Người bên cạnh chỉ cảm thấy lời này chẳng biết kiêng kị, đơn giản là công nhiên tạo phản. Hà bổ khoái cười lạnh: “Kim hòa thượng, nói thật đi, lần này ngươi chạy tới đây rốt cuộc là theo hiệu triệu của kẻ nào? Tới để làm gì? Khai ra, ta sẽ tha cho ngươi một mạng.” Kim hòa thượng cười ha ha: “Ta hả, ta đến chính vì chuyến tiêu này; người nào kêu gọi hả, chính là không nói được, không thể nói!” Nói rồi, hắn đột nhiên bật người, một chưởng đánh tới người đội nón ngồi ở bàn nọ, miệng nói: “Lão tử chơi nửa ngày, tiểu tử ngươi cũng tới chơi đi, chuyến tiêu này lão tử không cướp nữa, trước tới đấu với ngươi.” Hà bổ khoái lộ vẻ vui mừng, tựa như đúng với ý định, gã chỉ sợ Kim hòa thượng không chọc người này! Hà bổ khoái nhấc tay, sai bốn tay thủ hạ chăm chú trông ba anh em Trương gia, còn mình chắp tay đợi người kia xuất thủ. Người ngồi bên bàn nọ chẳng buồn đứng dậy, tùy tiện đưa tay ngăn liền hóa giải luôn một chiêu của Kim hòa thượng, trả một chiêu Kim hòa thượng liền bị bức tới mức chỉ có thể tự vệ, lại một chiêu nữa, mọi người đều không kịp nhìn rõ thì Kim hòa thượng đã lùi liên tiếp mấy bước, lồng ngực nhấp nhô hít thở một trận. Vừa rồi chúng nhân đều từng thấy Kim hòa thượng sức lớn chiêu nặng, nhưng không biết tại sao chạm vào tay người này thì hoàn toàn chẳng có tác dụng, đúng là “cờ sai một nước, trói tay trói chân”. Kim hòa thượng quả đúng dũng mãnh chẳng sợ chết, gào nói: “Chu Phi Sách dưới trướng Lưu lão nhi quả nhiên lợi hại, danh bất hư truyền!”, nòi rồi lại vung trượng đánh tới, hòa thượng đã dùng tới bản sự giữ nhà “phong ma trượng”. Người nọ ngồi tại chỗ, tùy tay chiết chiêu nhưng không hề hoàn thủ, hẳn là nghe xong một phen nói năng vừa rồi lòng sinh mâu thuẫn, không biết rột cuộc nên hay không nên bắt Kim hòa thượng này, mà bắt rồi thì lại phải làm thế nào. Hắn là ái tướng dưới trướng Lưu Kỳ, quan hệ với Lưu phủ rất sâu, không bắt người về, thật không biết giao phó thế nào mới được; mà bắt hòa thượng về quả thật là không nhẫn tâm. Hắn từ lâu đã biết Lưu công tử kia làm người thế nào, cậy vào uy thế của chú, quả đúng không gì không làm, mọi người ngại thể diện, cũng không tiện nói với Lưu Kỳ. Bấy giờ thấy Kim hòa thượng không biết tiến thoái, trong lòng buồn bực. Cuối cùng, hắn cắn răng, một tay gạt đi thế công của Kim hòa thượng, tay kia vừa duỗi đã hướng tới khóa họng Kim hòa thượng, đây là “Trường Bạch tỏa hầu thủ” nổi tiếng, bàn tay dựng thế, cổ tay phát lực, ngón tay phá họng, Tam Nương Tử bên kia nhướng mày, trong đám tiêu sư cũng rúng động một trận, đều nhận ra cái hiểm độc của một chiêu này. Kim hòa thượng hoảng hốt, liệu được không tránh nổi, thần sắc ngang ngạnh, cất tiếng cười ha ha, không lùi mà tiến, cũng chẳng quản cánh tay kia, song chưởng hướng thẳng tới ngực người kia đánh tới, đây chính là lối đánh liều mạng. Người kia cả kinh, thân hình lùi lại, khiến cho chén bát rơi xuống đất, kêu loảng xoảng, trong lòng không khỏi giận dữ, một chiêu kia của hắn vốn chỉ muốn chế trụ hòa thượng, không ngờ hòa thượng này lại dũng mãnh như thế, có gan liều mạng. Hắn đối địch trước nay chưa từng lỡ mất tiên cơ, vừa rồi sơ ý, vì tự cứu mình, lập tức từ chụp hóa móc, chưởng hình đổi thành mỏ hạc, chính là đau lòng hạ sát thủ! Mắt thấy hòa thượng sắp phải cổ họng vỡ nát, hồn về tây thiên, ba anh em họ Trương đều kêu “Không được”, Thẩm Phóng cũng khom người, chợt thấy một bóng người xông thẳng tới, đánh vào ngực người ngồi bàn nọ, hắn chính là đánh vào chỗ không thể không đỡ, người ngồi bên bàn kia tay vốn là sắp đánh tới cổ Kim hòa thượng lại không làm sao được đành phải lật lại nghêng đón chưởng đang đánh tới, nhưng vẫn dùng tay kia vỗ vào đầu Kim hòa thượng. Hai người vừa chạm nhau thì đều chấn động, người xuất thủ tương cứu kia liền thổ ra một ngụm máu nhưng thân thủ không ngừng, kéo Kim hòa thượng lùi lại một trượng, ngừng ngay ở cửa, thuận tay đánh rụng đơn đao của một bổ khoái, rồi hướng về ba anh em họ Trương quát: “Chạy!” Ba anh em họ Trương ngây ra, họ phản ứng quá chậm, lại do dự một lúc, bấy giờ thời cơ trốn chạy chỉ còn thoáng chốc, ngần ngừ như thế, Hà bổ khoái đã đem bốn công sai kia khóa kín đường đi. Kim hòa thượng tuy thoát hiểm nhưng trên cái cổ thô dày lưu lại một vết tím, trông rất dọa người. Hòa thượng hít thở đã có chút khó khăn nhưng vẫn hướng về phía người bên bàn nọ, cười nói: “Rốt cuộc ngươi vẫn phải đứng dậy rồi!” Tựa như rất vui vẻ, người ở chỗ cái bàn kia gỡ chiếc nón trên đầu xuống, để lộ một khuôn mặt chữ quốc, sắc mặt hiện vẻ giận dữ nhưng vẫn khí vũ hiên ngang. Vừa rồi, tuy hắn hung hiểm đánh lui hai người kia nhưng ngực cũng đã bị Kim hòa thượng quét trúng, trong ngực nôn nao không dứt, bèn lạnh lùng nói: “Không ngờ “hoạt mộc đầu” Vương huynh cũng tới rồi, mấy kẻ trộm sông cướp bể vẫn là đi cùng một đường.” Kim hòa thượng nhìn người vừa ra tay tương cứu kia, thần sắc rất hiền hòa, nói: “Vương Mộc, ngươi cũng địch không lại lão tiểu tử này, việc gì phải khổ thế?” Người tên Vương Mộc tuổi tác không lớn, khuôn mặt cứng ngắc, bộ dạng thiếu niên già dặn, hắn vỗ ngực nói: “Ta... đã gọi ngươi tới đây, tự nhiên nên cùng sống cùng chết.” Hòa thượng than: “Xem ra chuyến tiêu ngân này cướp không được rồi, có điều dù cho chúng ta có chết, bọn chúng cũng chẳng thấy được hàng chuyển tới đầu kia, chỉ là, chỉ là, ngươi nói người kia hiện đang cấp bách như thế, chúng ta giúp hắn chuyện đại sự này không thành rồi. Hòa thượng chết cũng chẳng đáng gì, ngươi chết rồi chuyện đại sự kia ai làm bây giờ?” Vương Mộc đáp: “Có việc ắt có người lo... Hôm nay, huynh đệ ta liên thủ, trước cứ xem xem có ứng phó nổi Trường Bạch phi tỏa Chu tướng quân dưới trướng Lưu lão soái năm xưa cùng đại tiểu tỏa hầu nhất thập cửu thủ của hắn không!” Kim hòa thượng gật đầu, nói rồi hai người tựa lưng vào nhau, tuy người mang vết thương nhưng sát khí vẫn bức người, thế như hùm beo. Không khí trong phòng căng như bong bóng, chợt nghe có người nói: “Chu tướng quân, xin nghe lão nói một câu.” Chu tướng quân quay đầu lại, thấy nơi cất lên tiếng nói có hai lão già. Hai người cũng không xem là quá già nhưng mặt mày phong sương, chẳng hề bắt mắt. Hai người đều một thân áo vải gai giày cỏ, một người mặt xám xanh, ánh mắt ảm đạm, người kia lại rất lùn thấp, mái tóc màu vàng. Lúc hai người đó ngồi đấy thật chẳng khác gì những người xung quanh, tựa như nước nhỏ vào biển, hoàn toàn không khác biệt nhưng vừa đứng dậy liền có một loại khí thế khiến người khác không dám coi nhẹ. Chỉ thấy người bên trái ôm quyền “Lão hủ Đỗ Hoài Sơn”, người kia khom người: “Tiểu lão nhi Tiêu Tứ Ẩn.” Chu tướng quân cau mày, người có danh cây có bóng, biết đấy là nhân vật có tiếng trong nghĩa quân Hoài Bắc, chỉ đành đáp lễ, nói: “Hoài Tứ nhị lão, ngưỡng mộ đã lâu, không biết có gì dạy bảo?” Lão già bên trái than rằng: “Không dám, không dám. Vốn là tiểu lão nhi cũng không nên lắm chuyện, dựa vào hai anh em lão đây, cũng không dám khuyên Chu tướng quân thế này thế nọ. Nhưng mấy người hậu sinh này tuy có làm bừa làm bậy đôi chút nhưng cũng là do nghĩa khí, một thân nhiệt huyết hiếm có, lại nói chuyện kia, Lưu công tử vốn không đúng, cứ thế bắt đi chịu tội cũng có chút đáng tiếc, triều đình vốn có luật sung quân giảm tội, nếu bọn họ tình nguyện, không bằng bảo bọn họ tới Hoài Thượng, kháng Kim giết địch, chết nơi biên cương, đối với mấy người họ mà nói, cũng là cảm thấy chết không oan khuất rồi; đối với Lưu lão soái mà nói, cũng tính như kết thúc đoạn ân cừu này.” Họ Chu nọ nhíu mày, ánh mắt dịu xuống tựa đang cân nhắc. Bằng vào thể diện hai người Đỗ, Hoài, hắn tuy không tiện không nể nhưng ân tình của Lưu Kỳ đối với hắn cực nặng, hắn không đến mức vì một câu của hai người này liền thu tay tại đây, chỉ là Kim hòa thượng tuy việc kia làm quá đáng nhưng cũng không thể tính là sai, Chu tướng quân bởi thế không khỏi trầm ngâm, lại nghe hai lão già kia nói: “Chúng tôi cũng biết Chu tướng quân cứ thế mà về thì khó gặp chủ xưa, bọn lão đây nói cũng không đáng gì nhưng Chu tướng quân cứ xem như nể mặt người nọ ở Hoài Thượng đi, năm xưa ngài từng ký “Đào tử lệnh(1)” với Lưu lão soái, hiện giờ bên người ngài cũng quả thật thiếu người, tiểu lão nhi thay mặt ngài xin về cái mạng của năm người này, Chu tướng quân thấy sao? Dù Lưu lão tướng quân có biết, hẳn cũng không khiển trách gì.” Chu tướng quân nhướng mày: “Hoài Thượng?” Lão giả kia khẽ cười, chợt đưa một ngón tay trái vẽ một vòng nho nhỏ trước ngực, sau đó đưa lên cạnh miệng ngửa đầu, giống như đang uống rượu. Kim hòa thượng trên mặt đang cứng ngắc không phục, vừa thấy tư thế ấy vẻ hung dữ bỗng nhiên rút sạch, tựa như lập địa thành phật. Lão giả lại rút trong người ra một tờ giấy làm bằng da dê, ắt hẳn là cái “Đào tử lệnh” gì đó, tung về phía Chu tướng quân. Chu tướng quân tiếp lấy, thấy tư thế kia, gật đầu lĩnh ý, rồi chợt nhấc ly rượu, một hơi uống cạn, nói: “Được, nể mặt người kia.” Giậm chân một cái, người đã phóng ra ngoài cửa, chỉ nghe có tiếng vó ngựa, hẳn vừa rồi trực tiếp nhảy lên lưng ngựa rồi, mọi người còn chưa kịp phản ứng, hắn đã lao vào cơn mưa.