Dịch giả: NGUYỄN CẢNH LÂM
CHƯƠNG 3

    
unadu nhớ rất rõ, là hằng năm cứ đến giữa mùa hè, các bộ tộc dù ở cách Uytaliba hàng trăm dặm cũng tụ tập về đây để dự lễ Pingcơ Ai[a1] .
Tin truyền từ Uytaliba đến Nunieoara, Ilygugi, phaiy Rivơ, xuống tận vùng Britê Britê, Cap và truyền tiếp dọc theo dãy Tơ Mơrơ. Thông thường, các chàng trai không phải mang thư của gia đình Rilen từ trại Ilygugi đến Britê Britê mời ông quản trị lên Ilygugi dự lễ Nôen, hay từ Britê-Britê đi Phaiy Rivơ, mà là mang những tấm bảng cắm vào đầu những chiếc gậy khắc hoa văn lượn sống uyển chuyển.
Nhân lễ Phục sinh ở Ilygugi, Britê Britê,Nunieoara và Phaiy Rivơ, những người da trắng cũng mở hội. Họ uống rượu, hát hò như điên loạn, và họ cùng gọi đó là hội Pingcơ Ai Kunadu nghĩ như vậy. Nhưng từ sau ngày Tét Oát, chồng bà Bêxi, qua đời, ở Uytaliba chưa hề có một buổi lễ nào như vậy. Đúng là Mămi chỉ dựng những cành cây xanh và thắp những ngọn đèn treo dọc hàng hiên, trong khi vợ chồng Chali Lây vẫn đào giếng ở vùng lòng chảo đất sét Yalerang. Họ có về một hai lần, ở lại cùng Mămi mấy ngày rồi lại ra đi.
Thế nhưng trong suốt thời gian Hiu đi học xa, vợ chồng Chali Lây bao giờ cũng về vùng duyên hải dự lễ Phục sinh, và khi những người da đen kéo về đây dự lễ Côrôbôri thì chỉ có Xôlơ Hadi ở lại cùng Mămi.
Tại xóm thổ dân, những người da đen cũng tổ chức ăn uống, hát hò và múa Côrôbôri suốt ngày. Bà Bêxi bao giờ cũng cho họ một con bò và các thứ khác để họ thết đãi nhau. Bà còn dạy những người đàn bà da đen nướng thịt bằng than cháy để trong chiếc lò đá đồ sộ.
Trước khi đi đự lễ Côrôbôri, đám đàn ông bao giờ cũng lấy đất sét trắng và đất mỡ gà trộn với dầu mỡ, vẽ lên toàn thân những hình trang điểm. Họ vẽ những vạch, vòng và đốm trắng lên đùi, ngực. Mỗi người vẽ một kiểu hoa văn gồm những chấm phá và đường nét xoắn vào nhau, đan hình mắt cáo. Một ngày sau, những người đàn ông đứng tuổi đeo mặt nạ vào và dẫn các cậu con trai vào sâu trong rừng Munga, dưới chân núi, để làm lễ trưởng thành. Đàn bà không được phép dự lễ.
Những người đàn bà vừa hát vừa kiếm củi hoặc đào bới khoai lang dại dọc hai bờ con suối cạn. Tiếng hát vang lên lanh lảnh, du dương, khiến cả không gian xao xuyến.
 - Niru ran niru, - họ hát đáp lại những người đàn ông. Nhưng khi tiếng hát của họ lắng xuống thì không một ai hát tiếp đoạn điệp khúc ấy với cung bậc cao hơn. Tiếng hát trở nên trầm mặc ai oán, tan biến vào cõi hư vô, để rồi lại vang lên, sống động qua những giọng hát giản đơn mà tha thiết. Và cứ thế, họ hát suốt ngày.
Vào ngày lễ Pingcơ Ai, ở xóm thổ dân không ai mặc áo quần khi họ dạo lang thang dọc con suối cạn hay đi săn trên những cánh đồng hoang, len lỏi qua giữa những lùm cây gai. Trước khi người da trắng mang về đây giống vật to lớn có sừng, từ bên kia trái đất, nơi mặt trời mọc, Kunadu vẫn sống như những người đồng chủng của mình. Vì vậy bây giờ trước khi ra về, cô vẫn giữ thói quen mắc quần áo lên cây -sào trong túp lều cạnh đống củi của Mămi để sáng sớm lại khoác vào và chạy lên nhà pha trà cho bà chủ dùng bữa sáng.
Dù có hội hè hay không, bao giờ Mini cũng dành một giờ làm các việc vặt vãnh, chị cùng Kunadu tắm rữa xong, mặc quần áo rồi đi vào nhà bà chủ quét dọn, lau chùi và sắp đặt các thứ trong bếp rồi lại trở về xóm thổ dân.
Tối đến Kunadu thích ngồi hát cùng đám đàn bà, vừa hát vừa cầm hai que gỗ nhỏ gõ nhịp, và ngắm nhìn những người đàn ông nhảy múa xung quanh lửa trại, với những bước nhảy đều đặn, nhịp nhàng.
Thật là khủng khiếp khi cô gái bé bỏng, với đôi mắt tròn trĩnh, thiu thiu ngủ và lần đầu tiên trong đời mơ thấy con ma Côrôbôri. Từ trong bóng tối tận phía bên kia cánh đồng, xuất hiện hình bóng một tên ngụ cư, đang rón rén thu mình bước tới, một bóng người trắng bệch, đeo mặt nạ bằng vỏ cây Munga. Hắn lò dò bướt tới chỗ lữa trại, đưa mắt liếc nhìn đám đầu bò và trẻ con đang xúm xít hát bên kia bếp lửa - Họ ngồi thành hai dẫy. Hắn nhảy cẫng lên, hai bắp đùi xoắn xuýt; rồi lượn vòng như muốn thình lình vồ lấy một cô gái kéo vào trong bóng tối.
Bà cụ Gơnađađu ngồi cuối nhóm đàn bà, liền đứng phắt dậy, vung gậy xua tên ngụ cư và thét lên những tiếng đầy thách thức, căm giận. Tiếng hát của những người đàn bà da đen vang lên lanh lảnh, khiến ta nghe và cảm thấy rùng rợn, mặc dù họ hát những lời ca ngợi lòng dũng cảm, bất khuất, cho đến khi con ma nao núng lùi bước và biến mất vào bóng tối tận phía bên kia chân trời, nơi những ngôi sao sà xuống tận mặt đất.
Tiếng hát thiết tha của những người đàn bà da đen yếu đàn rồi tắt, để lạl một không khí im ắng,
Kunadu cất tiếng nói líu lo, rồi cười thầm khi nghĩ về điều đó, nhưng cô lấy làm hãnh diện đã được phép hát trong ngày hội Côrôbôri.
Tiếng hát ngây ngô của cô vang lên lanh lảnh, át cả tiếng hát của những người khác. Kunadu thích nhất điệu múa vẹt trắng và đã tâm sự cùng Mămi về điều đó.
Vẹt trắng vốn là một chàng trai đa đen. lúc nào cùng hát và múa Côrôbôri, - Kunadu giải thích. Một người đàn ông da đen khác đã lấy cắp tiếng hát đó và biến chàng trai hát cốrôbôri thành vẹt trắng. Vậy nên tất cả con trai đa đen bây giờ đều biết hát và múa Côrôbôri.
Bà Bêxi đã dược xem Côrôbôri. Bà ngắm nhìn Chitali. Anh chàng lúc nào cũng là người chủ trò. Anh ta từ lùm cây bước ra, vừa đi vừa múa trong ánh lửa trại bập bùng mình vẽ đầy những hoa văn bằng đất sét. Với điệu bộ nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, Chitali nhún nhảy một lúc rồi dạng hai chân, khuỳnh rộng hai đầu gối, làm bộ Chàng trai luôn ca hát và múa côrồbồri, vẻ hùng dũng, hân hoan, ông già Giô Kunara thì buộc vào lưng một nắm lông Êmu giả làm đuôi rồi vừa bước khệnh khạng thỉnh thoảng chạy lon ton theo sau Chitali vừa vẫy vẫy hai tay, rung rung người, giơ cao chân bước từng bước ngắn nhẹ nhàng, cho đến khi Chitali quay trở vào lùm cây mới thôi.
Mấy phút sau Chitali lại dẫn đầu những người đàn ông còn lại lừ trong túp lều bước ra, người dính đầy bụi trên đầu chơ chõng vài chiếc lông vẹt. Họ nối tiếp nhau nhẹ nhàng bước tới bên bếp lửa, tựa hồ một đàn vẹt trắng sà xuống tìm hơi ấm, những đôi cánh vỗ vào không khí kêu phành phạch, trong khi đám đàn bà vẫn tiếp tục hát điệp khúc dai dẳng: Pitaeđa! Pitaeđa! Những người đàn ông thu mình, vừa vỗ hai cánh tay, vừa liệng vòng bên kia bếp lửa rồi nhẹ nhàng bỏ đi chỗ khác, hai tay vẫy vẫy, tạo nên những tiếng kêu như tiếng chim vỗ cánh. Đám đàn bà lại lên cao giọng ; Pitaeđa! Pitaeđa!
Tiếng hát của Kunadu êm ái biết bao trong đêm múa Côrôbôri bên bếp lửa rừng! Oarieda cất giọng trầm trầm hài hước, vừa hát vừa gõ hai chiếc bumêreng[a2]  kêu lách cách. Đám đàn bà hát theo. Tiếng hát của Kunadu càng trở nên xao xuyến, não nùng, vút lên cao, rồi lại lặng xuống như những tiếng thì thầm khi Chitali xuất hiện từ trong lùm cây, nơi đám đàn ông đang ẫn nấp. anh ta nhảy ra, đeo mặt nạ đỏ ngang tầm lông mày, để lộ hai con mắt, trên mặt nạ vạch những đường song song màu trắng, ở khoảng giữa hai đường song song là những chấm trắng ; trên mình và trên hai bắp đùi đầy những hình xăm màu đỏ, hai chân giơ cao bước từng bước ngắn, tiến gần bên bếp lửa. Anh ta đứng lom, khom, hai đầu gối nhô về phía trước, rồi rút từ trong bếp ra một thanh củi đang cháy dở, hoa hoa vòng quanh trên đầu. Một lát sau, anh tạ lại rút ra một thanh khác và ném tung lên trời. Rồi anh ta lại rút thêm hai thanh nữa, hoa hoa cho than hòng bay tung tóe như những tia lửa điện. Anh ta múa may, quay cuồng, rồi dùng chân đá tung bếp than đang rực đỏ.
Những người đàn ông khác cũng làm theo, xăm minh màu đỏ; từ trong bụi rậm lao ra, nhún nhảy, đưa chéo cẳng chân từ bên này qua bên nọ. Họ kéo lê chân nhịp nhàng, chốc chốc lại đồng loạt dẫm chân rầm rập lên mặt đất. Rồi mỗi người rút từ trong bếp lửa ra một thanh củi đang cháy dở, hoa hoa vòng quanh trên đầu, đồng thời đưa chân đá mạnh vào những cục than hồng cho lửa bắn tung khắp mọi phía. Những người đàn bà càng cất cao giọng hát bày tỏ lòng mến phục và.nỗi vui mừng hân hoan trước những hành động táo bạo, nhanh nhẹn và uyển chuyển đó của đám đàn ông.
Đã một vài năm trôi qua, kể từ khi Hiu đi học xa. Kunadu bắt đầu cảm nhận được vai trò ngày càng quan trọng của mình ở trại Uytaliba.
Cô bé lúc này đã lên mười. Mini nói cho Kunadu biết chẳng bao lâu nữa sẽ trưởng thành, và chính Kunadu cũng đã từng nghe thấy ngửời đàn bà này thốt lên những lời vui sướng khi chị ta thấy bộ ngực Kunadu căng phồng lén phía trên đôi chân cân đối mảnh dẻ.
Rồi vào một buổi sáng, trong buổi lễ Pingcơ Ai, Oarieda bảo với Kunađa rằng cậu nhìn thấy một tổ chim trên một cây to cách bờ con suối cạn một quãng ngắn. Kunadu liền cùng Oarieda đi tìm. Mấy cậu con trai trong trại cũng đi theo, nhưng họ đi xa hơn, qua bên kia cánh đồng một quãng.
Kunadu cảm thấy xấu hổ và ái ngại khi thấy mình đã đi quá xa. Cách biệt với đàn gia súc. Nó ngoái cổ nhìn về phía sau, định quay trở lại. Nhưng Oarieda đã ra lệnh ngồi xuống đất. Anh ta ngồi xuống trước mặt Kunadu. Tất cả bọn con trai cũng ngồi xuống, xếp hình vòng cung bao quanh hai người.
Oarieda đặt bàn tay của anh ta lên ngực Kunadu và bắt đầu mân mê vòng quanh hai bầu vú căng phong dưới lớp áo mỏng. Đoạn anh ta bắt đầu hát, giọng trầm trầm như tiếng hát từ xa vang vọng lại. Anh ta tán tỉnh, ca ngợi bộ ngực xinh đẹp của cô bé. Kunadu hiểu như vậy. nó ngồi xuống, người run run ; một cảm giác râm ran huyền diện đang xâm chiếm lòng nó. Nó cúi đầu, mái tóc hung đỏ xõa xuống, để lộ một chỏm tròn như đầu con trai, và những lọn tóc ở gáy xoăn tít che gần kín cổ. Nó biết Oarieda hát để ve vãn mình. Hai bàn tay anh ta xoa xoa quanh ngực nó. hết nắn bóp lại mân mê. Rồi anh ta lấy đất sét đỏ trộn với mớ Êmu xoa xung quanh hai núm vú của nó, vừa xoa vừa hát, mong chúng chóng lớn và căng đầy sữa để nuôi con.
Đám đàn ông khác - những người cùng yêu Kunadu và có thể đã được bố cô bé hứa hẹn -cũng nhắc lại những lời anh ta nói, hát những lời anh ta hát, tay cầm những chiếc bumêreng nhỏ gõ nhịp, toàn thân nhún nhảy, đung đưa, Kunadu ngây ngất trong cảm giác khóai lạc và hoang mang lẫn lộn, vẫn cúi đầu không hề ngước mắt nhìn, nhưng qua vẻ mặt hân hoan đắm đuối và đáng kính của họ, Kunadu vẫn nhận ra được những nét hung dữ trên từng khuôn mặt của những người đàn ông cùng bộ tộc với nó. Khi Oarieda ghé miệng lên hai bầu vú mà anh ta đã xoa đỏ mọng thi một cảm giác đê mê xâm chiếm Kunadu, như thu hút mọi linh cảm tinh tế sâu kín nhất trong người nó.
°
° °
 - Chao ơi, váy vung gì mà như vậy? Ngày hôm sau bà Bêxi hỏi Kunadu khi nhìn thấy những vết bùn đỏ trên chiếc váy của cô bé.
Kunadu cúi đầu, không trả lời.
Bà Bêxi nhìn Mini. Chị ta vừa gật gật đầu vừa mỉm cười, đưa mắt nhìn Kunadu, vẻ âu yếm.
Bà Bêxi biết cái kiểu hát để biến đàn bà thành thú vui này rồi, - bà tự nhủ, - và chính vì vậy mà bà lại càng không thích.
Có lần đang dạo dọc bờ bên kia con suối cạn, bà bất chợt nhìn thấy một đám đàn ông ngồ chồm hỗm theo hình vòng cung vây quanh Kunadu cùng hát vang ca ngợi bộ ngực của cô bé. Tất cả bọn họ đều quỳ xuống trên cánh đồng bao la dưới bầu trời xanh cao, như để tỏ lòng ái mộ đối với Kunadu. Và theo chỗ Kunadu hình dung, tuy mỗi người một cách, nhưng tất cả đều tồn thờ cái nguyên lý của tạo hóa vốn có trong người nó là sản sinh và phát triển,
Bà Bêxi thỉnh thoảng vẫn cảm thấy ghê rợn khi nghĩ về những người da đen, mặc dù bà đã sống và làm việc như một người đàn ông, trong một thời gian dài ở vùng Tây Bắc, và không mảy may quý trọng những tư tưởng cổ hủ đã từng ngăn cản bà trong bất cứ điều gì bà muốn làm, ấy thế nhưng trong người bà những định kiến của người da trắng vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Mãi đến khi hiểu được sự khác nhau trong ý thức về giới tính của thổ dân và của người da trắng, bà mới hết những cảm giác ghê rợn trước những việc làm mà bà cho là đồi bại. Bà ngạc nhiên khi tìm thấy trong đó một cái gì hồn nhiên, trong trắng, thuộc tính của muôn loài, và mang màu sắc bí ẩn của tôn giáo, tín ngưỡng.
Mỗỉ người con gái, ngay từ khi ra đời, đều đã được định mệnh là phải lấy chồng theo khuôn phép của vật tổ, nghĩa là phải lấy người cùng bộ tộc, - bà Bêxi hiểu ra điều đó. Các bộ tộc sống trên bờ suối trong vùng gồm có Baniga, Burong, Bonggieny và Curimura. Có thể gả bán một người con gái thuộc bộ tộc Baniga cho một người đàn ông thuộc bộ tộc Curimura. Con cái họ sẽ mang lên Burong, và không thể kết hôn với người Baniga và người Curimura. Trừ những người thuộc hai bộ tộc nói trên, thì người Burong tha hồ lựa chọn. Những người yêu cô hay được cô yêu có thể chẳng bao giờ được phép đụng tới cô, nhưng lại có thể trở thành chồng của cô khi người đàn ông do cha cô ước hẹn đã qua đời hoặc mất tích. Do hảo tâm, chồng cồ có thể hiến dâng vợ cho một người khách quí đến thăm trại, nhưng nếu sinh con thì đứa con đó vẫn là con của chồng cô. Người đa đen, dù là chưa được người da trắng khai hóa, không gắn việc sinh con đẻ cái với quan hệ tình dục.
Bà Bêxi ghét cay ghét đắng cái lối ve vãn như thế trong ngày hội Pingcơ Ai, khi người ta đụng đến những người đầy tớ gái của bà như Mini, Bandoghera. nhưng một thời gian sau, bà bắt đầu hiểu được quan niệm của thổ dân và ít nhiều đã bắt đầu kính nể những người đàn ông không coi việc hiến dâng thân thể vợ mình cho người khác là điều hệ trọng, thế nhưng bà vẫn dè dặt trong việc biểu lộ ý nghĩ của mình. Mặc dù bà không tự lừa dối mình khi bà nghĩ rằng động cơ của những người thổ dân hẳn là hoàn toàn thực tế. Đứa trẻ là một thứ tài sản, dù là trai hay gái. Nó làm tăng thêm ý thức quyền lực và vai trò quan trọng của người đàn ông.
Bà cũng căm ghét cái thứ lễ trưởng thành mà người ta tiến hành trong ngày lễ Pingcơ Ai vừa qua, vì bà nghĩ rằng như vậy chỉ tố khơi dậy dục cảm của đám con trai, con gái.
Vào những ngày nóng bức nhất giữa mùa hè dưới bầu trời âm u trần trụi, bà vẫn nghe vang vọng từ trong đám sương mờ dày đặc, lơ lửng quanh những ngọn đồi đất đỏ trơ trụi, tiếng hát của đám đàn ông
Niro ran niro
Ora calle catgl.
Bà hiểu đây là một trong những câu ca dùng cho lễ trưởng thành, lại còn có một bài hát nữa
Chungu Chungu Cheriegu
Oaneeli nadegu
Yevanghe măndant.
Hễ nghe bài hát đó, kèm theo tiếng khèn culađi là bà biết được những gì đang xảy ra. Các bô lão của thị tộc ở cách xa trại, đang làm lễ cắt bao quy đầu cho đám con trai thứ lễ nghi man rợ áp dụng đối với các cậu bé khi chúng bước vào tuổi vị thành niên, và chỉ sau đó chúng mới được công nhận là đàn ông.
Lúc nào bà cung thổn thức, xao xUyến khi nghe thấy người bản xứ tiếp tục hát những bài hát ấy, đặc biệt là khị có đứa nào đó trong đám con trai đầy tớ của bà có mặt ở đấy.
Đồ quỷ! Mấy lão già man rợ! bà vừa lẫm bẫm, vừa xem sách hay khâu vá, nhưng vẫn cố tự kiềm chế. Và cũng như đám đàn bà trong trại, bà cũng thấy nhẹ nhõm khi nhìn thấy đám đàn ông trở về, vào lúc mặt trời gác núi, mang theo chú bé ở lại trong rừng chờ hết đau đã. lều này phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn hành lễ và việc cậu ta đã chờ hết thời hạn cách ly phụ nữ hay chưa.
Từ dưới mái hiên, - bà Bêxi nhìn thấy đám đàn ông dắt một cậu con trai về trại. họ vừa nhảy vừa hát. Đám đàn bà chạy ra đón họ thốt lên những lời nghe như nữa than oán, nửa vui mừng. hễ nhìn thấy những gương mặt xanh xao, phờ phạc của bọn con trai Uytaliba sau cơn thử thách quái dị đó là bà Bêxi làm om sòm lên. Bọn con gái rất đỗi ngạc nhiên khi nhận thấy mỗi lần chia thức ăn cho mọi người, bà Bêxi bao giờ cũng dành cho Orieda những miếng bít tết ngon lành, thậm chí còn mời uống trà.
Thỉnh thoảng do cảm thấy cô đơn hay tò mò, bà Bêxi lại xuống xóm thổ dân để xem múa Côrôbôri, Bà ngồi tách xa phía bên kia bếp lửa, cách Oarieda một quãng, trong khi đám đàn bà, trẻ con và đàn chó quây quần bên nhau. Bà ngạc nhiên trước vẻ đẹp và ý nghĩa của những điệu múa kỳ diệu này trên những cảnh đồng rộng lớn, dưới bầu trời xanh cao, lác đác những vì sao.
Một đêm, đúng vào lúc bà ra về sau buổi múa Côrôbôri bên bếp lửa trại, Oarieda mời bà ở lại xem một điệu mà người thổ dân chưa bao giờ cho phép đàn bà xem. Hiểu rằng đây lằ một vinh dự nên bà nán lại, ngồi xuống cạnh bếp lửa.
Trong ánh lửa bập bùng giữa đêm tối mênh mông, bà ngồi im như một phần của bóng đêm đen tối. Bà nhìn thấy một thế giới khác lạ - cái thế giới đầy bí ẩn, hoan lạc và sống động trong trí tưởng tượng của con người thượng cổ. Nhưng bà đã kiên quyết xua tan cái linh cảm thấy mình đã là một bộ phận của đêm tối, của không gian bao lao vô định và của chính điệu múa Côrôbôri trang trọng này.
Kunadu liền thu mình lại giữa đám đàn bà, khuất trong bụi mù, khi nó nhìn thấy bà Bêxi trong chiếc áo liền váy màu trắng ngồi phía bên kia bếp lửa. Cô bé không dám nhìn lại điệu múa. Vì tin rằng nếu nhìn điệu múa thiêng liêng ấy thì sẽ bị quỷ thần trừng phạt, hay ít ra cùng bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng khủng khiếp cho đến khi tắt thở. Cô bé hát cùng đám đàn bà. Bà Bêxi nghe rõ mồn một tiếng hát trong trẻo, non trẻ, nổi lên giữa những tiếng hát trầm vang của những người đàn bà bị Oarieda trùm chăn cho kín mặt.
Chitali múa trong ánh lửa trại bập bùng, đầu đội chiếc khăn mỏ quạ xung quanh viền ve trắng, giống một chiếc tổ nhện khổng lồ. Chiếc khăn nhô cao và thò ra như một mái hiên phía trên vầng trán. Toàn thân trần truồng, vẽ đầy những hoa văn hai màu trắng, đỏ. Chitali vừa múa, vừa làm những điệu bộ hóm hĩnh, hai đầu gối khuynh ra, dạng chân qua trên bếp lửa.
Những động tác như vậy có ý nghĩa gì không? - Ngày hôm sau Kunadu nghe bà chủ hỏi Xôlơ Hadi, mặc dù bản thân cô bé thậm chí không dám nhận là có nghe lỏm dược câu trả lời: Tôi cũng chả biết, - nhưng có lẽ ít nhiều cỏ ý nghĩa giới tính- Lửa là dương tính. Những người thổ dân tin rằng chính những làn khói nghi ngút do túc động của điệu múa của đàn ông nguồn tạo nên khả năng thụ tinh của những linh hồn giống cái, và từ đó lập nên sự sống, chim muông, thú vật và cỏ cây. Đây chính là tạo hóa, tôi nghĩ như vậy.
Thế rồi, vào rất nhiều các dịp lễ Pingcơ Ai khác. Kunadu đã nhìn thấy bọn con trai xếp hàng dài, vừa đi vừa múa theo sau những cô gái từ Brite Brite và Nunieoara đến. Có một điều gì đó bía ẩn báo hiệu một sự rủi ro khôn lường đối với Kunadu, và cuối cùng dưới bầu trời đầy sao sáng, cô bé cũng bắt đầu nhảy, múa với tấm thân trần truồng, gương mặt sợ hãi, dẫn đầu cả đám đàn bà bản xứ.
Họ nhảy múa và tiếp tục hát cho đến khi Kunadu mệt nhoài, suýt ngã gục xuống đất. Nhưng lúc đó Bandoghera lại vỗ tay vào mông nó, thúc nó nhảy tiếp. Khi Bandoghera quyết định tha cho Kunadu, không bắt nó nhảy nữa, thì nó đã nằm lăn ra ngủ bên bếp lửa của chính mình, để rồi lại bị đánh thức bởi tiếng hát ai oán của đám đàn bà, và lại bị họ lôi ra nhảy múa dưới bầu trời đầy sao, nối tiếp nhau dàn hàng ngang trước bếp lửa rực cháy. Kunadu cảm thấy lo sợ và có phần lúng túng, nhưng đã trấn tĩnh được. Kunadu cố hát và nhảy múa như những người đàn bà khác. Cô thoáng có ý nghĩ - một ý nghĩ mơ hồ về những gì đang xảy ra lúc này. Cô đang được biến thành một đàn bà thực sự, và vì vậy càng không được phép tỏ ra yếu kém hơn, hay không xứng với những người trong bộ tộc, như các cô gái từ Britê Britê và Nunieoara đến.
Kunadu có cảm giác đã bao nhiêu lần cô múa hát suốt đêm, người mệt nhoài vì thiếu ngủ. Nhưng cô biết trời sắp sáng, và khi đám đàn ông ngồi vây quanh cô, còn cô nằm dài trước mặt họ, thì những vì sao trên trời đã sắp lặn. Cô nhớ rõ cái đêm đám đàn ông ngồi vây quanh cô, hát những lời ca ngợi sự sống đang trào dâng trong lòng ngực cô. Rồi một cơn đau nhói lên và cô nghe rõ tiếng kêu thất thanh kỳ lạ cửa chính mình, như tiếng kêu của một con chim bị bắt.
Sáng sớm hôm sau, khi Kunudu đứng cạnh giường bà Bêxi, tay bỏ chén trà, thì bà kêu lên:
Ta vừa mới chợp mắt được một tí. Đêm qua, dưới xóm kia chúng nó làm gi mà ầm ĩ lên thế?.
Kunadu lắc đầu. Cô không được phép nói lại những gì đã xảy ra đêm qua. Mà bà Bêxi thì hiểu những người thổ dân quá rõ nên chẳng hỏi thêm
Trông con bé có vẻ khác thường bà nghĩ vậy. Trong đôi mắt Kunadu đang hiện lên một điều gì mới lạ; bên cạnh những nét vui tươi của tuổi thanh xuân, là những nét ưu tư, trầm tĩnh của một người từng trãi.
 - Ô kìa, Kunadu, mày ngủ rồi hay sao? - bà Bêxi hỏi. Chừng nào không còn cái trò Pingo Ai chết tiệt ấy nữa thì tao mới yên lòng.
Nhưng thông qua Mini bà Bêxi đã biết hết những chuyện đã xảy ra.
 - Làm cho con bé thành đàn bò. - Mini nói, miệng mỉm cười hóm hỉnh.
Hình như chị ta cảm thấy phấn khởi, thậm chí vui sướng về việc làm cho con bé thành đàn bà.
Bà Bêxi hiểu đầy đủ ý nghĩa của việc làm đó.
Đối với các bộ tộc sống ở vùng Tây Bắc này, con gái cũng như con trai đến tuổi đều phải thụ lễ trưởng thành.
Nhưng này Mini, sao họ lại phải làm như vậy?
Mini lắc đầu, có thể chị ta không biết, cũng có thể chị tạ ái ngại, vì qua nét mặt bà Bêxi chị cảm thấy bà không hài lòng về chuyện đó.
Bà khó chịu ra mặt? những thành kiến thường có ở những người đàn bà da trắng đang sục sôi trong lòng bà.
 - Này! - bà Bêxi dằn giọng. Một lão già dùng đá để phá trinh một cô gái như vậy thì thật là kinh tởm!
Nhưng rồi cơn phẩn nộ của bà Bêxi cuối cùng cũng nguôi dân. Bà nhận ra rằng dù có dạy Kunadu mọi cung cách ăn ở của phụ nữ da trắng, chỉ bảo cho cô cách nấu nướng, vá may, ăn ở sạch sẽ và gọn gàng, thì cô vẫn là một cô gái thổ dân - Không phải bà Bêxi muốn giải phóng Kunadu khỏi môi trường cội rễ của cô. Bà chẳng muốn thế.. Nhưng bà ghen tức -Vì ảnh hưởng của bà đối với cô chậng nghĩa lý gì so với ảnh hưởng của những người thổ dân. Bà không muốn mất Kunadu, những người thổ dân cũng không muốn mất đi một người thân thích. Kunadu và họ là những đồng chủng. Họ gắn bó với cô và cô gắn bó với họ, với xứ sở, bằng những sợi dây ràng buộc của các giác quan, của ý thích và linh cảm.
Khi Kunadu chưa đến tuổi mười sáu thì bà thấy họ làm như thế là đúng. Cô gái đã đến tuổi lấy chồng và sẽ phải lấy chồng, Nhưng bà Bêxi vẫn khư khư giữ cô lại để mặc cả với Oarieda, và về phía mình, Oarieda cũng mặc cả với bà, mặc dù không dễ dàng gì.
Với tấm thân mảnh dẻ, gương mặt đậm đà, dáng người mềm mại, đôi mắt đen long lanh, mí mắt mỏng như cánh bướm. Kunadu ngày ngày lên trại làm các việc rồi trở về - tất cả sức sống và những nét hóm hĩnh tinh nghịch của tuổi thanh xuân cứ lồ lộ ra ngoải.
Là một cô gái xinh đẹp, lại đầy dũng khí như một chú ngựa non bất kham, Kunadu khiến tất cả đám đàn ông trông thấy tài điều khiền và thuần ngựa của cô mà thèm, mặc dù họ biết rõ không anh nào dám cả gan làm như cô. Nhưng người ta đã ướt hẹn gã cô cho Oarieda và bà Bêxi cũng không ngăn cản. Vả lại Kunadu có chiều nhõng nhẽo, vẻ kiêu kiêu, bướng bỉnh, nên bị những người da đen rất ghét. Mini thì mắng mỏ. Oareida thì để ý theo dõi và lại càng khát khao thèm muốn.
Bà Bêxi cũng nhận thấy điều đó. Một hôm, lúc trời bắt đầu tối, Kunadu cởi chiếc áo váy để lại trong túp lều rồi ra về. Bà Bêxi nhìn theo cô gái đang thoăn thoắt bước về nhà. Với tấm thân ngay ngắn, màu da bánh mật, đôi chân dài và hai bầu vú căn phồng, trông cô như hệt bức tượng Thần vệ nữ bằng đồng-cao vút dưới bầu trời tranh tối tranh sáng. Cô gái bước đi nhún nhảy tấm thân đung đưa nhịp nhàng thỉnh thoảng cô lại ngoái cổ nhìn những ngườị đàn ông qua đường, miệng mấp máy những gì không rõ.
Trông đến là lẳng lơ! bà Bêxi nhận xét
Nhờ duyên dáng, được mọi người chú ý tuy chẳng lọt vào tay ai mà trong những năm ấy Kunadu rất đỗi vui mừng.
Hồi Kunadu lên mười bốn tuổi, một hôm, sau buổi lễ Pingcơ Ai, một chàng trai từ trên núi xuống, lấy một cành cây chẻ đôi xoắn tóc cô, mưu toan kéo cô trốn đi nơi khác, do đó đã xảy ra một cuộc ẩu đả. Khi chàng trai ở lại đánh nhau với Oarieda đề giành Kunadu cô đứng giữ xiên cho Oarieda vì cô có quyền làm như vậy. Những chiếc xiên lặng lẽ lao vun vút, nhưng cả hai chàng trai đều thông minh và là những tay phóng xiên lão luyện, nên chẳng bên nào bị trúng xiên của đối thủ. Chàng trai từ trên nói xuống, người nhỏ nhắn và trẻ hơn nhiều so với Oarieda. Cậu ta chưa giành được cô gái nào nên đánh nhau rất hăng Kunadu thì vốn khiếp sợ trước sức mạnh phi thường của Oarieda nên kêu la, quát mắng chàng trai lạ mặt một cách giận dữ.
Nhưng chàng trai có đôi chân cực kỳ nhanh nhẹn và có tài ném bumêreng tuyệt vời. Chiếc bumêreng anh ta ném đầu tiên bay trượt bên thái dương Oarieda ; bumêreng thứ hai suýt trúng mà bên trái của Oarieda ; nhưng rồi chiếc bumêreng thứ ba của Oarieda trúng má chàng trai, làm toác cả da trán, khiến anh ta ngã, nằm sóng soài trên mặt đất một hồi lâu, máu trào ra từ những vết thương sâu. Thế là sáng hôm sau chàng trai vất vưởng quay về núi, cố lê bước thật nhanh. Nhưng cuộc chiến đấu chưa phải đã kết thúc. Anh ta thề khi nào Oarieda béo phệ ra, kém nhanh nhẹn hơn, và bản thân anh ta đủ cường tráng, thì sẽ quay lại, quyết đánh cắp bằng được Kunadu.
Mini lấy làm giận dữ trước tất cả những việc đã xảy ra. Chị cho rằng tất cả chỉ vì Kunadu, một cô gái ranh mãnh, và hư đốn. Nhưng chị cùng khó chịu với bà Bêxi. Chị bảo bà ta rằng Kunadu muốn lấy chồng mà cứ giữ riết nó trong nhà là không đứng. Ở xóm thổ dân, Oarieda nhận thấy chẳng có ai ngăn cản Kunadu lấy chồng thế nhưng anh chàng vẫn phải giữ lời hứa với Mămi. Hình ảnh con ngựa và đôi chăn mới vẫn thường xuyên hiện bóng lờ mờ trong mắt anh ta. Thấy Mini phản đối, bà Bêxi chỉ cười, bà vui mừng thấy Kunadu đã trở thành một cô gái đẹp, khỏe mạnh.
Nhưng khi Xam Giêry cho người đến ngỏ ý sẵn sàng nộp cho ông già Giô Kunara, bố cô gái, một khẫu súng trường, hai chiếc chăn và một ít thuốc lào. Nếu ông già đồng ý gả con gải cho ông ta thì bà Bêxi lại lo ngại lo ngại hơn cả Mini. Ông già mê mẫn trước số của cải to lớn đó nên không nỡ từ chối. Oarieda đã ngỏ ý cầu hôn từ lâu, nhưng đằng này những một khẩu súng trường! Đôi mắt ông già sáng lên.
Oarieda đã ra tay với anh chàng sứ giả của Xam Giêry. Anh ta đuổi hắn, bắt mang quà về, rồi đến thưa với bà Bêxi. Anh ta nói, giọng run run, đầy phẫn nộ ; hai mắt như bốc lửa.
Oarieda biết rất rõ rằng anh ta cần có sự giúp đỡ của bà Bêxi để chống lại Xam Giêry, đặc biệt là để kiếm được chai Uytxki, mặc dù bị cấm, và một khẩu súng. Hễ có hai thứ đó là thể nào cùng thuyết phục được bố Kunadu.
Lần sau, khi Xam Giêry đến nhà, bà Bêxi liền ra lệnh cho Kunadu về dưới xóm thổ dân, và chính bà đã cho ông ta một bài học.
Thôi được, ông ta nói, nếu bà không lấy tôi để tôi quản lý luôn cả hai trại Uytaliba và Nunieoara cho tiện, thì bà cho tôi con Kunadu vậy. Con Xara bây giờ thì hơi già mà lại luộm thuộm. Vả lại, thiết nghĩ bà sẽ vui mừng trút bớt được gánh nặng trước khi cậu Iuni về.
.. Thôi đi, xin ông đừng chỏ mũi vào việc người khác. Hãy để chúng tôi yên thân.
Giêry cười hô hố. Hễ chọc tức được bà Bêxi là ông ta lấy làm vui sướng không gì bằng. Muốn vậy chỉ có cách dọa lấy Kunadu.
Vào một buổi tối, khi biết trong trại không có đàn ông, ông ta nửa đùa nửa thật, cho hai thanh niên và một bà già đi bắt cóc Kunadu.
Nhưng bà Bêxi đã kêu toáng lên, la hét om sòm, vừa la vừa đánh, khiến mọi người trong trại đều thức dậy. Các sứ giả của Xam Giêry bị đòn đau đành bỏ chạy. Sau đó mấy tuần liền, hễ tối đến là bà Bêxi cho nhốt Kunadu vào buồng tắm rồi khóa chặt cửa.
Bà Bêxi chẳng bao giờ chịu thất bại, nhưng mãi đến sau ngày hội tháng Tư, khi bà đã trao cho Oarieda con ngựa nâu con và đôi chăn sọc xanh đỏ, nền xám, là các thứ bà đã hứa, và anh chàng đã chờ đợi lâu ngày, thì bà mới yên tâm. Còn về phần Kunadu thì bà cho con ngựa hồng mao Thetixơ, một gói kẹo và một chiếc áo len đỏ để mặc khi trời lạnh. Kunadu rất đỗi vui mừng khi nhận món quà bà Bêxi dành cho rú, và cô lấy làm hãnh diện được làm vợ Oarieda.

 [a1]Ngày hội của thổ dân Úc, trùng thời gian với lễ Phục Sinh của người da trắng
 [a2]Một thứ đồ chơi bằng gỗ của thổ dân, dẹt, hình cung, ném đi lại liệng vòng trở về chỗ người ném