Vào lúc tám giờ 40 phút tối thứ sáu, khi nhóm phóng viên CBA vẫn còn đang ăn tối ở quán Shun Lee West, có tiếng chuông vang lên ở căn hộ Manhattan của nhà ngoại giao người Peru, Jose Antonnio Salaverry, báo hiệu có khách. Căn hộ nằm ở phố Bốn mươi tám gần đại lộ Công viên, là một phần trong khu nhà hai mươi tầng. Cho dù có người gác ở cửa chính, khách khứa thường dùng hệ thống điện thoại bên ngoài để báo tin việc họ đã đến, rồi chính người chủ căn hộ trực tiếp mời họ vào. Salaverry đã bực bội từ lúc anh ta gặp Miguel sáng nay tại trụ sở Liên hợp quốc và rất lo lắng khi nghe nói rằng nhóm Medellin Sendero Luminoso đã ra khỏi đất nước một cách an toàn. Anh ta cho rằng việc ra đi của bọn chúng sẽ kết thúc mối liên quan của chính bản thân anh ta với cái việc đáng sợ đã ám ảnh tâm trí anh ta suốt từ hôm qua tới nay. Anh ta và cô bồ làm ở ngân hàng là Helga Efferen đã ngồi uống vôtka trước lò sưởi suốt hơn một tiếng đồng hồ, cả hai đều không cảm thấy có nhu cầu cần phải đi vào bếp để nấu nướng một chút gì đó hoặc gọi điện thoại đặt người đưa thức ăn tới. Tuy rằng rượu mạnh đã làm cho thể xác họ thư giãn ra một chút, nhưng nó vẫn không làm họ bớt lo lắng. Họ là một đôi so le – Salaverry thì nhỏ bé và xương xẩu; Helga thì nói “đồ sộ” là lời mô tả tốt nhất. Cô to xương, da thịt phốp pháp, bộ ngực núng nính và một mái tóc hung tự nhiên. Tuy nhiên thiên nhiên đã không tiếp tục làm đẹp cho cô, khuôn mặt thô ráp và tính chanh chua của cô làm cho đàn ông khó chịu, tuy Salaverry thì lại không. Từ cuộc gặp gỡ đầu tiên ở ngân hàng anh ta đã bị Helga thu hút, có lẽ vì anh ta thấy bản thân mình “đồng điệu” với cô và cũng cảm thấy khả năng xác thịt mạnh mẽ nhưng kín đáo của cô. Nếu như vậy, anh ta đã đúng trong cả hai điều suy nghĩ. Họ cũng chia sẻ một quan điểm, là chỉ căn cứ vào chủ nghĩa thực dụng. Tính ích kỷ và hà tiện. Về phần nhục dục, trong các cuộc làm tình thường xuyên của họ, một nàng Helga luôn sôi sục trở thành một con thú điên cuồng đáp lại lòng ham muốn của Jose Antonio. Cô quấn chặt và gần như nuốt chửng anh ta. Anh ta thích điều đó, Helga cũng hay thả sức kêu toáng lên, đôi khi còn hét lên trong cơn kích thích cao độ. Điều đó làm cho anh ta cảm thấy mình hùng mạnh về tất cả mọi mặt – hơn là trên thực tế. Buổi tối hôm đó đã xảy ra một ngoại lệ hiếm hoi. Họ đã bắt đầu làm tình với nhau, hy vọng xoá đi, dù chỉ là tạm thời, mối lo quá lớn của họ. Nhưng họ không thể xoá được và sau một lúc cả hai đều nhận ra là họ đã không hứng thú lắm với cuộc ái ân nên dừng lại. Dù sao thì tâm trí họ vẫn bị ám ảnh bởi việc gia đình Sloane bị bắt cóc. Cả hai đều biết rằng họ nắm được một lượng thông tin quan trọng về tội ác gây náo động hiệẹn đang nóng hổi trong giới báo chí và nạn nhân cũng như thủ phạm đều đang bị mọi cơ quan luật pháp của cả nước truy tìm. Tồi tệ hơn nữa là họ đã tiếp tay cho vụ bắt cóc này. Tuy nhiên, không phải Jose Antonio và Helga lo lắng cho những nạn nhân vụ bắt cóc. Họ lo cho chính bản thân họ. Salaverry biết rằng nếu sự tham gia của hắn bại lộ, thì luật miễn trừ ngoại giao không thể cứu hắn thoát khỏi hậu quả chẳng dễ chịu gì, kể cả việc trục xuất ra khỏi Liên hợp quốc và nước Mỹ, sự nghiệp tiêu huỷ và chắc hẳn khi về Peru còn bị bọn Sendero Luminoso trả thù nữa. Helga không có sự bảo vệ nào về mặt ngoại giao, sẽ bị bỏ tù vì đã không khai báo tội phạm và có lẽ vì đã nhận hối lộ để bí mật chuyển ngân quỹ vào ngân hàng cô đang làm việc. Helga đang mải mê với những ý nghĩ này thì tiếng chuông vang lên. Người tình của cô nhảy bật dậy, chạy vội tới máy điện đàm mắc trên tường nối liền với cổng chính. Bấm một cái nút, hắn hỏi: “Ai đó?”. Một giọng nói khó nghe thông báo: “Plato đây”. Nhẹ nhõm hẳn, Salaverry bảo Helga: “Hắn đấy”. Rồi nói vào ống nghe “Xin mời lên”. Hắn bấm một cái nút để mở khoá cổng vào ở tầng dưới. ° Dưới đó mười bảy tầng, người đàn ông vừa mới nói chuyện với Salaverry bước vào trong toà nhà qua một cái cửa kính nặng nề. Hắn người tầm thước, mặt mỏng dinh da ngăm ngăm, đôi mắt sâu hoảm, ủ ê và mớ tóc đen bóng loáng. Hắn mặc chiếc áo khoác cũ không cài khuy trước, phủ ngoài một bộ quần áo nâu không có gì đặc biệt. Lúc bước vào hắn vẫn đi đôi găng tay mỏng và mặc dù ở trong nhà rất ấm hắn vẫn không bỏ găng ra. Một người gác cửa nhìn thấy người này đến nên đã sử dụng điện đàm ra hiệu cho hắn bước vào một chiếc thang máy. Ba người khác cũng đã đứng chờ ở tầng trệt cùng bước vào thang máy. Người đàn ông trong chiếc áo khoác cũ không thèm để ý gì tới họ. Sau khi bấm nút lên tầng thứ mười tám, hắn đứng bất động, nhìn thẳng về phía trước. Lúc thang máy lên tới tầng của hắn thì mấy người kia đã ra rồi. Hắn đi theo một mũi tên chỉ tới căn hộ hắn phải tìm, cẩn thận ghi nhớ rằng trên tầng này còn có ba căn hộ nữa và có một cầu thang cứu hoả ở phía tay phải. Hắn không cần phải sử dụng lời chỉ dẫn, nhưng ghi nhớ đường trốn thoát là một thói quen. Tại cửa ra vào hắn bấm nút và nghe tiếng chuông reo khẽ ở bên trong. Hầu như cửa được mở ra ngay lập tức. Người đàn ông hỏi: “Ông Salaverry phải không ạ?”. Giọng nói của hắn rất dịu, pha lẫn âm sắc Latinh. “Vâng, vâng. Mời vào. Để tôi treo áo khoác cho ông nhé”. “Thôi. Tôi không ở lại lâu”. Người khách lướt nhìn quanh. Thấy Helga, hắn hỏi: “Người phụ nữ này là nhân viên ngân hàng à?”. Nghe có vẻ hơi xấc xược, nhưng Salaverry vẫn trả lời: “Vâng, đó là cô Efferen. Còn ông tên là gì ạ?”. “Cứ gọi là Plato là đủ”. Hất hàm về phía trước lò sưởi, hắn nói: “Chúng ta ra kia nhé?”. “Được ạ”, Salaverry nhận thấy rằng hắn vẫn mang găng tay. Anh ta cho rằng có lẽ tay này quá cẩn thận hoặc có thể tay hắn có tật nguyền gì đó. Lúc này, họ đã đứng trước lò sưởi. Sau khi gật đầu rất khẽ về phía Helga, người đàn ông hỏi: “Có còn ai ở đây nữa không?”. Salaverry lắc đầu “Chỉ có chúng tôi thôi. Ông có thể nói thoải mái”. “Tôi có một bức thư”, người đàn ông nói, đưa tay vào túi áo khoác. Khi rút tay ra, trong tay hắn đã cầm một khẩu Browning chín milimet, nòng có giảm thanh. Lượng rượu mạnh vừa mới uống khiến Salaverry không còn phản ứng nhanh được, mà dù có phản ứng bình thường đi chăng nữa thì xem ra cũng không thể thay đổi được điều sẽ xảy ra sau đó. Trong khi anh chàng người Peru cứng đờ người sửng sốt, trước khi kịp cử động, người đàn ông nhằm thẳng trán Salaverry bóp cò. Trong giây lát ngắn ngủi cuối cùng ở cõi đời, miệng của nạn nhân vẫn còn mở to vì ngạc nhiên và không tin điều đã xảy ra. Nơi viên đạn chui vào chỉ có một vết thương nhỏ xíu, một vòng tròn đỏ gọn gàng có vết bột cháy vòng quanh. Nhưng vết thương ở chỗ viên đạn chui ra ở phía sau đầu thì rộng hoác và nhầy nhụa vì mảnh xương, óc và máu phun ra. Trong khoảnh khắc trước khi cái thây kịp đổ xuống, gã đàn ông trong chiếc áo khoác vẫn còn kịp thấy vết bột cháy, một cài thành quả mà hắn đã dự tính. Rồi hắn quay sang phía người đàn bà. Helga cũng đứng đờ đẫn vì sửng sốt. Tuy nhiên giờ đây sự kinh ngạc đã chuyển thành nỗi khiếp sợ. Cô bắt đầu thét lên và định chạy đi. Nhưng đã quá muộn. Gã đàn ông, một xạ thủ điệu nghệ, đã để một viên đạn xuyên qua tim cô. Helga ngã xuống chết, máu tuôn lên tấm thảm dưới chân. Gã đàn ông, là kẻ Miguel đã gọi từ Tiểu Colombia đến để thuê giết người, ngừng lại và nghe ngóng cẩn thận. Bộ phận giảm thanh trên khẩu Browning khiến cho cả hai phát súng không hề có tiếng vang, nhưng hắn không chủ quan, nên vẫn dè chừng sự can thiếp bất chợt từ bên ngoài. Nếu hàng xóm có động tĩnh hoặc dấu hiệu gì khả nghi, hắn phải chuồn ngay. Nhưng vẫn im lặng, nên hắn tiếp tục, mau lẹ và thành thạo, làm những điều hắn đã được chỉ thị phải làm. Đầu tiên hắn tháo ống giảm thanh ra và cho vào túi. Hắn tạm để khẩu súng lục xuống bên cạnh xác Salaverry. Rồi, từ túi bên kia áo, hắn rút ra một bình phun sơn. Bước qua phía bên kia tường, hắn phun chữ CORNUDO. Quay lại phía xác Salaverry, hắn để cho một số giọt sơn đen nhỏ lên bàn tay phải của người chết, rồi ấn những ngón tay đã cứng đờ vào xung quanh bình, vậy là dấu vân tay của Salaverry đã ở trên bình sơn. Kẻ sát nhân để bình sơn lên một chiếc bàn gần đó, rồi cầm khẩu súng lên và đặt vào tay người chết, cũng lại ấn những ngón tay vào đó khiến cho dấu tay của Salaverry cũng in trên khẩu súng. Hắn để khẩu súng vào bàn tay sao có vẻ như Salaverry đã tự bắn vào mình rồi ngã xuống sàn. Hắn không đụng gì tới xác người đàn bà. Sau đó, hắn lấy một tờ giầy để sẵn trong túi, có những dòng chữ đã được đánh máy như sau: “Vậy có lẽ anh không tin tôi khi tôi nói cho anh biết rằng cô ta là một con điếm cuồng dâm, không xứng đáng với anh. Anh cho rằng cô ta yêu anh mà tất thảy những gì cô ta dành cho anh chỉ là sự khinh rẻ. Anh tin tưởng cô ta, anh đã giao cả chìa khoá nhà cho cô ta. Điều cô ta đã làm là đem những người đàn ông khác tới đó để làm những chuyện dâm ô đồi bại. Đây là những tấm ảnh chứng minh điều đó. Cô ta đã mang người đàn ông này về và cho phép người bạn làm nghề nhiếp ảnh của hắn ta chụp ảnh. Tính cuồng dâm của cô ta còn tới mức độ cô ta thu thập những bức ảnh này cho mình. Chắc chắn việc cô ta sử dụng nhà của anh vào một việc tệ hại như vậy là một sự lăng nhục quá mức đối với một con người mạnh mẽ như anh”. Người bạn cũ và (thực sự) của anh Từ phòng khách, tên sát nhân bước vào nơi rõ ràng là phòng ngủ của Salaverry. Hắn vo viên tờ giấy đánh máy và ném vào sọt rác. Khi cảnh sát tới khám xét căn nhà, chắc chắn là người ta sẽ tìm ra tờ giấy. Khả năng quá rõ là nó sẽ được coi là một bức thư nặc danh, tác giả chỉ có mình Salaverry biết khi anh ta còn sống. Cuối cùng là một chiếc phong bì, mà cũng đã nằm trong túi kẻ sát nhân, chứa một số mảnh của những tấm ảnh đen trắng, mảnh nào cũng đã cháy dỡ. Bước vào phòng tắm cạnh phòng ngủ, hắn đổ những thứ chứa trong phong bì vào bồn vệ sinh, để cho các mảnh nổi bồng bềnh. Những mảnh giấy ảnh này rất nhỏ nên khó mà nhận diện được. Tất nhiên, một giả thiết hợp lý sẽ là Salaverry sau khi nhận được bức thư tố cáo, đã đốt những bức ảnh kèm theo thư và giật nước cho tro trôi đi, dù cho một số mảnh chưa cháy hết còn lưu lại. Rồi, vì biết mình đã bị Helga yêu dấu phản bội, nên trong một cơn ghen điên cuồng anh ta đã nổ súng giết chết cô ta. Rồi Salaverry sẽ phun một chữ duy nhất lên bức tường, một lời nhắn gửi lâm ly mô tả tâm trạng của anh ta (Nếu những người cảnh sát điều tra không biết tiếng Tây Ban Nha, một người nào đó sẽ dịch từ này sang tiếng Anh nghĩa là “Bị cắm sừng…) Thậm chí còn có một cái gì đó có vẻ nghệ thuật trong tiếng kêu ly biệt được viết một cách thô thiển đó. Có lẽ đây không phải là cách một ngừoi gốc Anglo-Saxon hoặc một người sinh ra ở nước Mỹ xử sự, mà nó lại nói lên cái tính cách điên cuồng nhẹ dạ của người tình nhân Mỹ La tinh. Và giả thiết cuối cùng: Trong cơn tuyệt vọng, không muốn đối diện với hậu quả hành động của mình, Salaverry đã tự sát, vết thuốc súng trên trán là điển hình cho các vết thương tự bắn. Như các nhà dự tính đầy kinh nghiệm đối với các vụ này biết rõ, ở thành phố New York, nơi các vụ giết người xảy ra thường xuyên và lực lượng thanh tra cảnh sát đã có quá nhiều việc làm rồi, thì rất ít thời gian và nỗ lực sẽ được dùng vào việc điều tra một vụ án mà tình huống và cách giải quyết đã hiện rõ rành rành. Tên sát nhân nhìn quanh phòng khách, kiểm tra lần cuối, rồi lặng lẽ bỏ đi. Cho tới khi hắn vô sự bước ra khỏi khu nhà tất cả mọi hành động chỉ mất gần mười lăm phút. Đi được vài khu nhà, hắn lột găng tay ra ném vào một thùng rác ven đường.