Chín

     ào thời gian này, khu phi trường quốc tế Dulles nằm cách Washington 44 kilometres về phía Tây vẫn còn tương đối vắng lặng, thay vào đó là sự xúc động được kìm nén.
Một đường hạ cánh và một phần của bãi cất cánh đã bị chặn ngang. Những chiếc xe đi tuần và các cảnh sát viên được trang bị vũ khí đến tận răng tạo thành một vành đai chốt chặn đặc kín. Trong khu vực bị chắn nhan nhản các lực lượng bảo an bổ sung. Trong khung cảnh đó, phái đoàn tiếp đón với người cầm đầu là ông đại diện của bộ trưởng Bộ Ngoại giao gây ấn tượng thật mỏng manh yếu ớt.
Năm chiếc trực thăng đỗ sẵn sàng. Một máy bay taxi đầy tiện nghi và bốn chiếc máy bay chiến đấu của quân đội. Ai mà chẳng biết là đã có những bọn khủng bố thuê máy bay để ra tay…
- Tay này có vẻ sợ gần chết rồi đây, - lính bảo an Jo Dermot đang đứng cạnh chiếc máy bay taxi nói.
Anh bạn đồng nghiệp tóc đỏ Kevin O’Hara nhún vai.
- Sợ cũng phải thôi. Đã ba, bốn lần, đồng bào của ông ta tìm cách đưa ông ta sang bên kia thế giới.
- Một thủ lĩnh được yêu mến, đúng không?
- Yêu mến hay không thì cũng là một vị độc tài. Nếu mình không lầm thì nước Mỹ rất muốn có một căn cứ hải quân trên hòn đảo của ông ta, mà đối phương của ông ta thì phản đối quyết liệt. Hiện thời họ đang có một nền kinh tế rách tả tơi với một tỷ lệ lạm phát dựng tóc gáy.
- Thì họ phải nghiến răng bắt tay nhau mà làm việc đi chứ, khốn nạn!
O’Hara cười khẩy.
- Không được đâu. Các quan niệm quá khác nhau. Chính phủ không thèm trả lương nữa, để ngăn lạm phát. Còn đảng đối lập thì đòi ép giá cố định…
Jo Dermot những muốn tuyên bố rằng một chính phủ nảy ra sáng kiến quỵt tiền lương của bà con là thứ chính phủ đáng được đầy xuống địa ngục với quỷ, nhưng anh không có cơ hội tuyên bố, bởi chính trong phút đó thì chiếc Jet màu bạc bắt đầu xuất hiện trong tầm nhìn. Tất cả những người có mặt đều tập trung vào cú hạ cánh. Khi chiếc máy bay chạm xuống được đường băng, một tràng thở dài nhẹ nhõm lan qua cả nhóm người. Vài phút sau đó, cánh cửa bên sườn của con chim màu bạc mở ra.
Đầu tiên xuất hiện cả một đoàn những gã trai tóc đen có thân hình to cao như bò mộng và những nét mặt khắc nghiệt, có đứng cách xa hàng trăm mét người ta cũng biết ngay đó là cận vệ. Rồi sau đó xuất hiện một người đàn ông cao gầy khoảng chừng năm mươi tuổi trong một bộ quân phục màu trắng, đeo chi chít huân chương. Cả ông ta cũng có một mái tóc đen. Trên bộ mặt bì bì rám nắng nổi bật hàng ria mép rậm rì. Hai con mắt thẫm màu sâu hoắm bên dưới hàng lông mày rất rậm đảo thật nhanh một vòng. Alvaredo Markyos kiểm tra bao cảnh xung quanh với một tia nhìn có vẻ như không bỏ qua bất kỳ một chuyện nhỏ nhặt nhất nào. Thế rồi ông ta giơ tay lên vẫy và gương mặt có làn da bì bì nhành ra trong một nụ cười mím siết.
- Ít nhất thì ông ta cũng chẳng gặp chuyện gì đâu, - Jo Dermot khẳng định.
- Đúng thế, - Kevin O’Hara gật đầu. – Những biện pháp bảo an hạng nhất! Thật sự là không bỏ qua chuyện gì.
Cả hai đâu có ngờ rằng, họ đang nhầm lẫn một cách trầm trọng.
  * * *
Cú điện thoại với ban trọng án đã kết thúc.
Giờ tôi gõ khẽ xuống giá máy điện thoại, để cho nó nảy lên rồi chọn tiếp số của văn phòng FBI Washington. Cô gái tại trung tâm nối tôi trực tiếp với sếp khu vực, đây là người cầm đầu mọi mối dây trong vụ này.
Tôi báo cáo ngắn gọn.
Thắt cổ tự tử! Đó là ấn tượng đầu tiên, và không có một yếu tố nào tỏ vẻ có khả năng phủ định điều đó. Vụ này thậm chí còn gây cả ấn tượng hợp lý về mặt tâm lý. Những con người quá kỹ tính và tỉ mỉ theo kiểu mà người ta mô tả Gregory Thunes, thường có khuynh hướng phản ứng dạng “chập mạch” nếu họ thấy mình bị sa vào những tình huống có vẻ như vô lối thoát.
- Ông đã nhận được tin về những người khác chưa, thưa ông? – Tôi hỏi giọng hơi có chút hồi hộp.
Im lặng.
Một sự im lặng đầy ý nghĩa, tôi cảm nhận như vậy. Một cảm giác tê tê lành lạnh chạy rần rần trên da đầu tôi. Như có những bàn tay vô hình lạnh như băng đang tóm chặt lấy gáy.
- Dale Winnaker vừa gọi về, - vị xếp vùng chầm chậm nói. – Anh ấy đã tìm thấy Linda Higgins.
Tôi nuốt khan. Cảm giác giá lạnh bắt đầu vuốt xuống dọc sống lưng.
- Tìm thấy? – Tôi nhắc lại.
- Trong căn hộ của cô ấy. Chết rồi.
- Và… cô ấy chết vì cái gì, thưa ngài?
- Dùng heroin quá liều, Jerry. Cô ấy nghiện thuốc. Ít nhất thì trong thời gian cuối này cô ấy cũng đều đặn tiêm heroin vào người. Cái đó là chắc chắn.
Tôi cắn chặt răng xuống môi dưới, cho tới khi thấy cảm giác đau dội lên.
Heroin quá liều… Đó là cái phương pháp tự tử phổ biến nhất trong hàng ngũ những con nghiệm. “Cú bắn lớn”, họ gọi nó như thế, hay là “viên đạn Billy the Kid”, một cái chết tuyệt đối chắc chắn. Nếu Linda Higgins đã bị sa vào vụ án thuốc phiện này và thêm vào đó còn là con nghiện, thì cô ấy cũng có một động cơ rất dễ hiểu cho việc tự tử. Nhưng mặt khác, đây cũng có thể là một vụ giết người…
- Có bất kỳ một dấu hiệu nào của bạo lực không?
Tôi hỏi.
- Không, Jerry. – Rồi sau một đoạn ngưng. – Anh nghĩ đây không phải tự tử.
Tôi chần chừ.
Trong dòng suy nghĩ, tôi thoáng điểm qua các kết quả điều tra cho tới nay của chúng tôi. Mọi chi tiết đều thích hợp với nhau. Thật dễ dàng tạo dựng lại toàn vụ án. Nhưng đối với linh cảm của tôi, sao nó quá dễ dàng, sao nó quá thích hợp.
- Vâng, - tôi cứng giọng. – Tôi nghĩ rằng đây không phải là tự tử. Kể cả với Linda Higgins lẫn Gregory Thunes.
- Bằng chứng?
- Chưa có, thưa ngài! Nhưng tôi sẽ tìm thấy. Đến thăm ông Watson xong tôi sẽ gọi báo cáo ngay.
- Tốt, Jerry…
Tôi đặt máy.
Một cảm giác nôn nóng trỗi dậy, thúc bách. Tôi đã quên hỏi thời điểm chết của Linda Higgins. Gregory Thunes đã bỏ mạng từ nhiều tiếng đồng hồ rồi, điều đó rất dễ nhận ra. Nhưng sự việc ấy không nhất định phải mang một ý nghĩa nào. Rất có thể giờ đây chỉ vài giây đồng hồ thôi cũng sẽ quyết định thêm một mạng người nữa.
Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt ngang.
Tiếng rú rít dội lên từng đợt của còi xe đập thẳng vào màng tang. Tôi nhăn trán và lắng nghe tiếng nghiến của bánh xe. Ở đâu đó gần đây có một chiếc xe đang cua rất gấp. Vài giây đồng hồ sau, âm thanh ghê gớm đó câm bặt.
Chỉ với ba bước chân tôi đã đến bên cánh cửa đang mở ra ban công, nhao ra ngoài và cúi về phía trước mà không hề chạm vào hàng tay vịn làm bằng sắt đúc cầu kỳ.
Cách đó ba quãng nhà có một chiếc xe cứu thương màu trắng đang đậu sát vỉa hè. Còi đã tắt, nhưng ngọn đèn màu đỏ vẫn còn xoay xoay nhợt nhạt trong ánh mặt trời chói chang. Hai cánh cửa mở bung ra. Hai người đàn ông mặc tạp dề trắng chạy vòng xuống và mở nắp xe phía sau. Tôi nhìn thấy họ kéo một cây cáng ra ngoài. Mãi tới giây đồng hồ, suy nghĩ nối kết các sự kiện mới bật lên trong não bộ tôi.
Chiếc xe cứu thương ở phía bên kia đang đỗ chính xác trước cánh cửa vào nhà của chính trị gia James Watson, người mà tôi đang định tới gặp…
  * * *
Phil Decker vẫn còn chưa biết gì về hai vụ tự tử đó. Vì thế mà anh cũng không có lý do để thở ra nhẹ nhõm khi gặp Jonathan Willow.
Vị công chức vẫn ngồi bên bàn điểm tâm. Nhưng rõ là anh ta ăn không ngon miệng. Trên mặt bàn chỉ để một bình cà phê và một nửa quả bưởi. Willow dịch ghế mời khách ngồi, im lặng đi lấy một chiếc tách thứ hai rồi rót cà phê ra.
- Vợ tôi đã đưa con đến ở chỗ nhà họ hàng, mà bà quản gia thì đang nghỉ phép, - anh nói như xin lỗi. – Nhưng tôi rất mừng là gia đình tôi cũng chưa tới mức bị ảnh hưởng lây bởi câu chuyện trầm trọng này… - Ánh mắt anh hướng sang phía chiếc tủ ly, nơi có để một bức ảnh lồng khung. Người ta nhìn thấy trong ảnh một người phụ nữ khoảng ngoài bốn mươi tuổi với cặp mắt vui vẻ, ấm áp, hai cậu con trai sắp thành người lớn khoảng chừng mười sáu và mười tám tuổi.
- Con trai ông? – Phil hỏi.
- Anthony và Gerald. Willow thoáng mỉm cười, nhưng rồi lại lập nghiêm ngay lập tức. – Ông cứ nói thẳng ra đi, ông Decker. Sự xuất hiện của ông trong nhà tôi chỉ có một lý do thôi, đúng không? Rằng đã có một sự nghi ngờ về tôi, ý tôi nói vậy.
Phil uống một ngụm cà phe. Việc anh không cảm thấy ngon miệng chắc chắn không phải vì cà phê thiếu chất lượng.
- Cô thư ký của ông đã bị giết, ông Willow, - anh bình tĩnh nói.
Mái đầu Jonathann Willow giật mạnh lên.
- Marilyn? Nhưng mà… nhưng… không thể có chuyện đó được!
- Đáng tiếc, đó là sự thật, ông Willow. Và mọi triệu chứng đều trỏ về hướng rằng có kẻ đã giết cô ấy để ngăn cô ấy khai ra…
Bằng những lời lẽ ngắn gọn, Phil báo cáo lại việc đã xảy ra.
Jonathan Willow lắng nghe. Im lặng. Nhưng mặt anh trắng nhợt, và trong hai con mắt màu xám xuất hiện một vẻ kinh hoàng mà người ngồi đối diện nhận thấy rõ đây không phải là đóng kịch.
Im lặng trong một phút đồng hồ tưởng như dài vô tận.
Chính trị gia lấy hơi thật sâu rồi căng người lên. Trên gương mặt nhợt nhạt có một cái cơ giật giật. Chầm chậm, anh ta lắc đầu.
- Chuyện thật khủng khiếp, - anh ta vất vả nói. – Về phần tôi thì bản cáo buộc đó hoàn toàn là dối trá, từ chữ thứ nhất cho tới chứ cuối cùng. Hoàn toàn là chuyện bịa đặt, ông hiểu không, tôi thật sự không hiểu! Tôi không hiểu tại sao Marilyn lại làm như vậy!
- Ông hiểu cô ấy có rõ không?
Willow nhún vai.
- Chắc là không đủ rõ, - anh nói khẽ. – Tôi đánh giá cô ấy là một nữ nhân viên tốt, trung thành và ngoài ra còn là một phụ nữ trẻ tuổi, rất dễ gây thiện cảm. – Người đàn ông ngưng lại và mím chặt môi. – Nếu ông muốn nói đến những quan hệ riêng tư, thì chắc là tôi phải khiến ông thất vọng. Không có, hoàn toàn không có quan hệ giữa Marilyn và tôi, thậm chí một sự quen biết riêng tư hời hợt cũng không. Chúng tôi chỉ gặp nhau ngoài văn phòng có hai lần. Một lần vì cả hai tình cờ mà cùng đến ăn trưa trong một quán. Lần thứ hai tôi bị ốm mà lại phải gửi gấp một vài lá thư. Marilyn vì thế đã đến nhà tôi, với sự có mặt của vợ tôi cùng đứa con trai nhỏ và bà quản gia.
- Tốt, - Phil bình tĩnh nói. – Ông cũng phủ định đã có lần nào đó sử dụng heroin
- Chắc chắn thế! Tôi phủ định hoàn toàn.
- Điều đó có nghĩa là nếu khám bệnh cho ông thì bác sĩ sẽ không nhận thấy những vết kim?
Hai mí mắt Willow mở lớn.
- Vết kim? – Anh ta nhắc lại.
- Những vết kim tiêm, heroin được tiêm thẳng vào ven, chắc là ông cũng biết như thế.
Làn môi Jonathan Willow giật giật.
Anh lấy hơi thật sâu. Im lặng, anh ta cởi áo veston ra, xắn ống tay của chiếc sơ-mi màu trắng lên và chỉ vào những chấm đỏ nhỏ trong hõm khuỷu tay.
- Cả ở cánh tay bên kia tôi cũng có, anh mím môi nói. – Ngoài heroin ra còn biết bao nhiêu thứ thuốc khác cần phải được tiêm vào ven, chắc ông cũng biết. Ví dụ như tôi trong thời gian vừa qua, mỗi ngày phải được tiêm một mũi để hỗ trợ hệ toàn hoàn.
- Với bác sĩ tư?
- Với bác sĩ tư. – Willow khẳng định.
Chỉ trong một cử chỉ ngắn gọn, người đàn ông gạt phăng chiếc ghế về phía sau rồi vuốt ông tay áo xuống và khoác lại áo veston. Dù giọng nói đã khản xuống trong vẻ cay đắng nhưng Jonathan Willow vẫn gắng tự chủ.
- Cũng may mà người ta có thể kiểm tra nồng độ heroin trong máu, - anh bình tĩnh nói. – Tôi yêu cầu được đưa đến trụ sở FBI ngay lập tức và được một bác sĩ FBI khám sức khỏe…
  * * *
Tôi chạy vọt đi, cắt ngang qua làn đường.
Một vài người tò mò đã đứng lại và quan sát cánh cửa mở rộng của tòa biệt thự. Phía trước ngôi nhà chỉ có một khoảng vườn nhỏ, hoa uất kim cương và thủy tiên vàng đang nở dày đặc. Một hàng rào làm bằng sắt đúc rất cầu kỳ bay bướm bao quanh khuôn viên. Cánh cổng cũng mở rộng. Khi tôi chạy tới đó thì hai người đàn ông khiêng cáng cũng vừa xuất hiện trên bậc thềm.
Người đàn ông mà họ đang mang đi được đắp một tấm vải trắng kéo đến tận cằm.
Ông ta đã bị ngất. Nhưng kể cả trong trạng thái ngất, ông ta vẫn còn rên rỉ và van nài, co dúm lại rồi thỉnh thoảng lại giật đầu sang trái, sang phải. Con ngươi đảo dữ dội bên dưới mí mắt khép chặt. Gương mặt phủ đầy một lớp mồ hôi rất dày giờ đã đổi màu vàng xanh và nhăn nhúm đến phát sợ. Nhưng tôi nhận ra ông ta ngay lập tức.
James Watson.
Tôi đã linh cảm thấy chuyện này và giờ sa sẩm như bị giáng đòn vào đầu. Thật nhanh tôi bước thẳng đến chỗ hai người khiêng cáng và mở ví chứa thẻ công vụ màu vàng-xanh.
- Trời ơi! Ông không thấy là… - anh hộ lý sốt ruột kêu lên.
- Tôi không muốn ngăn bước các ông. Chỉ xin hãy cho tôi biết các ông đưa ông Watson vào bệnh viện nào.
- Bệnh viện trường đại học tổng hợp George Washington.
Người khiêng cáng vừa lẹ bước vừa ngoảnh cổ nói lại qua bờ vai. Tôi nhìn thấy họ nhanh nhẹn đẩy cáng vào trong xe cứu thương. Một người mặc tạp dề trắng leo lên và đóng nắp đuôi xe lai. Người khác chạy quanh xe, đến cabin người lái.
Khi xoay lại, tôi thấy một nguời đàn ông cao gầy đang đứng trong khuôn cửa mở của tòa biệt thự.
Ông ta mặc một bộ complet sang trọng màu xám bạc với áo sơ-mi cổ cao rất hợp thời trnag. Quanh cổ có đeo một chiếc ống nghe. Bác sĩ tư, tôi đoán vậy. Nếu là nhân viên bệnh viện, chắc chắn ông ta đã đi cùng xe cứu thương. Tôi bước về phía ông ta và chìa thẻ công vụ mà tôi vẫn còn cầm trong tay.
- FBI. Tên tôi là Jerry Cotton.
Người đàn ông gầy mảnh khẽ giật mình.
Một vài lọn tóc màu vàng sẫm được chau chuốt hết mực đang ẩm ướt phủ xuống vầng trán. Dù đã hơi ngả màu bợt bạc nhưng làn da rám nắng vẫn chỉ ra một kỳ nghỉ mới đây dưới miền nam đầy ánh nắng.
- Mortimer, - ông ta tự giới thiệu. – Sheldon Mortimer. Tôi là bác sĩ của ông Watson.
- Ta có thể vào trong nhà chứ? – Tôi hỏi.
Ông ta có vẻ chần chừ. Tôi có thể chìa lệnh khám nhà, nhưng tôi muốn né tránh việc đó trong chừng mực có thể. Tôi linh cảm rằng, làm như thế thì vị bác sĩ sẽ ngay lập tức bám vào nghĩa vụ im lặng của nghề mình. Ánh mắt ông ta lướt về phía những người tò mò vẫn còn đang đứng trước lớp hàng rào bằng sắt đúc, rồi cuối cùng có vẻ như ông ta đang tự nhủ rằng không nên gây thêm nhiều chuyện xôn xao nữa để bảo vệ cho quyền lợi của bệnh nhân.
Người đàn ông im lặng xoay đi và bước vào sảnh, một khuôn sảnh bọc gỗ gây ấn tượng sang trọng phảng phất vẻ u tối với những tấm thảm trải và treo tường vô giá của miền Viễn Đông. Tôi đóng cửa lại sau lưng mình. Qua cánh cửa kính đang để mở dẫn sang phòng khách, tôi nhìn thấy một chiếc tủ nhỏ làm bằng gỗ sồi chạm trổ rất tinh vi. Máy điện thoại để trên đó. Ống nghe thò lủng lẳng xuống dưới.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông Watson vậy? – Tôi hỏi thẳng vào vấn đề.
Tiến sĩ Mortimer cắn cắn môi. Hai con mắt màu nâu của ông, bình thường chắc chắn rất quen với việc xoa dịu những bệnh nhân hốt hoảng, sao giờ lại gây ấn tượng bối rối.
- Là bác sĩ của ông Watson…, - ông ta bắt đầu.
- Tôi hiểu rõ nghĩa vụ im lặng của nghề bác sĩ, tiến sĩ Mortimer. – Vừa giải thích tôi vừa cảm nhận rất rõ cái quyết tâm không nói một lời nào trong con người đối diện.
Vì thế mà tôi bắt buộc phải đưa ra những thứ vũ khí nặng ký hơn.
- Nhưng nếu ông từ chối giúp đỡ tôi, thì bất kỳ lúc nào tôi cũng có khả năng nhờ vào lệnh của tòa án mà đưa một bác sĩ cảnh sát đến khám cho ông Watson. Nếu ông cộng tác, ông có thể bớt cho chúng tôi rất nhiều công việc. Việc ông Watson đang có những triệu chứng bị đầu độc trầm trọng thì kể cả người không biết chữ cũng nhìn rõ. Câu hỏi của tôi chỉ là, liệu ông ấy có vừa định tự tử hay không?
Sheldon Mortimer vặn hai bàn tay vào nhau.
- Cái đó tôi không biết, - ông ta vất vả nói từng lời. – Ông phải hiểu rằng… tôi… tôi không thể cho ông biết rõ về việc này… ở trong nhà của ông Watson.
- Tôi có lệnh khám nhà.
Im lặng, tôi rút mảnh giấy đó ra khỏi túi áo. Làn da của Tiến sĩ Mortimer nhợt nhạt hơn một chút nữa. Ông ta gắng gỏi nuốt khan.
- Nhưng mà… Tôi không hiểu…
- Ông sẽ hiểu rằng ngay cả tôi cũng có một nghĩa vụ im lặng nhất định. Như đã nói, tôi đủ khả năng xoay ra những thông tin cần thiết bằng con đường khác. Hãy trả lời chỉ một câu hỏi của tôi thôi, tiến sĩ Mortimer! Ông Watson có gọi điện cho ông không?
- Có, ông ấy có gọi.
- Ông có thể thuật lại cho tôi nghe kỹ hơn không?
- Vâng, ông ấy gọi đến phòng mạch. Cô trực điện thoại có cảm giác là sức khỏe ông ấy rất tệ. Ông ấy xưng tên và yêu cầu tôi đến ngay lập tức.
- Ông ấy có nói là ông ấy bị bệnh gì không?
- Không… điều đó có nghĩa… cô trực điện thoại nói là, ông ấy có lắp bắp vài lần rằng ‘tôi chết mất’.
- Cô ấy chắc chắn chứ?
- Vâng… vâng, tôi tin thế.
Những suy nghĩ quay cuồng như trong cơn bão lớn. Watson đã sợ chết. Mới đây tôi còn rất tin chắc rằng cú gọi điện thoại cho bác sĩ tư sẽ loại trừ khả năng tự tử. Nhưng dĩ nhiên cũng có khả năng là James Watson đã uống một thứ thuốc độc nào đó, để rồi sau đó bản năng sinh tồn đã lại chiến thắng trong những giây cuối cùng.
- Làm sao mà ông lại nghĩ đến khả năng tự tử? – Vị bác sĩ thẫn thờ hỏi.
- Chúng tôi đang điều tra một vài vụ tự tử thiếu rõ ràng khác, tiến sĩ Mortimer. Họ đều là bạn đồng nghiệp và những người quen của ông Watson. Tôi vừa muốn tới thăm ông ấy thì xe cứu thương đã tới trước.
Có một sợi thần kinh giật giật ở phía thái dương Sheldon Mortimer.
- Ông có thể… ông có thể nêu tên họ cho tôi biết không?
- Đáng tiếc, tôi không có quyền làm chuyện đó.
Vị bác sĩ chỉ gật đầu. Dùng cùi tay, ông ta quệt mồ hôi trán. Tôi có cảm giác là toàn bộ câu chuyện này đang khiến cho ông ta đau đớn đến quá mức bình thường.
- Cho tôi xin lỗi một lát, ông ta lẩm bẩm. – Tôi… phải uống một cốc nước…
Ông ta biến vào đằng sau một cánh cửa, tôi đoán phía sau đó là phòng tắm.
Tiếng nước chảy ra từ vòi. Rồi một tiếng lanh canh khe khẽ. Bản năng đẩy tôi đứng dậy, gạt sang bên mọi qui định của phép lịch sự, kín đáo và bước thẳng vào buồng tắm chỉ sau một tiếng gõ cửa nhỏ.
Cánh cửa tủ thuốc mở toang.
Cái đầu của Tiến sĩ Mortimer giật phắt về, thế rồi ông vất vả mỉm cười.
- Xin lỗi. Nhưng tôi muốn kiểm tra xem liệu có một thứ thuốc an thần…
- Nếu có thể, thì ông không nên làm chuyện đó. Ông cũng hiểu là trong một vụ như thế này, chúng tôi sẽ phải kiểm tra tủ thuốc đặc biệt kỹ lưỡng.
- Tôi không nghĩ tới điều đó… giờ đây, thôi… thế thì tôi sẽ không chạm tới nó nữa. Giờ tôi đi được chưa? Đang có bệnh nhân chờ tôi.
Tôi không có lý do để giữ ông ta ở lại.
Lần thứ hai trong cùng một ngày trời, tôi quấn khăn quanh những ngón tay để gõ vào máy điện thoại gọi cho ban trọng án. Họ cũng chịu trách nhiệm về những vụ tự tử, nói chung là cho tất cả những cái chết trái tự nhiên, và ở đây là một lần tìm cách tự tử. Ít nhất thì vẻ ngoài trông cũng như vậy, mặc dù thật ra tôi tin đó là một chuyện hoàn toàn khác.
Đối với một tay chuyên nghề, chuyện dàn cảnh cho giống một vụ tự tử thật ra không phải việc khó.
Nhưng ai cũng có lần phạm sai lầm. Không có một vụ giết người nào là hoàn hảo. Lịch sử ngành khoa học hình sự đã chứng minh rất hùng hồn chân lý này. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng các chuyên gia điều tra dấu vết sẽ tìm thấy điều gì đó.