Dịch giả: NGUYỄN CẢNH LÂM
CHƯƠNG 2

    
áng sớm hôm sau, Oarieda và Chitali dắt vào cho Xam Giêry hai con ngựa non, khỏe để kéo cỗ xe đã chuẩn bị sẵn trước cửa nhà, dưới mái hiên.
Mini mang ra đặt lên xe một hòm sắt tây nhỏ, sơn đen, trong đó đựng đủ các thứ áo quần mà bà Bêxi đã sắm cho cậu con trai trong mấy tháng qua. Bà Bêxi từ trong nhà bước ra. Hiu theo sau, mình khoác bộ vét màu xanh nước biển, đầu đội chiếc mũ phớt chỏm tròn, chân đi đôi ủng cựa gà. Hiu chào từ biệt mọi người dáng oai vệ.
Oanna, Mich, Badi và Kunadu đều có mặt để được nhìn Hiu trước khi cậu đi xa. Giô Kunara cùng Bandoghera và các cháu Poli, Pingia với Giô Kunadu, bô lão của thị tộc, cùng có mặt trong buổi tiễn đưa.
Ăn sáng xong, Xam Giêry khệnh khạng bước ra khỏi buồng ăn ; đi cạnh ông ta có Bốp lẻ, một chàng trai mang dáng dấp trẻ con, đầu đội chiếc mũ lông chồn dính đầy bụi, mình khoác chiếc sơ mi trắng, khuất dưới chiếc áo choàng bằng nỉ Asơbatơn, cổ quàng chiếc khăn lông chồn mà mọi người bảo thường dùng đắp thay chăn trong ngủ. Xam Giêry ung dung, ra dáng làm chủ được tình thế.Đó là một gã đàn ông cao lêu nghêu, trạc ba mươi tuổi, chiếc áo sơ mi màu vàng sẫm không cài cúc để hở cả lồng ngực, chiếc khăn lông chồn quàng quanh cổ thò xuống tận hai đầu gối, cho gần kín hai bắp đùi, ngang lưng dắt một hộp diêm, một con dao và một chiếc tẩu. Ông ta có đôi vai gù, dáng đi lom khom, hai đầu gối khuỳnh ra như người ngồi trên lưng ngựa! Khuôn mặt sần sùi, rám nắng của ông ta nổi bật dưới vành chiếc mũ chụp lên mái tóc lơ thơ màu đồng đỏ. Ông ta mở tròn đôi mắt lồi xanh lơ, ngước nhìn đăm đăm, đôi mí mắt chín mọng, hai hàng lông mày màu cánh dán díu lại. Bộ râu màu đồng đỏ khô rúm của ông ta che gần kín miệng, chỉ đề lộ chiếc môi dưới màu đỏ và hai chỏm lông thò ra từ trong hai lỗ mũi trống hoác nhô lên lồ lộ ở giữa khuôn mặt rám nắng.
 - Chào ông Giêry, xin cảm ơn lòng tốt của ông. – Bà Bêxi nói.
 - Có gì đâu, bà! Xam Giêry đáp lễ -Tôi phải xuống miền Nam và có thể đưa cậu ấy đi cùng. Bốp sẽ trông nom bà đến khi nào thay ngựa.
Sau đó cậu ta mới lên núi Tơ Mơrơ để tìm vàng. Cậu ta hy vọng sẽ đánh hơi thấy mỏ vàng ở đấy, và như vậy có ngày cậu ta sẽ mang lại cho chúng ta sự thịnh vượng.
Vâng, đúng thế! Bóp khẽ nói rồi nghển cổ về phía sau, mặt trầm tư, như thể đã nhìn thấy những chùm hào quang rực sáng từ trong lòng đất, dưới chân những ngọn núi nhấp nhô ở phía đông bắc, dọc ranh giới trại Uytaliba.
Xam Giêry châm lửa hút thuốc trong khi Oarieda và Chitali đứng chờ trước cỗ xe. Rồi ông ta tháo những sợi dây cương quấn quanh chắn bùn, nắm chặt chúng trong đôi bàn tay sần sùi, rốp lên vì nắng, và cẩn thận bước lên xe. Bà Bêxi hôn từ biệt con trai rồi nhấc bỗng chú bé lên quá tầm cao bánh xe, đặt chú ngồi cạnh Giêry. Còn Ara, con trai ông ta thì tự trèo lên quá chiếc bánh xe bên kia.
 - Nào, lên đường! Xam Giêry nói to.
Hai chú ngựa vươn mình rồi lao nhanh về phía trước. Cỗ xe lăn bánh, để lại những vết hằn trên nền đường. Chú ngựa hồng mao to khỏe tỏ ra bất kham. Nó lùi lại một hai bước rồi chụm chân lồng lộn, nhưng không thoát. Giêry là tay cầm cương cự phách, ông ta để mặc chú ngựa tha hồ vùng vẫy, chỉ cần cầm chắc dây cương thế là chẳng mấy chốc các chú ngựa đã ngoan ngoãn ra đi, và một lúc sau, cả người, ngựa và xe, chở Giêry, Hiu và Ara, đã băng băng chạy trên cánh đồng, hất tung bụi đất đỏ, lao vun vút như một mũi tên giữa bầu trời ban mai rực nắng.
Xe chạy được một lúc thì Kunadu vội vã đi về phía cuối vườn, gần chỗ chiếc quạt gió. nó đóng cổng lại, rồi ngẫn ngơ nhìn theo những đám bụi cuối cùng tan biến vào những lùm cây nơi con đường vắt ngang dòng suối cạn. Mặt trời ban mai xối ánh sáng rực rỡ lên cành cây, ngọn cỏ. những đàn vẹt mào gà hối hả từ trong lùm cây bay ra, kêu chí chóe, rồi sà xuống kiếm ăn trên những cánh đồng giữa lúc cỗ xe vẫn lắc lư lăn qua trên những lớp đá cuội giữa lòng con suối.
Bốp lẻ băn khoăn chẳng hiểu có điều gì đặc biệt trong lời từ biệt bà Bêxi nói với đứa con trai non dại trước lúc nó đi xa, mà trông mắt bà đờ đẫn như vậy? Bà đứng lặng người, mơ màng nhìn lên cánh đồng như dồn tất cả ánh mắt vào cái quãng trống giữa những lùm cây, nơi cỗ xe vừa đi ngang qua. Gương mặt bà uu buồn, không khác gì bầu trời đông ảm đạm.
 - Thôi, cũng đành vậy! – Bà Bêxi tặc lưỡi, tự an ủi. – Đến Carara họ sẽ nhận được thư, không sao Bốp ạ. Vả lại tôi cũng đã có thư nhắc Pedi Henxon khi nào Giêry quá chén nhớ trông nom thằng bé hộ. Anh ta sẽ chăm sóc và giao nó cho thuyền trưởng Prenxon. Ông ấy với tôi là bạn học cũ. Người của nhà trường sẽ ra đón.
 - Vâng, đúng thế, - Bốp khẽ trả lời. giọng vụng về Kunadu đã đến đứng bên cạnh Mini và những cô bé khác - Bà Bêxi đã nhận thấy sự trống trải hiện lên trong đôi mắt cô bé.
 - Thế nào rồi chúng mình cũng sẽ nhớ nó lắm, đúng không cháu? bà nói với Kunadu
 - Dạ, vâ-âng ạ!.
Nếu có một tình yêu không lời mà nóng bỏng, mảnh liệt, tụ hội trong một cặp mắt đắm đuối, mơ mộng, thì chính nó đang rực chảy trong đôi mắt của cô bé thổ dân này. Bà Bêxi thấy nỗi đau và sự chịu đựng biểu lộ qua đôi mắt sững sờ của nó cũng da diết, không kém nỗi đau của lòng bà. Nhìn đôi mắt buồn rầu của cô bé, cái buồn da diết của một con vật trung thành bị ruồng bỏ, bỗng nhiên bà cảm thấy băn khoăn vì một ý nghĩ chua xót đã dày vò tâm trí bà trong mội thời gian dài.
Bả có thể hình dung những năm tháng phía trước những chuỗi thời gian dài dằng dặc trước mắt bà, như một màn sương mờ mịt. khiến bà lo sợ, hãi hùng một khoảng thời gian mơ hồ, bà không thể nắm bắt được, trong, khi chúng cứ thế trôi qua một cách lặng lẽ, cùng với sự lớn khôn của con trai bà, và chính bà cũng cảm thấy bất lực, không thể nào gần gũi, giúp đỡ hay chăm sóc nó.- Giờ đây với nó, bà đã quá xa cách. Nhưng còn đứa trẻ bên cạnh bà! nó vẫn còn đấy, mặc dù nó có thể cùng đi với con trai bà!
Kunadu chỉ hơn Hiu một tuổi mà từ bé đã phải y chăm sóc chú bé vá chẳng mấy chốc đã bị chú bé chi phối, bảo gì..cũng nghe theo.
Vui mừng vì thấy Kunadu chơi thân vớt Hiu, bà Bêxi bắt đầu dạy Kunadu học đọc, học viết và học đếm như bà đã dạy cho con trai mình.
Bà thầm nghĩ cô bé hay e thẹn nhưng duyên dáng thông minh lạ thường- Và lúc này bà lại nhìn Kunadu như thể đang tìm thấy ở nó một điều gì đáng quí hơn. Bà tự hào đã đối xử với những Người đầy tớ da đen. Bà thương không chịu được những gì giơ bẫn và không bao giờ cho phép mình đa sầu đa cảm, mặc dù mọi người đều biết đã có lần bà rất đỗi đau lòng trước câu chuyện của Maria. Tét Oát, chồng bà, vốn dĩ là một người đàn ông tốt bụng, và chừng nào chưa bị say thì quả là thật thà, chất phác - về điểm này mọi người đều nhất trí.
Nhưng do kém sức chịu đựng, nên chỉ sau vài chén là ổng đã say mèm, và hễ có hơi men là ông chạy lồng lên như điên dại.
Ít kẻ biết chuyện Maria, trừ bà Bêxi, nhưng bà người kín mồm kín miệng. những người thổ dân đồn rằng ông Tét Oát bắn chết con chó của Maria, vì vậy cô ấy rất ghét ông ta. Cô ấy tỏ ra vô lễ và hễ ông ta ngà ngà rồi là ông ấy bảo gì cô ta cũng chẳng nghe. Một hôm, Tét Oát đá Maria ngã lăn từ trên hè xuống sân. Mấy ngày sau Maria chết và chẳng nghe thấy ai nói gì về cô gái ấy nữa. Nhưng khí Tét Oát bước hụt từ trên ban công một khách sạn ở Karara. Rồi một tháng sau thì chết, những người da đen tin rằng trời đã trừng phạt anh ta.
Sau khi Tét Ốat chết đi, bà Bêxi vẫn tiếp tục cai quản trại Uytabiba. Thực ra mọi người đều biết chính bà đã gánh vác trại Uytaliba, trông nom trại kể từ khi vợ chồng bà mua lại khu trại này của Xôlơ Hadi.
Xam Giêry thích được bà Bêxi thỉnh thoảng hỏi ý kiến, và ông ta thường xuyên khoe khoang về chuyện đó, mặc dù biết rõ người đàn bà này có đủ khôn ngoan để lo liệu công việc của mình. Xam Giêry biết thừa rằng chính bà ta chứ không phải Tét Oát đã nẫng tay trên khu trại Uytaliba ngay trước mũi ông ta. Và vì thế, ông ta bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đổi khu trại Niuneoara với diện tích một triệu rưỡi hecta lấy trại Uytaliba.
Bà Bêxi là người có đầu óc thông minh, luôn sáng suốt trong mọi công việc. Không ai phủ nhận được điều đó, mặc dù chẳng ai hiểu nổi tại sao bà lại lấy ông Tét Oát. Hồi còn là một giáo viên trường trung học ở Rốbơn, bà đã kết giao và đi buôn cùng người đàn ông này.
Một thời gian dài họ đi vùng tây bắc, khi thì dùng ngựa thồ, khi thi dùng xe chở hàng từ miền duyên hải lên tận các khu trại vùng núi hay những khu mỏ dân cư thưa thớt ở Aơbơtơn, Pholexen và Đô Gơrây.
Lão Tét thì, chao ơi, tục tằn hơn quỷ sứ, - Xam Giêry nói. - Khá xinh trai, tốt bụng, nhưng dốt ơi là dốt, không biết lấy một chữ bẻ đôi.
Nhờ bà Bêxi dạy cho, lão mới biết viết, nhưng cùng chỉ vẽ nguệch ngoạc được dăm ba chữ mà thôi.
Bà Bêxi nghĩ nếu có được mội gian nhà riêng thì có thể giữ không cho Tét Oát lui tới quán rượu. Vì vậy, trong thời gian buôn bán ngược xuôi, đi đâu bà cũng để ý tìm. Rồi bà dốc toàn bộ số tiền hai người dành dụm được trong bao nhiêu năm buôn bán vất vả, mua lại của Xôlơ Hadi khu trại rộng một triệu acơ phía tây giáp dãy núi Nungarar, phía đông giáp dãy Tơ Mơrơ phía Bắc và Nam giáp các nhánh của những con sông vùng duyên hải. Sau đó, bà buộc chồng phải từ bỏ nghề buôn bán.
Khi bà đến hỏi mua trại, Xôlơ Hadi vừa bị thất thiệt ba ngàn gia súc; hầm rượu Uytxki cũng chẳng còn lấy một chai ; nên bà không phải mặc cả gì nhiều, chỉ việc ký một tờ séc hai trăm bảng trao cho ông ta và khi nào làm các thủ tục xong sẽ trả thêm hai trăm nữa. Đoạn bà chia ra, bản khế ước bắt ông ta ký ngay không cho kịp thay đổi ý kiến.
Giá là Tét Oát thì chẳng bao giờ tính ra và giải quyết một cách mau lẹ như vậy. Đấy là một vùng đất chết, cằn cỗi. Rộng hàng trăm dặm vuông, đến cả bạch đàn cùng khô héo ; và hẳn là Xôlơ Hadi kiệt quệ cũng chỉ vì nắng hạn kéo dài. Nhưng bà Bêxi thì ý thức được những điều mình đang làm. Bà đã nhìn thấy ở đây, trên vùng đất rộng lớn này, một đồng cỏ mênh mông vô tận, và tin rằng có ngày thời tiết sẽ thuận lợi. Quả vậy, chẳng bao lâu sau đó đã hết nắng hạn, trời đồ mưa, đồng cỏ tốt tươi và Xôlơ Hadi không nỡ từ bỏ cái xứ sở mà mình đã bám rễ lâu nay. Ông ta, nói là không thể nào từ bỏ Uytaliba, nơi ông ta đã gắn bỏ cả cuộc đời, muốn vĩnh viễn gửi gắm nơi đày tất cá linh hồn và thể xác. Vợ chồng Tét Oát bảo ông ta cứ ở lại, khi nào đi cũng được. Ông ta tin lời vợ chồng Tét Oát nên đã ở lại. thường ông ta ngủ ngoài vỉa hè, nhưng cũng có khi vào ngủ trong nhà vì thỉnh thoảng bà Bêxi lại dành cho ông ta ân huệ đó.
Đã ngoài tám mươi tuổi, lại lãng tai, nên ông thường quẩn quanh trong sân, trong vườn vả khi nào thích thì làm các thứ thử việc vặt vãnh trong nhà.
Hỏi mới đến đây. Ông lão thường buôn bò từ miền tây, tận vùng giáp với Quinxlen, đi lại khắp vùng tây-bắc, vừa buôn bán vừa chuyên chở thuê. Vì còn trẻ, nên ông lão đả ném sạch số tiền làm ra vào cuộc đỏ đen tại vùng đô thị ven biển, để rồi lại quay về miền quê hẻo lánh khi túi tiền đã cạn. Về sau ông lão tìm được vùng đồng cỏ Uytaliba và bắt đâu chăn nuôi gia súc, nhưng vẫn tự nhủ mình đến đây không phải để sinh cơ lập nghiệp suốt đời - Ông lão đã không bỏ sót một nơi nào không đặt chân tới, nên khó có thể an tâm định cư ở bất kỳ nơi nào để chăm chút đàn gia súc, trông mong ngày đêm cho chúng chóng lớn.
 - Lang thang nay đây mai đó chẳng ích gì, mà ngồi ì một chổ thì cùng khổ, - ông lão nói bây giờ tuổi già sức yếu, không còn đủ sức đi xa, ông lão chỉ còn ước ao được yên thân tại mảnh đất Uytaliba này, để đến khi phải từ giã cuộc đời thì cũng được nhắm mắt xuôi tay một cách thanh thản,
Với khuôn mặt rắn rỏi, tư lự, ông lão dạo quanh trang trại như thể mảnh đất này vẫn thuộc quyền sở hữu của mình, và mọi người, nhất là bà Bêxi, thường chiều ông lão, nên cái gì cũng hỏi ý kiến. sau khi chồng qua đời, bà Bêxi vẫn vui lòng để Xôlơ Hadi, vì bà muốn khai thác triệt để những hiểu biết và kinh nghiệm của ông lão về vùng đất này. Vả lại bà cũng muốn ông lão lưu lại để thỉnh thoảng để buổi tối còn có người để nói chuyện, như lâu nay vẫn thế. Khi ông ngồi dưới mái hiên miệng phì phèo thuốc lá, hai chân duỗi thẳng.
Còn Kunadu…. Từ những dòng suy nghĩ miên man. Bà Bêxi lại quay về với đứa bé đang đứng trước mặt.
Mini yêu mến Kunadu không kém gì bà Bêxi yêu quí cậu con trai của bà. Mặc cô bé chẳng phải là con chị nhưng nó là cô bé mà Oarieda, chồng chị, có ngày sẽ lấy làm vợ, cũng như anh ta đã lấy chị trước đây, Hơn nữa, Chị đã lĩnh trách nhiệm là làm mẹ của Kunadu.
Mẹ của Kunadu ư? Trong trại thổ dân không ai nhắc đến tên người đàn bà ấy nữa, chắc hẳn cô ta đã ngậm cười nơi chín suối. Ở bên kia bờ con suối cạn, có một nấm mồ, xung quanh cắm chơ chỏng những vỏ cây về cành gỗ nhỏ. Ở đấy người ta đã chôm cất Maria, mẹ Kunadu.
Này Mini, đưa con bé vào nhà và chỉ vẽ cho nó làm các việc, để sau này nó có thể giúp cô một tay, - bà Bêxi nói.
Đôi mắt đen của Mini ánh lên niềm vui sướng. Ở cái đất Uytaliba này không ai tốt bụng và chung thủy như Mini, và bà Bêxi hiểu rằng Mini sẽ coi đây là một vinh dự đối với Kunadu, khi cô bé được sớm dạy bảo các công việc dọn dẹp, lau chùi nhà cửa bà chủ giúp chị. Cả hai đều có mái tóc hung húng đỏ, mang trong mình đầy đủ huyết thống của bộ tộc Gonalo. Bà Bêxi còn có một người hầu gái tên là Bandoghera có mái tóc dầy màu nâu sẫm, trong khi mái tóc của Mini lại hoe hoe, chân tóc đen xỉn. Mái tóc Kunadu màu hung đỏ, mềm mại, và mỗi lần cô bé gội đầu xong, mái tóc lại lượn sóng mượt mà như cỏ tóc tiên trên đồng nội.
Mỗi lần gập các cô gái bản xứ và nhìn lên những mái tóc hung đỏ, hay vàng hoe của họ, bà Bêxi lại băn khoăn tự hỏi phải chăng họ là người lai và ít nhiều đều mang trong mình dòng máu của người da trắng, cũng như những người khác, bà yên trí họ là người bản xứ thuộc các bộ tộc có những người đàn bà tóc vàng hoe mặc dù không hề có quan hệ gì với người da trắng. Bà đã từng nhìn thấy những đưa trẻ da đen tóc xoăn vàng óng ; cố nhiên chúng càng lớn thì màu tóc của chúng càng xẫm lại. Mái tóc Kunadu cũng vậy. Mặc dù tất cả trẻ con bản xứ lúc mới sinh đều có nước da bánh mật, nhưng khi tiếp xúc với không khí và ánh nắng thì da chúng sẫm lại, vì vật khi chúng đến tuổi biết đi chập chững thì nước đã bắt đầu sẫm đen giống như những lớp đá ong lộ thiên, phơi mình trên nền đất đỏ. Màu tóc của chúng cũng sẫm lại nhưng chậm hơn, bà Bêxi nghĩ rằng nếu những người đàn bà bản xứ cũng gội đầu hàng ngày như những người đầy tớ gái của bà, thì tóc của họ sẽ giữ được màu sáng lâu hơn.
Từ đó, hàng ngày, vào lúc rạng đông. Kunadu thường xuyên cùng Mini và Bandoghera từ xóm thổ dân lên, gội đầu bằng thứ xà phòng thô do bà Bêxi tự làm từ mỡ bò và thau củỉ. Chúng tắm dưới vòi sen trong một buồng tắm nhỏ, cạnh chiếc giếng to bơm bằng sức gió, đoạn khoác vào một bộ áo liền mới màu xanh biển và đi vào bếp. Bà Bêxi tự mình dạy cho cô bé cách rửa bát đĩa bằng nước nóng: cho xà phòng vào, khuấy sủi bọt rồi mới nhúng bát đũa và rửa, còn dạy cho nó dùng chổi quét vỉa hè, các buồng ngủ, buồng ăn và phòng khách.Lúc đầu cô bé cứ cười khúc khích, như thể nghĩ rằng bà Bêxi đang hướng dẫn một trò chơi lý thú. Rồi cô bé cảm thấy nhớ bọn trẻ và hễ thấy chúng đến là chạy ra chơi cùng hoặc đuổi theo đàn gà mái trắng của bà chủ, đến nổi quên bẵng là chưa rửa xong bát đĩa và còn một căn phòng nữa chưa lau chùi.
Bà Bêxi cáu gắt, rồi khi Kunadu cùng Badi và Oanna chạy nhảy trong vườn, làm đất mùn tung tóe, dính cả vào quần áo của bà thì bà bực bội ra mặt. Cô bé vừa chậm, vừa lười, đó là điều hiển nhiên. nó lau bàn ghế chẳng sạch, khâu vá cũng không vừa ý bà.
Mày hư lắm, Kunadu ạ, - bà mắng nó.- Đã không làm thì thôi, chứ làm thì làm cho đến nơi đến chốn.
Kunadu cúi đầu, mặt buồn rầu, hai mắt nhìn đi chỗ khác.
 - Mày mà không muốn học thì tao cố dạy cũng vô ích! – Bà Bêxi nói, giọng bực bội.
Tao mà chết đi thì không biết lấy ai chăm nom, đỡ đần cho thằng Iuni, rồi mà xem.
Cô bé đưa mắt lấm lét nhìn bà Bêxi rồi lại nhìn di chỗ khác.
 - Lẽ dĩ nhiên, - bà nói tiếp, - Vì thế tao đâu có tiếc sức chỉ bảo cho mày. Mini và tao không thể sống đời ở kiếp ở đây được. Vậy thì ai sẽ là người chăm sóc thằng Hiu sau này? thế nào rồi cũng có ngày nó sẽ lấy vợ, nhưng dù là thế đi nữa, tao vẫn nghĩ nó phải có một người hầu thật trung thành. Đối với tao, Mini đã xứng đáng là đày tớ tận tụy, nhưng còn mày, tao chỉ mong sao mày trông nom thằng Hiu bằng một nữa chừng ấy thôi, thế là tao mãn nguyện.
Hình như Kunadu đã chịu nghe lời. Từ đó cô bé làm các việc chu đáo hơn, không còn đuổi gà hay ngồi ngâm nga dưới rặng cây bạch đàn đang nở hoa nữa.
Sáng sớm cô bé lại còn biết quét dọn cả nhà mình, thậm chí không còn chạy rong chơi cùng Badi và Oanna.
Suốt ngày Kunadu xuống nhà kho hay ra vưòn làm việc cùng bà Bêxi, nếu không thì lại lên khu chuồng trại sửa chữa yên cương, hoặc thuộc da, làm xà phòng, mãi đến chiều tối mới cùng Mini và Bandoghera trở về xóm thổ dân. Tối đến, trong ngôi nhà lớn, trống trải, bà Bêxi ngồi tính các khoản chi tiêu hoặc viết thư, đọc sách một lúc rồi chuyện trò cùng ông già Xôlơ Hadi, hoặc ngả lưng nằm, định liệu kế hoạch cho trang trại trong năm hoặc trong những năm tới. Trong khi đó, ở xóm thổ dân, Kunadu ngồi hát cùng những người trông bộ tộc đang quây quần xung quanh bếp lửa. Cô bé nhìn thấy chiếc đèn trong phòng bà Bêxi hắt ánh sống màu vàng qua cửa sổ, rọi vào đêm tối những vệt sáng dài.
Đối với Kunacu, dù phải ngủ một mình g chẳng sao, nhưng đằng này lại là Mămi ; nghĩ vậy, nó cảm thấy lo sợ, biết đâu quỷ Nalu hay bất kỳ con quỷ nào cũng có thể vồ bắt Mămi trong khi không có ai ở gần ; bởi thế đêm đêm Kunadu cứ nhìn về phía ngôi nhà quét vôi trắng dưới bầu trời đầy sao và sáng sớm bao giờ cũng vui mừng khi thấy bà Bêxi vẫn nằm an toàn trên giường. thế rồi nó lại gần, đứng bên cạnh với chén nước chè chờ bà chủ, mặc dù bà vẫn còn ngủ.
Từ đó bà Bêxi thực sự cảm thấy yêu quí Kunadu. Chính bà cũng nhận thấy như vậy. Dần dần, với đôi chân không giầy, đôi mắt tư lự và kiên định, cô bé thổ dân đã lặng lẽ đi vào cõi trống trải trong cuộc đời của bà. Bà nghiến chặt hai hàm răng, quyết tâm đeo đuổi những kế hoạch mà mình đã vạch ra, Nhưng lần đầu tiên trong đời bà Bêxi, niêm thương xót và nỗi đau quạnh đã xâm chiếm lòng bà. Bà lấy làm vui sướng khi tìm thấy nguồn vui với đứa trẻ, hàm ơn nó đã chịu nghe lời, và hiểu được những ước muốn của bà.
Sau một thửi gian, mọi người đều nhận thấy đi đâu bà Bêxi cũng đưa Kunadu đi cùng, Lần đầu tiên sau khi Hiu đi học xa, Kunadu được đi dự hội. Bà Bêxi bão Chitali dắt con ngựa Hera vào cho nó đánh xe đưa bà đi.
Thỉnh thoảng bà Bêxi lại đọc cho Kunadu nghe một vài đoạn trong thư thầy hiệu trưởng ở Stratphớt nhận xét về Hiu. Cậu bé học rất thôngminh, nhưng có vẻ nhớ nhà. Khoảng một năm sau, khi nhận được tin của Hiu, bà cũng đọc cho Kunadu nghe nhiều đoạn trong bức thư vô giá đó. Cứ ba tháng một kỳ, bà Bêxi lại cho Chitali hoặc Oarieda đi Karara gửi thư hoặc nếu có thư gửi tới Uytaliba thì mang về luôn.
Hễ nghe tin có người ở tỉnh sắp về là Kunadu suốt ngày ngó nhìn về phía cánh đồng, vẻ chờ đợi, đôi mắt hau háu như mắt bồ câu.
 - A ha, họ về đây rồi, -cô bé reo lên rồi lập tức chạy ra mang tái thư vào nhà Bưu điện Karara thường gắn xì đỏ các túi thư. Kunadu cho rằng họ làm như vậy để giữ cho thư của Hiu khỏi bị ướt khi có mưa lũ, gió bão hay khi quỷ thần xuất hiện trên con đường dài qua các vùng đồi núi hoặc thảo nguyên.
Trong khi bà Bêxi đọc thư Hiu, Kunadu thường ngồi trên sân nhà cách đó một quãng ngắn, chăm chú nhìn lên khuôn mặt bà. Cô bé đã đọc được những biểu hiện tình cảm trên đó và nhờ thế đoán biết được tình trạng sức khỏe và những việc làm của Hiu.
Bà Bêxi thường cười một mình rồi nói: “Hiu ghi được hai bàn thắng trong một trận bóng đá của trường trung học; và bây giờ nó đang luyện tập để giành giải vô địch với các đấu thủ dưới mười bốn tuổi - nhưng bà chẳng hiểu bà đang nói gì! Bà nghĩ có lẽ là thi điền kinh.
Kunadu gật gật đầu nói: “Hiu chạy nhanh lắm, mà lại dai sức, chạy được rất xa”. Ấy thế nhưng về sau, khi nhận được giấy báo của thầy hiệu trưởng ở Straphớt thì bà lại có vẻ lo lắng. Hiu học hành không tốt lắm, nhẽ ra cậu ta có thể học tốt hơn. Cậu ta học thiếu chăm chỉ. – ông Potlờ giải thích, - nhưng không hiểu tại sao cậu ta lại rất thích hai môn lịch sử Hy Lạp và tiếng Latinh..
Bà Bêxi bật cười khi đọc thư của ông Pottơ báo tin ông ta đã hỏi Hiu vì sao và cậu bé đã giải thích: vì trên đó con ngựa nào cũng có tên, con thì mang tên Hectơ, con thì Hera hay Phitô ; có con ngựa già lại mang tên Đyanas.
Kunadu cười theo, mặc dù cô bé chẳng hiểu vì sao, việc Hiu thích gọi tên những con ngựa ở Uytaliba thì có gì đâu mà buồn cười! Bà Bêxi cố giải thích rằng bà đã lấy tên các thần cả nam lẫn nữ - và tên các nhân vật lịch sử, thần thoại Hy Lạp để đặt tên cho từng con ngựa ở trại Uytaliba. Kunadu vẫn không hiểu. Có rát nhiều thứ bà Bêxi bàn đến mà Kunadu không hiểu nhưng cô bé vẫn làm ra vẻ hiểu hết.
Tuy bà Bêxi vui sướng khi có Kunadu bên cạnh để làm bạn, nhưng bà không bao giờ và không mảy may có ý định ngăn cản hay làm thay đổi những tín ngưỡng của người bản xứ đã thâm nhập ăn sâu vào ý nghĩ và tình cảm cô bé, hoặc buộc nó từ bỏ các tục lệ của thổ dân.
Bà Bêxi không cho phép biến những người thổ dân ở Uytaliba thành tín đồ cơ đốc giáo. Bà nói chưa hề thấy người bản xứ trở nên tốt hơn sau khi họ thoát khỏi sự ràng buộc của các luật lệ và tín ngưỡng bộ tộc. Và chừng nào bà còn sống thì thổ dân ở Uytaliba vẫn chỉ nên là thổ dân. Vì vậy, dù Kunadu luôn suốt ngày bên bà như bóng với hình, biết chờ đợi, biết làm mọi thứ cho bà, như mang xách các thứ đồ đạc, soạn sữa cho bà tắm hay nhóm lửa cho bà sưởi nhưng cứ đến chiều tối là cô bé phải về dưới xóm thổ dân sống với những người đồng chúng của minh, ngủ cùng đàn chó bên cạnh bếp lữa ngoài trại.
Thời tiết thuận lợi ở trong những năm Hiu đi học xa, bà Bêxi lúc nào cũng bận rộn. Bà cùng Chalita lập bản kế hoạch đào giếng, xây dựng chuồng trại. Đối với gia đình Lây, bà Bêxi đã dựng cho một túp lều, lợp tôn cuốn, cách trại một quảng ngắn nhưng hầu như lúc nào anh chàng cũng đi đào giếng, và đi đến đâu mang vợ đến đấy, dựng lán trại, vợ chồng cùng ở.
Mỗi tháng vợ chồng Lây đánh ve về trại một lần đề lấy thức ăn, đồ dùng. Bà Bêxi thưởng giữ họ lại một hai ngày lấy áo choàng trắng tinh khoác vào rồi làm bánh thết đãi vợ chồng Lây. Bà bày biện đủ các thứ cốc, chén; tất cả bát đĩa đều bằng sứ. Bàn phủ khăn trắng tinh. Bà chuyện trò rất vui vẻ, rồi tiễn vợ chồng Lây ra đi, bắt mang theo đủ thứ, như báo, tạp chí, mứt đặc, quả khô, v.v...
Khi Pheni Lây sắp sính con đầu lòng, bà Bêxi đón chị về trại và chăm sóc chị cho đến khi đứa bé - một cậu con trai xinh xắn, bụ bẫm - chẵn tháng, Bà kể chuyện giếng và công việc đào giếng với Chalita đến nữa đêm, nào là tốn kém bao nhiêu, đào sâu bao nhiêu! Bà trải ra trước mặt tấm bản đồ trại Uytaliba do bà tự tay vẽ lấy, rồi thảo luận với Chali những nơi nào cần đào giếng, nơi nào không, nơi nào có thể đào dễ nhất. Bà Bêxi dường như lúc nào cùng nung nấu trong đầu những ý nghĩ về đào giếng chali nói-Suốt đời bà chỉ ước mơ sao cho Uytaliba có được một hệ thống giếng nước.
Khốn nỗi ước mơ là thế, nhưng túi tiền lại có hạn. Gay go nhất là ở chỗ đó, vả lại, bà chẳng bao giờ chịu vay tiền, dù nhằm mục đích mở mang. Bà quyết thanh toán xong khoản tiền mua trại để khi trao quyên thừa kế cho con trai, con bà không phải mang nợ. Bà làm việc cặm cụi, với đầy đủ nghị lực và quyết tâm, không phút giây nao núng.
Với hính dáng dẻo dai, năng động, trong bộ áo vảy trắng và chiếc mù cũ kỹ của chồng để lại, bà cưỡi ngựa đi khắp vùng, kiểm tra hết các giếng nước, các hệ thống quạt gió mà Chali vừa xây đi nhóm gia súc, chở hàng và đốc thúc nrrột cách khôn khéo những người da đen làm việc khẩn trương. Bà không dùng người da trắng chăn gia súc, vì theo lời bà, thuê mấy anh da trắng chỉ gây rắc rối với Oarieda và Chitali, là những tay chăn bò cự phách trong vùng.Chính cái nghị lực và tính năng động không mệt mỏi đó đã giúp bà thành công trong mọi việc và với mọi người.
Kunadu đánh ngựa đi làm với bà Bêxi. Bà đi đâu, Kunadu đi đấy. Chẳng mấy chốc cô bé đã trở thành một kỵ sĩ cừ khôi. Nó say sưa với các trại gia súc. Được cưỡi ngựa rong ruỗi trên thảo nguyên như những người đàn ông là niềm vui và hạnh phúc của nó.
Mỗi lần đi nhóm gia súc, bà Bêxi bao giờ cũng mang theo hai, ba chiếc bẫy. Trong khi Mini trông nom các túi hàng, nấu ăn trong lều trại, thì Oanna hoặc một cậu con trai nào đó đi nhóm những chú ngựa thích ăn mảnh ban đêm. Nhưng Kanadu chẳng bao giờ chịu ở lại lều trại.
Nó thích phóng ngựa trên những khu đồi hoang, trên những con đường gập ghềnh, đề nhóm những chú ngụa ăn mảnh về chuồng.
Oarieda đã sắm cho Kunadu một cái roi, vì nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa cô sẽ là vợ của mình, chừng nào đến tuổi lấy chồng. Người ta đã ước hẹn Kunadu cho Oarieda từ hồi cô bé còn nhỏ, và người ta đã từng đưa nó đến ngủ với anh ta bên cạnh bếp lửa rừng. Khoảng một năm nửa thì Kunadu sẽ mãi mãi sống cùng Oarieda và Mini.
Mini cũng đã trao đổi với Kunadu về chuyện đó Kunadu lấy làm kiêu hãnh và vui sướng ấp ủ trong lòng ý nghĩ mình sẽ là vợ của Oarieda. Mọi người trầm trồ khen ngợi Oarieda là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, dũng cảm, và là một tay thuần ngựa giỏi nhất vùng Tây Bắc. Chỉ bà Bêxi là không thích nghĩ như vậy.
Có lần Kunadu đã nghe bà nói chuyện với Mini về điều đó.
Cô định nói với tôi là Kunadu sắp làm vợ Oarieda, đúng thế không? - bà hỏi Mini.
Vâng ạ, Mini trả lời nhẹ nhàng, giọng trầm trầm, gương mặt bình thản.
Thế mà cô cũng đồng ý hay sao?
Mini không hiểu ý Mămi định nói gì.
 - Cô không ghen với nó à? -bà Bêxi hỏi tiếp.
 - Không, - Mini mĩm cười và nói lảng đi bằng tiếng thổ dân.
 - Nó vừa trẻ, vừa xinh gái, mà lại được cô dạy bảo để làm vợ của Oarieda hay sao?
Mini gật đầu.
 - Phải rồi, đấy là ý kiến mới mẻ, mà có lẽ không phải là xấu, đúng không Mini? - bà Bêxi nói giọng quả quyết. - Bởi thế, thà cô biết còn hơn không, vả lại, cô bao giờ chả là bề trên của nó, đúng không?
Mini mỉm cười vui sướng, sau khi đã bộc bạch cho Mămi hiểu được lòng mình.
Dạ vâng! - chị đồng ý một cách nhẹ nhàng.
Nhưng bà Bêxi thì không vui. Bà không muốn chấp nhận ý kiến của Mini. đã vốn thận trọng, không muốn đụng vào phong tục, tập quản của người bản xứ. Trong tất cả mọi việc bà thường để mặc họ muốn làm gì thì làm, miễn là những việc đó không liên quan đến bà.
Nhưng còn Kunadu bà không thể nào chấp nhận được ý kiến cho Kunadu lấy “một thằng cực kỳ thô lỗ” như Oarieda, - bà tự nhủ.
 - Này! bà hỏi. - Tao không đồng ý đâu, mày cứ bảo với Oarieda như thế. Ít ra là để đến khi con bé mười sáu tuổi đã.
Mini thở dài. Hai mắt chị mở to, đượm vẻ lo lắng. Có lẽ chị đã nhìn thấy trước mọi sự phiền toái sắp xảy ra.
Thôi được! - bà Bêxi nói tiếp.-Tao sẽ nói với nó sau.
Bà Bêxi. đang đứng trên sân, với tư thế rắn rỏi của một người đàn bà nhỏ nhắn, khoác bộ y phục màu trắng, miệng lầm bầm gì đó, thì bỗng nhiên thấy thấy Chitali, Oarieda và mấy đứa con trai khác đã lùa đàn ngựa về tới trại.
 - Này, Oorieda – bà gọi. Chàng trai da đen cao lớn, xinh đẹp, có bộ lông mèy đen, quay lại, rồi ngồi trên mình ngựa nhìn bà vẻ ngượng ngùng. Người ta bảo mày muốn lấy con Kunadu? Và thế là nghiễm nhiên nó trở thành vợ mày đúng thế không?
Dạ, vâng a, - đôi mắt nâu của chàng trai đa đen chằm chằm nhìn bà Bêxi. Bà nhận thấy anh chàng này thực sự muốn lấy Kunadu. Bà cũng nhận thấy với Oarieda thì Kunadu vừa đôi hơn. Mini đã quá già, có thể bằng tuổi mẹ.
Này Oarieda, mày biết không? - bà Bêxi cảm thấy khó bộc bạch hết những gì bà định nói. - Tao rất quý Kunadu. Tao muốn nó trở thành người hâu. Nhưng mày lại yêu nó. Tao có thể xem, và có thể sẽ cho nó lấy mày. Nhưng theo người da trắng thì cho con gái chứa đến tuổi trưởng thành lấy chồng là không tốt.
Khuôn mặt ngăm đen của chàng trai ĩu xìu buồn bã.
Oarieda, mày là người tốt khỏe mạnh, đẹp trai, bà Bêxi nói.- Tao sẽ biếu mày một con ngựa và một đôi chăn mới, nếu mày chờ đến khi Kunadu mười sáu tuổi.
Đôi mắt Oarieda sáng lên, miệng cười hóm hĩnh, anh ta vui sướng đến ngạc nhiên khi thấy bà Bêxi, người đàn bà mà anh ta vẫn nghĩ không khác gì đàn ông, lại quan tâm và đối với anh ta tốt đến thế.
Và tao sẽ cho Kunadu một con ngựa, bà Bêxi nói tiếp - Ba mùa nữa, - bà giơ ba ngón tay..
Oarieda hiểu là mình còn phải chờ đợi mùa nhóm bò nữa - nghĩa là ba năm mới được lấy Kunadu. lúc đó bà chủ sẽ cho anh ta một con ngựa, hai chiếc chăn cả Kunadu nữa. anh ta nhe răng cười, hàm ơn bà chủ.
Bà Bêxi thấy vui vì đã thực hiện được ý đồ của mình. Bà bước nhẹ nhàng vào nhà. Trong nhà, những người đầy tớ đang chờ và nhìn theo bà, sau khi thấy bà nói chuyện với Oarieda ở ngoài sân trại. Chính bà cũng chẳng hiểu vì sao bà không muốn Oarieda lấy Kunadu.
Bà không phản đối Oarieda lấy con bé, nhưng bà không muốn việc đó cản trở kế hoạch bà đã định liệu - kế hoạch gắn bó Kunadu với bà, với Uytaliba. Bắt cô bé làm vợ, sinh con đẻ cái, sẽ làm hỏng kế hoạch của bà. Nhưng bà đã thắng, và trước mắt bà cảm thấy toại nguyện. Đầu óc làm ăn khôn ngoan của bà đang tiếp tục suy tính những mưu kế của riêng mình.