L-AVIV, NGÀY 14 THÁNG 5. 1948Các lãnh tụ “Trung ương” và của phong trào phục quốc Do-thái trên toàn thế giới nhóm họp trong tòa nhà của Mier Dizenff, kẻ sáng lập cũng là vị đô trưởng đầu tiên của Tel-Aviv. Ngoài đường, các quân canh trang bị tiểu liên phải khó khăn mới ngăn chặn được một đám đông đang lo âu chờ đợi.Trên toàn thể thế giới, hàng triệu người dán sát tai vào máy phát thanh để chờ nghe những lời sắp được cất lên từ tòa nhà này. Một giọng trầm của xướng ngôn viên loan báo:“Đây là Tiếng nói Israël. Chúng tôi vừa nhận được một văn kiện liên quan tới sự chấm dứt ủy trị của người Anh. Chúng tôi xin đọc...”Một bản văn khô khan, kiểu cách, không một dấu vết xúc động nào. Rồi đột nhiên giọng xướng ngôn viên thay đổi hẳn:“Xứ sở Israël là nơi của dân tộc Do-thái, là nơi đã đào tạo ra tính chất tinh thần, tôn giáo và dân tộc của Do-thái. Chính nơi này dân tộc Do-thái có thể hoàn tất được nền độc lập của mình mà sáng tạo ra một nền văn minh có tầm mức trên hoàn vũ. Chính tại nơi đây các nhà lãnh đạo chính trị và các bậc tiên tri của dân tộc Do-thái đã viết ra Thánh Kinh...“Ngày hôm nay, chúng tôi long trọng tuyên cáo sự tái sinh của Quốc gia Do-thái ở Palestine, quốc gia sẽ mang tên gọi là Israël. Mở rộng cho tất cả những người Do-thái trên toàn thế giới, Quốc gia của chúng ta sẽ hoạt động, tranh đấu để thăng tiến tất cả nhân dân theo những nguyên tắc của tự do, hòa bình và công lý đã do các bậc tiên tri công bố tự xưa kia, trong bình đẳng hoàn toàn, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo, và trong niềm kính trọng chân thật Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.“... Chúng tôi kêu gọi tất cả các nhân dân Ả-rập ở Israël, chúng tôi mời họ nhận chỗ của mình trong công cuộc phát triển Quốc gia với tư cách công dân tự do trên căn bản đại diện dân chủ trong mọi cơ cấu tổ chức của Quốc gia Israël.“Chúng tôi xin mở bàn tay thân hữu với tất cả những quốc gia láng giềng, những quốc gia mà chúng tôi hết sức mong mỏi được sống chung hòa bình.“Xác tín niềm tin của chúng ta đối với Đấng Thượng đế Toàn năng, chúng tôi đã ký bản tuyên ngôn này, với sự chấp thuận của Quốc hội Lâm thời, trên đất nước của tổ quốc chúng ta, tại châu thành Tel-Aviv, ngày thứ năm tháng Yar năm năm ngàn lẻ tám tức là ngày 14 tháng 5 năm 1948 của lịch Ki-tô giáo”.Trong các đường phố của Tel-Aviv vui mừng hân hoan, già trẻ nắm tay nhau nhẩy một điệu hora cuồng nhiệt. Họ không thể biết rằng cũng vào giờ đó, các oanh tạc cơ Ai-cập đã cất cánh để tới tiêu hủy các thành phố của họ và nhiều đạo quân Ả-rập đã vượt qua biên thùy.Dân Do-thái phải một người chống lại trăm người. Mặc dầu thế...Họ đẩy lui được quân Ả-rập đã tiến chiếm sa mạc Néguev. Họ chặn đứng được quân Syrie muốn biến hồ Tibériade thành một mare nostrum nội địa. Họ đánh bại quân Irak (nói cho thực, đạo quân này không muốn chiến đấu). Không lực của họ - lúc khởi đầu chỉ có hai chiếc Piper-Cub khốn khổ dùng vào việc tiếp tế cho các nông trường bị cô lập và ném những quả bom chế tạo thô sơ qua cửa sổ xuống đầu những toán quân không chính quy Ả-rập - đã bắn hư chiếc tuần dương hạm Ai-cập đang quay các khẩu đại pháo định bắn vào Tel-Aviv. Ngay cả đối với Liên đoàn Ả-rập vẫn chiếm đóng khu Do-thái ở Jérusalem, họ cũng cải thiện được các vị trí của mình. Bây giờ họ đã chiếm được nhiều vị trí chế ngự con đường duy nhất tiến vào thánh địa. Nhưng bất hạnh thay là khi rút quân, quân Anh đã trao lạio Liên đoàn Ả-rập đồn Latrun, một đồn đôn xây cất để chặn cứng lối vào hẻm núi Bab El Wad. Được xây cất chắc chắn, được bảo vệ bởi các Bédouin do Glubb Pacha[link=#p4_06_1](1)[/link] huấn luyện theo kiểu Anh, Latrun đã chống lại được tất cả các cuộc tấn công của Do-thái. Ít ra là tạm thời, Jérusalem vẫn bị cô lập.Còn về hải quân Israël, gồm nhiều tầu trinh sát nhỏ chạy nhanh, đã đạt được một chiến thắng khá đẹp khi chiếm được chiếc tầu hơi Vesuvius, do người Syrie thuê để chuyên chở vũ khí từ Naples về Beyrouth. Chiếc tầu hơi này vừa nhổ neo thì một tầu nhỏ mang cờ Ý đuổi theo và yêu cầu ngừng lại. Hai mươi người mặc quân phục tiến lên tầu dưới quyền chỉ huy của một người cao lớn râu hung trông rất giống, giống kỳ lạ,với Barak Ben Canaan.- Chúng tôi vừa nhận được tin có một trái bom nổ chậm đã được đặt dưới hầm tầu ông. Xin thuyền trưởng cho tập hợp tất cả thủy thủ đoàn, chúng tôi sẽ khám phá ra thủ phạm và tôi hứa thuyền trưởng là tên đó sẽ chỉ cho chúng ta chỗ giấu bom.Các thủy thủ Ả-rập phải trình diện lần lượt từng người một trong một phòng khách được đặt dưới quyền xử dụng của ông “cẩm Ý-đại-lợi”. Việc thẩm vấn kéo dài khá lâu để đủ cho chiếc tầu (mà thuyền trưởng gốc Naples là đồng lõa) ra khỏi hải phận nước Ý. Khi ấy, các cán bộ của Mossad, súng lục cầm tay, nhốt luôn thủy thủ đoàn cùng viên sĩ quan Syrie đi cùng. Chiếc tầu nhỏ trở về bờ, nhưng vài giờ sau, còn cách hải phận Palestine khá xa, quân Do-thái bắt thủy thủ đoàn xuống ca nô, cho viên hạm phó một bản đồ và địa bàn rồi cắt dây luôn. Hai mươi bốn giờ nữa, hai chiếc tầu nhỏ chạy nhanh mang hiệu cờ cướp biển truyền thống - một sọ người trên hai chiếc xương tréo - áp vào hai sườn chiếc tầu hơi, chuyển vũ khí sang cùng với toàn thể cán bộ của Mossad, rồi tiến về cảng Haïfa. Còn chiếc tầu hơi, bình tĩnh trở lại Naples để viên hạm trưởng chạy vội vào Cơ quan Phụ trách Hải vận khai rằng thủy thủ đoàn đã nổi loạn và bỏ tầu trốn đi.Ari được lệnh gọi tới Tổng hành dinh đặt tại Tel-Aviv.Tòa nhà được dùng làm Tổng hành dinh, trước được dùng làm nhà cho các gia đình thuê lại từng căn, chưa chi đã có vẻ là một Bộ Quốc Phòng thực sự. Trên mái, phất phơ bay lá cờ ngôi sao David, trước lối vào, tại tiền sảnh và các hành lang đều có các quân sĩ mặc quân phục của quân lực mới cầm tiểu liên đứng gác. Ari đi qua các phòng trong đó các cuộc hành quân được trình bầy tiến diễn theo từng giờ trên những tấm bản đồ vĩ đại trên tường. Chàng đi qua trung tâm truyền tin, nơi các máy vô tuyến và điện thoại liên lạc với tất cả các đơn vị, các phòng tuyến và nông trường trên toàn quốc. Mọi người đã xa vời Tổng hành dinh cũ của Haganah chỉ gồm có một cái bàn, vài hồ sơ và khả năng chuyên môn là dọn trụ sở cấp tốc.Chàng được Avidan tiếp - bây giờ ông đã nhường quyền chỉ huy các đơn vị cho các sĩ quan trẻ hơn để đảm nhiệm việc liên lạc giữa quân lực và chính phủ. Avidan tiếp chàng vui vẻ nồng nhiệt.- Bác rất mừng các gặp cháu. Mọi sự có thay đổi từ một năm nay, cháu thấy không? Về phần bác, bác chưa sao quen được. Lắm lúc bác vểnh tai nghe tiếng chân người ngoài hành lang mà tưởng như quân Anh trở lại và sắp ném bác vào tù ngồi.- Tin tức mới có tốt không bác?- Tốt và không tốt. Vấn đề lớn vẫn là Jérusalem, hay nói cho chính xác hơn, vấn đề đồn Latrun. Sau hết... bác cho gọi cháu về đây để yêu cầu cháu quét sạch cho xong vùng của cháu. Điều đó có nghĩa trên thực tế là cháu phải chiếm đồn Esther.Ari lắc đầu:- Cháu không thể làm được ngày nào chưa có pháo binh. Cháu đã báo cáo cho bác hay như thế rồi, cách đây không lâu. Cháu cần có ít nhất ba hay bốn khẩu Davidka.- Đòi thế thì chẳng khác đòi bác cung cấp các thoi vàng khối. Cháu muốn bác lấy những khẩu súng đó từ đâu bây giờ? Bác sẽ cố xoay cho cháu một khẩu thôi...Avidan đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.- Không phải bác chỉ muốn nói với cháu về đồn Esther mà thôi. Từ mười lăm ngày nay, cháu đã nhận được lệnh chiếm Abou Yesha. Thế mà tới giờ cháu phớt lạnh lệnh này.Ari cứng người lại, phản đối:- Với tư cách khu trưởng, cháu có thẩm quyền hơn bất cứ ai để xem xét một cuộc hành quân có là cần thiết này không.- Thôi... thôi... giữa bác với cháu, chúng ta biết nhau quá kỹ để chơi trò ú tim. Bác biết tại sao cháu do dự chiếm làng đó.- Nhưng dân làng Abou Yesha - cháu quen biết họ từ hồi nhỏ. Cháu đã đi dự đám cưới đám tang của họ. Người Do-thái chúng ta đã giúp họ xây dựng nhà cửa, và họ đã tặng chúng ta đất đai... Bác hãy tin ở cháu, họ không phải là kẻ thù của chúng ta, mà chỉ là những người nông dân chất phác chỉ muốn yên phận sống trong hòa bình mà thôi.- Bác không đồng ý với cháu. Có những làng Ả-rập từ chối không chịu cho quân Ả-rập trú ngụ. Nhưng đó không phải là trường hợp của Abou Yesha. Những kẻ mà cháu vừa hăng hái bào chữa đó đã đứng về phía chống lại chúng ta. Làng họ đã trở thành căn cứ của địch. Bác ra lệnh cho cháu phải tiêu diệt căn cứ này. Chờ đã nào, bác chưa nói hết. Cháu Ari ạ, từ mười lăm tuổi cháu đã chiến đấu rất đẹp. Chưa một lần nào bác có dịp khiển trách cháu về bất cứ một bất phục tòng nào. Và bây giờ...Ari tái mặt. Nét mặt căng thẳng, chàng buông mình xuống một chiếc ghế, nói nhỏ:- Tuân lệnh. Cháu sẽ làm điều gì bác bảo.- Cháu liên lạc với phòng hành quân. Bây giờ làm ngay đi.Ari đứng dậy, tiến về phía cửa. Avidan nói:- Suýt nữa bác quên... Kể từ ngày hôm nay, cháu là đại tá Ben Canaan.Ari thốt lên một tiếng cười ngắn ngủi, không vui. Avidan nói:- Cháu, bác rất tiếc, quả thực là bác rất tiếc.Việc chiếm đồn Esther thật quá dễ dàng dù Ari chỉ có mỗi một khẩu Davidka. Ngược lại, yếu tố bất ngờ tác dụng tối đa: đa số quân Ả-rập trong đồn ngày hôm đó đã phân tán rải rác ở các làng chung quanh. Nhóm quân còn lại trong đồn, chừng một trăm người, khẩu Davidka vừa mới bắn tung cửa thép của đồn, đã vội vã đầu hàng.Dân làng Abou Yesha nghe thấy các tiếng nổ và biết rằng sắp đến lượt họ. Ari cử một sứ giả tới làng: dân làng có hai mươi phút để rời làng, nếu không sẽ bị giết chết tại chỗ. Đứng từ trên một đồi cao, Ari nhìn những bạn bè từ thuở thiếu thời chồng chất nồi niêu quần áo lên xe lửa, ra đi hướng về phía biên thùy. Quang cảnh này làm chàng đau đớn.Sau một giờ, David lại kiếm chàng.- Anh Ari, hạn kỳ anh cho họ đã chấm dứt từ lâu rồi.- Hãy cho họ thêm một khoảng thời gian nữa.- Những kẻ nào muốn đi đã đi rồi. Chỉ còn lại Taha và chừng một trăm kẻ điên rồ nữa tưởng rằng có thể đánh lui chúng ta. Anh Ari, anh phải cho lệnh tấn công đi thôi.Ari quay đi, bước ra xa vài bước. David bước theo.- Anh có muốn tôi chỉ huy thay thế cho anh không?- Muốn chứ. Cám ơn chú.Taha và những “kẻ điên rồ” chống cự can đảm nhưng trong tuyệt vọng. Phải mang cả Davidka đến lúc đó mới diệt được những ổ kháng cự sau cùng. Ngồi gục trên đỉnh đồi, Ari muốn bịt hai tai lại để khỏi nghe thấy tiếng đạn nổ, những căn nhà xụp đổ tan tành. Đêm xuống, David trở lại gặp chàng.- Xong rồi anh. Bên phía Ả-rập không còn ai sống sót. Chúng ta thiệt hại nặng... mười bốn nam và ba nữ. Thêm chừng chục người bị thương nữa.Ari nói nhỏ:- Những dân làng khốn khổ ấy sẽ ra sao? Họ đi đâu... Kiếm ăn bằng gì?Ari đứng dậy. David nắm lấy cánh tay bạn.- Xin anh đừng đi về phía đó làm gì. Không ích gì.- Chú hãy cho tôi biết... căn nhà nhỏ trắng, gần suối...- Anh hãy cố giữ lấy hình ảnh căn nhà đó ngày xưa.Đột nhiên Ari vùng ra. Chàng ném một cái nhìn xuống các mái nhà làng, nói bằng một giọng không âm sắc.- Chú xuống làng nữa đi. Phải thanh toán cho xong. Phải phá hủy Abou Yesha.