Dịch giả: Nguyễn Thành Châu & Phan Thanh Thảo
Chương 16

Lúc này là hai giờ mười phút sáng ở Nueva Esperanza.
Suốt mấy giờ, Jessica nằm thao thức, giấc ngủ chập chờn, đôi lúc nằm mơ, những giấc mơ trở thành cơn ác mộng hoà trộn với thực tế.
Mấy phút trước, lúc còn tỉnh ngủ, Jessica nhìn qua chỗ đục làm cửa sổ đối diện cũi giam của nàg. Trong ánh đèn lờ mờ từ trong lọt ra, nàng cảm thấy như nhìn thấy khuôn mặt Harry Partridge. Rồi khuôn mặt ấy biến mất đột ngột như khi nó xuất hiện. Nàng ngủ hay thức? Hay nàng lại đang mơ? Có thể là ảo giác chăng?
Nàng lúc lắc đầu cho tỉnh táo, thì lại thấy khuôn mặt ấy xuất hiện, từ từ nhô lên trên mép lưới cửa sổ, rồi dừng lại. Một bàn tay ra hiệu gì đó mà nàng không hiểu, nhưng nàng nhìn kỹ khuôn mặt ấy. Chả lẽ là đúng? Tim đập mạnh khi nàng cả quyết: Đúng rồi, chắc chắn là Harry Partridge.
Mồm anh mấp máy không thành tiếng, môi uốn theo từng từ, cố làm nàng hiểu. Nàng tập trung tư tưởng, cố xem anh nói gì, và nhận ra được hai tiếng “thằng gác”. À, đúng rồi: “Thằng gác đâu?”.
Thằng gác lúc này là Vicente. Hắn đến thay gác cách đây một tiếng, rõ ràng là rất muộn, nên hắn và Ramon là tay gác phiên trước cãi nhau kịch liệt. Ramon quát tháo giận dữ. Vicente vặc lại, nghe có vẻ say vì hắn nói hơi líu lưỡi. Jessica không để ý chuyện chúng cãi nhau, bao giờ nàng cũng mừng khi hết phiên gác của Ramon. Thằng này tính tình độc ác, hành động không lường trước được và luôn bắt tù nhân phải tuân thủ lệnh cấm nói chuyện, điều mà đến lúc này những tên khác đều bỏ qua.
Ngoảnh lại, Jessica có thể nhìn thấy Vicente. Hắn đang ngồi trên chiếc ghế bọn gác vẫn ngồi, cách xa chỗ giam và khuất góc cửa sổ. Nàng không rõ hắn đang ngủ hay thức, song mắt hắn hình như đang nhắm, khẩu súng trường dựa vào tường ngay cạnh người. Gần đó là ngọn đèn dầu treo trên xà, và chính nhờ ánh sáng của nó hắt ra, nên nàng nhìn thấy khuôn mặt ở bên ngoài.
Cẩn thận đề phòng Vicente đột nhiên nhìn thấy, Jessica trả lời câu hỏi thầm ấy, bằng cách hất hàm về phía hắn ngồi.
Lập tức ngoài cửa sổ - Jessica vẫn không dám chắc đó là Harry Partridge, lại bắt đầu nói. Nàng lại phải căng óc ra đoán. Đến lần thứ ba thì nàng hiểu câu đó là: “Gọi hắn!”.
Jessica khẽ gật đầu, ra ý đã hiểu. Tim nàng đập rộn lên khi thấy Harry. Như vậy là việc được giải thoát mà họ hằng mong đợi cuối cùng đã tới. Đồng thời nàng cũng hiểu hoàn thành những gì vừa bắt đầu không phải là việc dễ dàng.
“Vicente!”. Nàng nghĩ không cần phải gọi to lắm, nhưng nó không đủ để hắn nghe thấy vì đang ngủ. Nàng lại gọi to hơn: “Vicente!”.
Lần này hắn cựa mình, mở mắt nhìn nàng. Thấy vậy, Jessica vẫy hắn lại.
Vicente vặn người trên ghế, rồi đứng dậy. Nhìn hắn, nàng có cảm tưởng hắn đang định thần, cố cho tỉnh cơn say. Hắn đứng một lát, bắt đầu đi về phía nàng, sau đó lại vội vàng quay lại lấy khẩu súng. Nàng nhận thấy hắn cầm súng trong tư thế sẵn sàng nếu cần.
Cần phải có lý do tại sao gọi hắn, nàng nghĩ, và quyết định sẽ ra hiệu hỏi xem có thể sang chỗ Nicky được không. Tất nhiên hắn sẽ từ chối yêu cầu đó, song lúc này điều đó không quan trọng.
Nàng không biết Harry định làm gì. Mặc dù lo lắng và căng thẳng, nàng cũng biết đây là giây phút mà nàng mơ ước, nhưng đã lo sợ sẽ không bao giờ tới.

*

Nép người dưới cửa sổ, Partridge nắm chặt khẩu Browning chín li, nòng lắp ống giảm thanh. Tối nay, cho đến lúc này, mọi việc đều theo đúng kế hoạch, song anh biết sắp tới mới là phần việc khó khăn và quan trọng nhất.
Chỉ trong một vài giây, không thể có nhiều cách lựa chọn và chọn cái nào anh phải quyết định trong khoảnh khắc. Trong tình huống này, anh có thể dùng súng khống chế tên gác, sau đó trói lại, nhét giẻ vào mồm trước khi rút đi, hoặc mang hắn theo làm con tin. Song cực chẳng đã mới phải chọn cách thứ hai. Cách thứ ba giết hắn, nhưng đó là điều anh mong sẽ không phải làm.
Anh cũng gặp thuận lợi: Jessica là người tháo vát, nghĩ nhanh và hiểu nhanh, đúng như điều anh còn nhớ về nàng.
Anh nghe nàng gọi hai lần, rồi nghe những tiếng động nhẹ ở góc xa và tiếng chân thằng gác đang tới gần. Partridge nín thở, sẵn sàng nhoài người xuống đất nếu như hắn nhìn về phía hướng cửa sổ. Nhưng không, hắn nhìn về phía Jessica, lưng quay ra chỗ Partridge. Vì thế anh có thêm được một giây ước lượng tình hình.
Điều anh thấy trước tiên là thằng gác cầm khẩu súng trường tự động Kalashnikov, loại vũ khí anh biết rất rõ, và trông cách cầm súng, có thể thấy hắn biết cách sử dụng. So với khẩu Kalashnikov, khẩu Browning của anh chỉ là thứ đồ chơi của trẻ con.
Không thể còn cách khác; Partridge phải giết tên gác và phải bất ngờ nổ súng trước. Nhưng cái khó là còn Jessica. Lúc này nàng đứng ở vị trí tạo thành đường thẳng với tên gác. Bắn hắn, đạn có thể xuyên qua Jessica.
Partridge đành phải liều. Không còn cơ hội nào nữa và cũng không còn cách lựa chọn nào khác. Đành phải tin vào khả năng suy đoán nhanh và hành động tức thì của nàng vậy.
Hít một hơi dài, Partridge gọi to và rõ ràng: “Jessica nhào xuống đất ngay!”.
Tên gác quay ngoắt lại, nòng súng ghếch lên, chốt an toàn đã mở. Nhưng Partridge đã nâng súng bắn. Một giây trước đó, anh nhớ lại lời khuyên của huấn luyện viên bắn súng, người đã dạy anh cách sử dụng vũ khí: “Nếu anh muốn bắn chết, đừng có ngắm vào đầu. Dù anh siết cò nhẹ mấy đi nữa, vẫn có khả năng là mũi súng hếch lên, viên đạn sẽ đi cao phía trên đầu. Vì vậy, nếu nhắm thẳng vào tim, hoặc thấp hơn một chút. Như vậy, dù viên đạn ghim vào phía trên trái tim đi nữa, khả năng sát thương vẫn rất lớn, có lẽ giết chết kẻ địch; và nếu hắn chưa chết, anh còn có thời gian bắn phát thứ hai”.
Partridge siết cò; chỉ nghe khẩu Browning kêu “phựt” một tiếng rất nhỏ. Mặc dù đã từng sử dụng súng có giảm thanh, tiếng nổ rất nhỏ ấy bao giờ cũng làm anh ngạc nhiên. Anh nhìn mục tiêu trước mắt, sẵn sàng bắn phát thứ hai, nhưng thấy không cần thiết. Viên đạn găm đúng vào tim và máu bắt đầu chảy ra. Hắn thoáng vẻ ngạc nhiên, sau đó ngã gục, khẩu súng rơi xuống tạo nên tiếng động.
Ngay khi siết cò, Partridge đã thấy Jessica tức khắc làm theo lệnh của anh, nhào người xuống đất. Anh thở phào nhẹ nhỏm, thầm cám ơn nàng. Lúc này nàng đang lồm cồm bò dậy.
Anh vừa quay về phía cửa ra vào, thì một bóng người đã vụt chạy vào. Đó là Minh Văn Cảnh. Anh đã ở đúng vị trí phía sau Partridge như được lệnh, song bây giờ đảo vị trí, Minh nhanh chóng tới gần tên gác, khẩu UZI sẵn sàng nhả đạn, rồi gật đầu với Partridge lúc ấy vừa vào, xác nhận là hắn đã chết. Sau đó Minh tới bên cũi giam Jessica, xem xét chiếc khoá của cũi rồi hỏi: “Chìa khoá đâu?”.
Jessica bảo anh: “Ở phia trên chỗ thằng gác ngồi. Cả chìa khoá cũi Nicky nữa!”.
Ở cũi bên cạnh, Nicky cũng vừa tỉnh. Nó vội vàng ngồi dậy hỏi: “Chuyện gì thế mẹ?”.
Jessica nói cho nó an lòng: “Chuyện tốt cả, con ạ”.
Nicky nhìn người mới đến: Partridge lại gần, tay cầm khẩu Kalashnikov anh vừa nhặt lên, còn Minh đang lấy chùm chìa khoá móc trên chiếc đinh. “Họ là ai thế, hả mẹ?”.
“Những người bạn con ạ. Những người bạn rất tốt”.
Tuy còn ngái ngũ, mặt Nicky sáng lên. Sau đó nó nhìn cái xác bất động nằm trong vũng máu trên nền nhà, và mếu máo nói: “Đó là Vicente! Họ bắn chết Vicente? Tại sao?”.
“Im nào, Nicky”, Jessica đe.
Partridge trả lời, giọng rất nhỏ: “Chú không muốn làm việc ấy, Nicholas ạ. Nhưng hắn định bắn chú. Nếu hắn bắn, chú sẽ không thể đưa mẹ và chú ra khỏi đây được. Mà các chú đến đây là vì việc ấy”.
Nicky vừa chợt nhận ra, hỏi: “Chú là Partridge phải không?”.
“Đúng thế”.
Jessica nói, giọng cảm động: “Ôi, Chúa phù hộ cho anh, Harry, Harry thân yêu!”.
Vẫn với giọng rất nhỏ, Partridge bảo: “Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi chỗ này, còn nhiều việc phải làm. Mọi người phải nhanh lên”.
Minh Văn Cảnh cầm chùm chìa khoá, tra từng chiếc vào ổ khoá cũi giam Jessica. Khoá đột nhiên mở ra. Lát sau, cửa cũi giam mở toang và Jessica bước ra ngoài. Minh đến bên cũi Nicky, thử từng chìa một. Vài giây sau, Nicky cũng bước ra. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau ngay chỗ giữa cũi giam và cửa ra vào.
“Giúp tôi một tay”, Partridge bảo Minh. Anh đang kéo xác tên gác về phía cũi Nicky và hai người nhấc đặt lên chiếc giường gỗ thấp. Làm vậy cũng không giấu được việc tù nhân trốn, anh nghĩ, nhưng nó sẽ làm việc phát hiện chậm lại một chút. Cũng vì thế; anh vặn ngọn đèn dầu cho đến khi nó chỉ còn là một chấm sáng nhỏ; buồng giam lập tức tối om.
Nicky buông Jessica và đến bên Partridge. Bằng giọng đều đều, nó nói với vẻ nghiêm trang: “Chú giết Vicente cũng không sao đâu, chú Partridge ạ. Thỉnh thoảng hắn cũng giúp đỡ mẹ con cháu, nhưng hắn vẫn là một tên trong bọn chúng. Chúng đã giết ông cháu, chặt đứt hai ngón tay cháu, vì vậy cháu không còn chơi piano được nữa”. Vừa nói, nó vừa giơ bàn tay còn đang băng.
“Gọi chú là Harry”, Partridge bảo. “Có, chú có biết chuyện chúng giết ông và chặt ngón tay cháu. Và chú hết sức đau lòng”.
Cậu bé nói, đặc giọng người lớn: “Chú có biết Hội chứng Stockholm không, chú Harry? Mẹ cháu biết đấy. Nếu chú thích, mẹ cháu sẽ kể chú nghe”.
Partridge không trả lời, trố mắt nhìn Nicky. Trước đây, anh đã từng gặp những người trong cơn choáng váng vì phải trải qua những nguy hiểm và tai ương quá sức chịu đựng của họ; giọng nói và cách chọn từ của cậu bé trong mấy phút vừa rồi biểu hiện triệu chứng bị choáng. Nó cần phải được giúp đỡ sớm. Còn lúc này, anh chỉ có thể vươn người, dang tay ôm ngang vai cậu bé. Anh cảm thấy cậu bé đáp lại cử chỉ đó bằng cách nép sát vào anh.
Partridge thấy Jessica đang nhìn, nét mặt đầy vẻ lo lắng như anh. Nàng cũng ước giá thằng gác là đứa khác, chứ không phải Vicente. Nếu đó là Ramon, nàng đã chẳng hề bận tâm. Thế nhưng nàng cũng ngạc nhiên trước cử chỉ và lời nói của Nicky.
Partridge lắc đầu, cố làm Jessica an lòng, đồng thời ra lệnh: “Chúng ta đi thôi”.
Anh cầm khẩu Kalashnikov, đây là loại vũ khí tấn công tốt nhất và có thể phải dùng đến nó. Anh cũng đút túi hai băng đạn mà anh lục được trên người thằng gác bị giết.
Minh ở phía trước, gần cửa ra vào. Anh đã lấy máy ra, lúc này đang ghi lại cảnh họ rút, đằng sau là những chiếc cũi giam. Partridge thấy Minh đang dùng loại ống kính quay đêm đặc biệt – ống kính hồng ngoại không dùng được cho băng video và vì vậy, dù ánh sáng rất yếu như bây giờ, anh vẫn có được những bức ảnh rõ.
Từ hôm qua, Minh vẫn quay hình, nhưng ít và có chọn lọc, vì số băng anh mang theo cũng tương đối hạn chế.
Đúng lúc đó, Fernandez được phân công theo dõi các nhà khác chạy bổ vào. Anh hổn hển nói với Partridge. “Một phụ nữ đang đến. Đi một mình. Tôi nghĩ nó có súng”. Anh vừa nói xong đã nghe tiếng bước chân đang tới gần.
Không còn thời gian để phân công hoặc bố trí chỗ nấp nữa. Mọi người đứng sững người. Jessica ở gần cửa, nhưng lệch quá sang một bên. Minh đứng ngay giữa cửa, những người khác ở sâu phía trong, khuất trong bóng tối. Partridge nâng khẩu Kalasknikov lên. Mặc dù biết tiếng súng sẽ đánh thức cả làng dậy, song nếu muốn dùng khẩu Browning có ống giảm thanh anh sẽ phải để khẩu súng trường xuống mới lấy được. Không còn thời gian làm điều đó.
Soccorro vội vã bước vào. Ả mặc váy ngủ, tay cầm khẩu úng lục Smith và Washe đã lên đạn. Jessica từng thấy Soccorro mang súng nhưng để trong bao, chứ chưa bao giờ cầm ở tay.
Tuy cầm súng, Soccorro có vẻ không nghĩ tới chuyện gì khác thường xảy ra, và lúc đầu, vì trong nhà tối đen, ả tưởng lầm Minh đang đứng gần ả nhất là thằng gác. Ả bảo: “Pense que oscuche…” (1) rồi ả nhận ra đó không phải là tên gác và quay sang trái ả thấy Jessica. Giật mình, ả hét: “Que haces…”(2) rồi câm bặt.
Sự việc tiếp theo diễn biến quá nhanh, đến nỗi sau này không ai có thể tả được đầy đủ.
Soccorro giương súng, ngón tay đặt sẵn trên cò, bước rất nhanh lại gần Jessica. Sau đó, hình như ả định bắt Jessica làm con tin bằng cách gí họng súng vào đầu nàng.
Jessica thấy được điều đó, và cũng nhanh không kém, nhớ lại thuật cận chiến mà nàng đã học nhưng chưa có dịp sử dụng từ khi bị bắt đến giờ. Mặc dù đã nhiều lúc nàng bị thôi thúc áp dụng nó, nhưng biết rằng về lâu dài cũng chẳng giải quyết được gì. Nên quyết định để dành cho đến lúc thật sự cần thiết.
“Khi đối thủ tiến lại gần”, tướng Wade nhấn mạnh trong các bài giảng và bài thị phạm, “phản xạ tự nhiên của ta là lùi lại. Đối thủ cũng chỉ chờ có vậy. Đừng làm như thế, mà hãy làm hắn bất ngờ bằng cách bước lên, vào thật gần”.
Nhanh như chớp, Jessica nhảy bổ vào Soccorro tay trái giơ cao, lên gân rất chắc và chém mạnh vào tay phải của ả. Hai tay chạm nhau, tay Soccorro bất giác bật lên, ả cố gắng ghìm tay xuống và theo phản xạ, ngón tay rời ra, khẩu súng rơi xuống đất. Toàn bộ sự việc diễn ra không đầy một giây. Soccorro hầu như không kịp biết chuyện gì cảy ra.
Jessica không dừng lại, mà dùng hai ngón tay móc mạnh vào họng Soccorro, bóp chặt khí quản không cho ả thở. Đồng thời Jessica áp sát chân phải vào sau Soccorro xô ả ngã ngửa về phía sau. Sau đó, nàng lật úp ả xuống, vòng tay khoá chặt cổ làm ả không thể cựa quậy được. Nếu là trong chiến tranh, theo đúng bài bản của cận chiến, bước tiếp theo sẽ là bẻ gãy cổ, giết chết Soccorro.
Jessica do dự, vì nàng chưa giết ai bao giờ, và cũng chẳng muốn giết người. Nàng cảm thấy Soccorro có vẻ muốn nói điều gì, nên nới bớt hai ngón tay đang bóp họng ả.
Soccorro thở dốc, cầu xin: “Tha cho tôi… Tôi sẽ giúp bà… cùng trốn với các ông, các bà… tôi biết đường”.
Partridge đã lại gần nên nghe rõ. Anh hỏi: “Có thể tin ả được không?”.
Jessica lại lưỡng lự. Nàng thoáng thấy thương hại. Soccorro không phải hoàn toàn xấu. Ngay từ đầu, nàng có cảm giác thời gian làm hộ lý ở Mỹ đã làm con người ả tốt lên. Ả đã săn sóc Nicky sau khi nó bị đốt bỏng và sau này khi ngón tay nó bi chặt. Rồi còn việc Soccorro ném vào trong thuyền thanh sôcôla lúc cả ba người đang đói. Soccorro đã làm nơi họ bị giam khá hơn, khi cho đục cửa sổ trên tường… bất chấp lệnh của Miguel, ả đã cho nàng sang với Nicky…
Nhưng Soccorro cũng chính là đứa đã tham gia vào vụ bắt cóc ngay từ đầu, và cũng chính ả, khi Nicky sắp bị chặt ngón tay, đã nhẫn tâm quát: “Câm mồm! Mày không thể ngăn được điều sắp xảy ra đâu!”.
Và rồi Jessica còn như nghe thấy lời Nicky nói mới cách đây vài phút: “chú giết Vicente cũng không sao đâu, chú Harry ạ… Đôi khi hắn cũng giúp đỡ mẹ con cháu, nhưng hắn là một tên trong bọn chúng… chú có biết Hội chứng Stockholm không? … Mẹ cháu biết đấy…”. Hãy cẩn thận với Hội chứng Stockholm.
Jessica trả lời câu hỏi của Harry. Nàng lắc đầu, nói với anh “Không”.
Mắt họ gặp nhau. Harry vẫn còn kinh ngạc trước tài nghệ đánh nhau bằng tay không của Jessica. Anh tự hỏi nàng học cái đó ở đâu, và để làm gì. Nhưng vào lúc này, điều đó không quan trọng. Cái quan trọng là nàng đã đạt tới điểm quyết định và mắt nàng như hỏi ý kiến anh. Anh khẽ gật đầu. Rồi vì không muốn chứng kiến việc sắp xảy ra, anh quay mặt đi.
Người run vầm cập, Jessica siết chặt tay bẻ cổ Soccorro rồi vặn mạnh đầu ả cho gãy lìa xương sống. Chỉ nghe một tiếng khô khốc rất nhỏ rồi toàn thân ả mềm nhũn. Nàng buông xác ả xuống đất.

*

Partridge đi đầu, Jessica, Nicky, Minh và Fernandez lặng lẽ theo sau, cả nhóm vượt qua làng đang chìm trong bóng tối, không gặp một ai.
Tới bên sông, Ken O’Hara bảo: “Tôi cứ nghĩ các anh sẽ không bao giờ ra được đến đây”.
“Chúng tôi gặp sự cố”, Partridge bảo anh. “Ta đi nhanh lên. Thuyền nào đấy?”.
“Thuyền này”. Đó là một chiếc xuồng gỗ không mui dài khoảng ba mươi phít, có hai động cơ gắn phía sau. Hai dây neo chặt nó vào bờ. “Tôi lấy thêm dầu ở các thuyền khác”. O’Hara nói, chỉ vào mấy can nhựa để gần đằng đuôi.
“Tất cả lên xuồng”, Partridge hạ lệnh.
Trước đó, mặt trăng gần tròn khuất trong mây, nhưng trong mấy phút vừa qua, mây đã trôi đi. Lúc này, mọi người đều trông rõ hơn, nhất là trên mặt nước.
Fernandez giúp Jessica và Nicky trèo vào xuồng. Jessica cảm thấy buồn nôn, người run bần bật, hậu quả của việc giết Soccorro mấy phút trước đó. Minh đứng trên bến quay hình, là người cuối cùng nhảy vào xuồng, trong khi O’Hara tháo dây và dùng chèo đẩy thuyền ra xa bờ. Fernandez cầm mái chèo thứ hai, cùng O’Hara bơi xuồng ra giữa sông.
Nhìn xung quanh, Partridge nhận thấy O’Hara đã sử dụng thời gian chờ đợi một cách có hiệu quả. Một số thuyền bị dìm xuống nước ở gần bờ, những chiếc khác trôi giạt mỗi chiếc một nơi.
“Tôi đã tháo bugi”, O’Hara chỉ mấy chiếc thuyền ở gần. “Chúng có thể vớt thuyền lên, nhưng cũng mất thời gian. Tôi còn quăng mấy mô tơ xuống sông”. “Khá lắm, Ken ạ!”. Quyết định để O’Hara đi cùng, Partridge nghĩ, đã nhiều lần cho thấy là đúng.
Chiếc xuồng họ đang đi không có ghế ngồi, giống như thuyền mà Jessica, Nicky và Angus đã đi lúc trước, “hành khách” ngồi trên những tám ván bắc ngang lòng xuồng. Hai người chèo xuống ngồi ở phía đối diện, cố hết sức đưa xuồng ra giữa sông. Khi Nueva Esperanza mờ dần trong ánh trăng, dòng nước siết đã đưa xuồng trôi xuôi.
Lúc xuồng rời bến, Partridge nhìn đồng hồ: hai giờ ba mươi lăm phút sáng. Đến hai giờ năm mươi phút, khi xuồng trôi dọc sông theo hướng tây bắc, anh bảo Ken O’Hara nổ máy.
O’Hara mở van thông gió ở bình xăng phía bên trái xuồng, điều chỉnh dây le, bơm hơi đầy bình cao su hình tròn, và giật mạnh dây kéo bánh đà. Máy nổ ngay lập tức. Anh đưa máy về không tải, sau đó tiếp tục cho nổ máy thứ hai. Anh gài số cả hai máy và chiếc xuồng vọt đi.
Trời trong xanh. Ánh trăng sáng phản chiếu trên mặt nước, nên việc lái xuồng trên dòng sông khúc khuỷu tương đối dễ dàng. Fernandez hỏi: “Anh đã quyết định tới chỗ máy bay đỗ chưa?”.
Partridge cân nhắc, hình dung ra tấm bản đồ tỷ lệ lớn của Fernandez mà cho tới lúc này, anh hầu như đã thuộc lầu.
Trước hết, việc chọn rút theo đường sông không cho phép anh tới được điểm đỗ trên đường khi trước. Chỉ còn lại điểm đỗ mà bọn buôn ma tuý thường dùng, ở vào quãng giữa, đi mất khoảng một giờ rưỡi, hoặc dải đất Sion ở xa hơn, đi mất ba giờ bằng đường sông, cộng với đoạn cuốc bộ qua rừng dài chừng ba dặm, một công việc họ đã biết là rất khó khăn.
Để tới được Sion vào lúc tám giờ sáng, là lúc chiếc Cheyenne của hãng Aerolibertad đến nơi, họ chỉ có thể đến được sát giờ. Mặt khác, nếu đi đến chỗ đậu ở quãng giữa, họ có thể sớm được vài giờ, song nếu bọn chúng đuổi kịp, họ sẽ phải nổ súng, mà với số người và súng đạn ít hơn, chắc chắn họ sẽ thua.
Vì vậy con đường tốt nhất và khôn ngoan nhất có vể vẫn là vượt quãng đường xa nhất từ Nueva Esperanza đến chỗ máy bay đậu.
“Chúng ta tới Sion”, Partridge bảo những người trên xuồng. “Sau khi rời xuồng lên bờ, chúng ta sẽ phải gắng vượt rừng thật nhanh; vì vậy mọi người hãy tranh thủ nghỉ ngơi”.
Thời gian trôi qua, Jessica trở lại bình tĩnh hơn, người nàng không còn run bắn lên nữa; mồm không còn buồn nôn. Nhưng nàng không tin có thể tĩnh trí được sau những việc nàng đã làm. Chắc chắn lời cầu xin thầm thì, tuyệt vọng của Soccorro sẽ còn ám ảnh nàng mãi về sau.
Nhưng Nicky được an toàn, ít nhất cũng trong lúc này, và đó là điều quan trọng nhất.
Nàng đã quan sát Nicky, thấy rằng từ khi họ rời lán giam, nó luôn quấn quít bên cạnh Harry Partridge và chỉ cao ngang gối anh. Cứ như Harry là cục nam châm mà Nicky tìm cách dính chặt vào. Ngay cả bây giờ ở trên xuồng, nó cũng ngồi cạnh Harry rõ ràng muốn nép sát vào anh và Harry có vẻ cũng muốn như vậy. Thực ra trước đó, Harry đã quàng tay qua vai Nicky và lúc này hai người như hoà làm một.
Jessica thấy thích điều đó. Rõ ràng, trong suy nghĩ của Nicky, nàng nghĩ, Harry với vẻ như bây giờ, chính là người khác hẳn bọn xấu đã gây nên những nỗi kinh hoàng mà họ phải trải qua – Miguel, Baudelio, Gustave, Ramon… những đứa đã biết và chưa biết… đúng, cả Vicente và Soccorro nữa.
Nhưng còn hơn thế nữa. Nó chứng tỏ bản năng nhìn nhận con người của Nicky bao giờ cũng chính xác. Nàng đã từng yêu Harry, bây giờ cũng vẫn thế, nhất là khi lòng biết ơn và tình yêu quyện chặt vào nhau. Vì vậy, không có gì lạ khi con nàng theo bản năng cũng có chung tình cảm ấy.
Nicky hình như đang ngủ. Gỡ nhẹ tay ra, Partridge đến ngồi cạnh nàng. Thấy thế, Fernandez đổi chỗ ngồi qua phía bên kia để giữ cho xuồng thăng bằng.
Partridge cũng đang nhớ lại thời xua, cái thuở anh và Jessica đã sống vì nhau. Và ngay cả trong phút giây ngắn ngủi này, anh có thể thấy nàng cơ bản vẫn không thay đổi. Những gì anh hằng ngưỡng mộ ở nàng, suy nghĩ nhanh, cứng rắn, nồng hậu và tháo vát một cách thông minh, vẫn còn nguyên đó. Partridge biết, nếu anh ở lâu bên cạnh nàng, tình yêu ngày xưa của anh sẽ sống lại. Một suy nghĩ táo tợn; có điều nó sẽ không xảy ra.
Nàng quay lại nhìn, có lẽ đang đọc những suy nghĩ của anh. Anh nhớ lại những ngày xưa ấy, nàng vẫn thường làm được điều đó.
Anh hỏi: “Ở trong ấy, có bao giờ em mất hy vọng không?”.
“Cũng nhiều lúc gần như vậy, nhưng không bao giờ hoàn toàn”. Jessica trả lời. Nàng cười, nói: “Tất nhiên, nếu em biết anh phụ trách việc giải thoát cho mẹ con em, thì sự thể lại khác chứ”.
“Bọn anh gồm nhiều người”, anh bảo nàng. “Crawf cũng ở trong nhóm. Anh ấy phải chịu biết bao đau đớn, mà hai mẹ con em cũng thế. Khi về đến nơi, hai vợ chồng em đều cần đến nhau”.
Anh cảm thấy nàng hiểu ý anh muốn nói: “Mặc dù anh trở lại đời nàng trong chốc lát, nhưng rồi sẽ lại biến mất ngay”.
“Anh suy nghĩ thật tử tế, Harry ạ. Tới đây anh sẽ làm gì”.
Anh nhún vai: “Tiếp tục đưa tin. Đâu đó lại sẽ có một cuộc chiến tranh. Bao giờ chả thế!”.
“Thế còn giữa hai cuộc chiến tranh?”.
Có những câu hỏi không có câu trả lời. Anh đổi chủ đề câu chuyện: “Thằng Nicky của em tính rất hay, đúng như đứa con mà anh muốn có”.
Lẽ ra đã là như vậy, Jessica nghĩ. Giữa hai đứa mình, những năm về trước.
Không muốn nhớ lại chuyện ấy, Partridge để mình nghĩ đến Gemma và đứa con trai chưa kịp ra đời.
Anh nghe Jessica thở dài bên anh: “Ôi Harry!”.
Họ im lặng, lắng nghe tiếng máy rung nhè nhẹ và tiếng nước rào rào. Sau đó nàng đặt tay lên tay anh.
“Cám ơn anh, Harry”, nàng nói. “Cám ơn anh vì tất cả những gì anh đã làm, đang làm… anh, người yêu thương nhất của em”.
Chú thích:
1 Tôi nghĩ rằng mình đã nghe…
2 Mày làm gì…?