Mở đầu
"Có những bí mật không cho
phép được
tiết lộ ... Hỡi ôi, đôi khi lương tâm con người
đặt lên
anh một gánh nặng tràn đầy kinh hăi
đến nỗi chỉ có thể trút bỏ nó xuống
mồ. Cho
nên bản chất của mọi tội ác vẫn là điều bí mật"
Edgard Poe
Vào sáng sớm, chuông gọi cửa vang lên trong căn hộ Moscow của tôi. Trong nhà,
ngoài tôi ra, không có ai cả. Tôi bực dọc đứng dậy rời bàn viết và tiến ra mở
cửa.
ở đầu cầu thang, trong bóng tối lờ mờ của buổi sớm ảm đạm là một phụ
nữ với cái túi xách to bằng da màu đen trong tay. Khuôn mặt bà gầy g̣, má hóp
sâu và đôi mắt u uẩn đã khóc nhiều. Người phụ nữ lạ khoác chiếc bành tô ngắn với
đai thắt bằng da, cổ áo và cổ tay cũng làm bằng thứ da mềm màu đen. Bà đi đôi
ủng cao đến đầu gối, ống rất hẹp, bằng da thuộc. Một đám mây đặc vô hình của
loại nước hoa ngoại nào đó bao quanh bà.
- Bà hỏi ai? - Tôi hỏi.
-
Chào ông. Ông hẳn là không nhận ra tôi?
Bà nói tiếng Nga với một chút
giọng lơ lớ, phải tinh ư lắm mới nhận ra. Bà không xướng họ, cũng chẳng gọi tên
tôi. Tôi nhìn vị khách buổi sớm này và vắt óc để nhớ xem tôi đã gặp bà ở đâu và
vào lúc nào.
- Ông không nhận ra tôi cũng dễ hiểu thôi, - người phụ nữ
vận đồ đen nói. - chúng ta gặp nhau kể cũng đã hơn mười năm rồi. Và cũng chẳng
phải chỉ tại thời gian ...
Chúng tôi vào pḥng ngoài. Tôi đỡ lấy chiếc áo
bành tô của bà và đẩy cửa vào căn pḥng to, rộng, sáng sủa.
- Xin mời bà
vào !
Tôi nhìn kỹ bà khách dưới ánh sáng tự nhiên ban ngày và cảm thấy có
lẽ mình đang dần dần đoán ra. Chẳng lẽ đó lại là Velga Rudolfopna, mẹ của anh
bạn quen người Mỹ của tôi là Serge? Tôi đã gặp anh ở nơi xa lắc xa lơ đối với
Moscow, ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng vào hồi đó Velga Rudolfopna đang độ xuân
sắc, hoạt bát, căng nhựa sống. Hồi ấy bước đi của bà c̣n uyển chuyển, duyên
dáng, trang phục của bà c̣n trắng và mỏng lướt như của cô dâu. Bây giờ bà bị cùm
trong bộ đồ đen.
Nỗi bất hạnh nào đã giáng xuống người đàn bà Mỹ vốn hạnh
phúc kia? Bà để tang ai đó ?
Bà ngồi khuỵu xuống mép đi-văng, kéo cái gạt
tành lại phía mình, rồi rút bao thuốc lá ra, bà hút và nhả khói thật sâu như
những tay sành nghiện vẫn làm.
- Ông nhớ rồi chứ ?...
- Vâng, thưa
bà Velga Rudolfopna ! Rất hân hạnh được gặp bà. Số phận nào run rủi ở chính ngay
Moscow này? Bà không có ư định đến đây, bà vẫn nói thế cơ mà.
- Vâng, tôi
vẫn nói thế. Nhưng kể từ hồi đó đã biết bao nhiêu thay đổi. Tôi c̣n lại có một
mình. Tôi mất hết người thân rồi.
- Chồng bà đã mất ?
- Thằng
Serge nhà tôi không c̣n nữa. Người ta giết nó rồi.
- Khi nào vậy? Ai
giết?
- FBI đâm bất lực trong những trường hợp như thế. Hung thủ cho đến
giờ vẫn chưa t́m ra. Cái nước Mỹ đáng nguyền rủa của Hoover!(1) Tôi sẽ không trở
về đấy nữa.
- Đầu đuôi câu chuyện ấy ra sao, thưa bà? ở đâu ạ?
- ở
Niagara Falls. Ông c̣n nhớ cái thành phố nhỏ ấy?
- Tôi c̣n nhớ lắm chứ!
Serge yêu thác Niagara lắm mà.
- Vâng, nó yêu lắm. Trong chuyến đi
Niagara cuối cùng, nó có đến chỗ tôi và để lại những ghi chép của nó.
Bà
nhấc cái túi to màu đen đang nằm trên sàn, dưới chân mình, lấy ra quyển vở dày
và chìa cho tôi.
- Đấy! Ông đọc đi, rồi ông sẽ rơ tất cả.
Tôi cầm
lấy quyển vở. Tôi có cảm giác nó nặng như cục chì.
- Serge bảo tôi chuyển
cho ông nhật kư của nó, nếu như có sự gì xảy ra với nó.
- Anh ấy đã thấy
trước được cái chết của mình?
- Nó lúc nào cũng trong ṿng nguy hiểm.
Công việc của nó như thế. Tôi nhận được tin ngay sau khi nó chết. Có kẻ gọi dây
nói cho tôi và bảo: "Con trai bà đã nhảyxuống vực Niagara". Cái giả thuyết dối
trá đó được báo chí và cảnh sát vơ lấy. Serge yêu đời, nó không thể tự tử được.
Người ta đã giết nó. Giọng của kẻ gọi dây nói cho tôi run run v́ một nỗi vui
sướng khó t́m. Không hiểu v́ sao mà tôi chưa mất trí. Tôi chạy ra khỏi nhà, nhảy
lên ô tô và phóng đi. Có đến cả trăm lần tôi suưt chẹt chết người. Cả trăm lần
tôi có thể bị tan xác. Cảnh sát giao thông đuổi theo tôi. Thế mà tôi đã kịp đến!
Người ta đã lôi Serge lên khỏi vực, nhưng chưa đem đi. Nó nằm ngay gần thang máy
của thác. Trên người nó c̣n đôi giày rách nát, cái quần cũ, cái áo khoác da
thuộc, những miếng vá ở khuỷu tay và cái áo sơ-mi thắng có cà vạt kiểu Nga,
chính cái mà ông đã tặng nó khi đến thăm gia đ́nh tôi. Ông c̣n nhớ chứ?
Velga Rudolfopna hút sang điếu thuốc mới. Nhưng bà quẳng nó ngay lập tức và khóc
oà lên.
Sau một lúc, đã hơi bình tâm lại, bà lấy từ túi xách ra chiếc
phong bì to, hẹp:
- Cái này dính liền với ghi chép của nó đấy.
Bà
lại khóc. Rồi lau nước mắt, bằng một giọng nhỏ nhẹ, chậm răi khi dịch ra tiếng
Nga, bà đọc lá thư cuối cùng của con trai, có lẽ được viết ra vài giờ trước khi
chết:
- "Mẹ thân yêu ơi, người bạn duy nhất của con! Con viết pḥng
trường hợp bất trắc, nếu có tai ương gì xảy ra với con. Tính mệnh co đang trên
sợi tóc. Con có thể bị trừng phạt v́ muốn kể cho mọi người sự thật về Ha-tơ và
bè đảng của lăo ta.
Ngay với mẹ, con cũng chưa nói gì về ư định của mình.
Con không thể làm khác được. Tha lỗi cho con nhé, mẹ thân yêu. Chuốc lấy lo âu
và mạo hiểm, con đã chơi trò đi săn nguy hiểm và đã quay về với "mảng da đầu của
ông Bạc tỉ" trong tay. Mảng da đầu của Hunt là những ghi chép của con về những
trò kinh doanh bí mật của lăo ta, về những món tiền đẫm máu và bẩn thỉu, về
những cái ṿi thấy được và không thấy được vươn ra từ lăo ta đến Nhà trắng,
Capitol, Lầu Năm góc.
Những ghi chép này hình thành theo những dấu vết
c̣n nóng hổi của các sự kiện, phần lớn là theo những cảm tưởng trực tiếp. Con
chưa có dịp chọn lựa một cách bình thản những sự kiện thiết yếu nhất. Giá như
con có thêm dù chỉ một tháng nữa, con sẽ sắp xếp lại, bổ sung cuốn sách bằng
những tài liệt sau chót, vạch mặt đến tận cùng bọn chó chết hút máu người khác
không tanh ở Lầu Năm góc. Hỡi ôi! Con thấp thỏm từng khoảnh khắc, khi mà bọn
giết người được phái đến sẽ giật bút khỏi tay con.
Con đã quen với ư
nghĩ, rằng có thể phải đem đời mình ra trả giá cho dự định vạch bộ mặt thật của
những kẻ quyền thế của thế gian này. Sự lựa chọn được làm có ư thức. Con không
sợ chết. Con chỉ sợ một điều: Không làm được ư tưởng của mình. Mẹ ơi, giúp con
nhé! Mẹ hăy gìn giữ bản thảo này. Bằng mọi giá, hăy chuyển nó cho... Mẹ cũng
biết là cho ai rồi... Cho những người có thể đăng được nó.
Mẹ hăy nói cho
những người bạn của mẹ con mình là con đã cố nói rất ít về mình, nhất là sau
những phát súng ở Dallas, bởi v́ con không viết tiểu sử bản thân mình. Nhân vật
chính của sách là lối sống Mỹ, sự tôn sùng đồng tiền, tôn sùng bạo lực và lăng
mạ con người, sự tôn sùng thói nô lệ được ngụy trang lẫn công khai, và tôn sùng
chém giết v́ đồng tiền"
Velga Rudolfopna im lặng hồi lâu để lấy lại sức,
bà lại hút thuốc và tiếp tục đọc:
- "Con viết nốt ḍng này dưới ánh sáng
của một ngày mới bắt đầu. Con ngồi bên cửa sổ và xem những bông tuyết lễ Giáng
sinh to hạt đang rắc xuống và làm trắng dần thảm cỏ xanh, bụi cây xén và mặt
đường nhựa đen. Ông già Noel bằng vải vụn gác lối ra vào đã bạc trắng và nghiêm
nghị ra. Cây cối bất động. Không có bóng người. Không có một dấu vết nào trên
tuyết mới. Một chú chim đã chuyền cành, tỉa tót bộ lông sặc sỡ và líu lo điệu
hót vui tươi. Thế gian quả là đẹp trong giây phút bừng tỉnh. Con càng cảm thấy
sâu sắc hơn bao gờ hết tuổi xuân của mình. Con muốn nghe tiếng gầm của Niagara.
Con muốn đón mặt trời mọc ở đâu đó trên núi Đá tảng. Con muốn bước dọc những cồn
cát Nevada. Con muốn cưỡi con Mustang suốt nước Mỹ từ Chicago đến Los Angles.
Nhưng hơn thế nữa, con muốn cảm thấy mình là một con người chân chính, không
thuộc quyền của cả Lầu Năm góc, cả ông Bạc tỉ, cả bọn tay chân của lăo ta. Làm
kẻ bợ đỡ cho những ḥm tiền quả không thể nào chịu nổi. Thà vung gươm với kẻ
thù, c̣n hơn đợi đ̣n đánh hậu đểu cáng của hắn.
Trên con đường trắng từ
phía thành phố, đã hiện ra chiếc ô tô đầu tiên. Để lại sau mình vết đen, nó lăn
bánh thẳng tới căn nhà của con và dừng lại. Cửa trước của chiếc Mercuries mở
toangra, một người vạm vỡ, cao to trong chiếc áo da cổ lông nhảy xuống đấy phủ
đầy tuyết. Hắn là ai? Nhân viên Cục điều tra liên bang? Tên côn đồ trong đội
tành hình "Phụng sự thánh thần" của Batistini? Hay là kẻ đặc biệt tâm phúc của
Marker Trán to?
Thôi, có lẽ là hết. Con nhét bản thảo và lá thư cho mẹ
vào chỗ bí mật.
Mọi sự đã qua rồi! Người áo da kia hoá ra là người đưa
điện báo đêm. Anh đem đến bức điện cấp tốc của mẹ chúc mừng con ngày lễ Giáng
sinh.
Cám ơn mẹ âu yếm. Trong ḷng con thanh thản quá. Con cất bức điện
vào túi gần nơi tim, và lên đường đến chỗ mẹ đón lễ Giáng sinh, rồi sau đó đến
thác nước. Ôi, nếu con hoàn thành nổi việc này!
Để đề pḥng mọi sự, một
lần nữa xin vĩnh biệt mẹ! Mẹ hăy sống thật lâu, thật lâu vào nhé. Chúc cho đời
mẹ thấy được cảnh chém giết chấm dứt ở nước ta, ở Việt Nam và trên toàn thế
giới. Mong sao cho những tổng thống xa lạ với dân chúng, dù là hiện diện hay
tàng hình sẽ không lọt vào Nhà trắng nữa. Mong sao những chính phủ do dân và v́
dân (2) ở nước ta được thiết lập.
Serge của mẹ
Niagara Falls,
sáng 25 tháng chạp 1963.
------------
(1) Giám đốc FBI thời đó.
(2) Lấy ư câu nói nổi tiếng của Lincol "Chính phủ của dân, do dân và v́ dân"
trong lời phát biểu tại nghĩa trang liệt sĩ Getisbert (Get-ti-xbớt) năm 1863.
Phần Một
"Tuyệt Mật"
Thế
là đã quyết: tôi lên đường săn đuổi mảng da đầu của ngài Bạc Tỷ. Trong tay tôi
không phải là khẩu súng săn có thước ngắm, cũng không phải là khẩu súng tự động
Browning, mà là ng̣i bút bình thường. Tôi có ư định viết mọi sự thật mà tôi nắm
được.
Chẳng cần kể lể dài ḍng, do những nguyên nhân nào mà tôi đi đến
quyết định này và làm điều đó khó khăn đến thế nào. Tôi không viết bản xưng tội.
Nhân vật chính của bản thảo này không phải là tác giả của nó, mà là lối sống
khét tiếng của chúng ta.
Trước tiên có vài lời dẫn giải về tôi, Serge
Bruce.
Sinh ra ở New York khoảng ba mươi năm trước. Được đặt tên là Serge
để tỏ ḷng yêu kính ông nội, gốc Pháp. Bố chết khi tôi c̣n nhỏ. Mẹ là người di
cư từ Latvia, đã tái giá và cư ngụ ở vùng lân cận thác Niagara, trong nhà của
John Bruce, một nhà kinh doanh lớn. Tôi lớn lên ở đó. đã tốt nghiệp Đại học Tổng
hợp Harvard. Có bằng cử nhân văn chương. Chưa vợ. Trong nước Mỹ làm ăn, tôi nổi
tiếng v́ là tác giả của các tác phẩm bán chạy nhất: "Thời thơ ấu và thanh xuân
của một tỷ phú tương lai", "Nhà kinh doanh Harold Hunt". Sách hợp khẩu vị những
kẻ đặt hàng, nên hắn đã mời tôi về làm việc với tư cách là "ng̣i bút riêng",
tổng biên tập báo "Texas Sun".
Đám kinh doanh coi tôi là người của giới
mình. Các văn sĩ và kư giả độc lập có tài thì khinh bỉ, gọi tôi là bầy tôi trung
thành của đế chế Hunt. Bọn bất tài và cầu danh lợi thì ghen tỵ với thành tích
của tôi. Cả hai loại người đều không hiểu tôi thật sự.
Như thường lệ,
ngày làm việc của tôi bắt đầu không phải ở ṭa soạn "Texas Sun", nơi mà tôi đáng
lẽ phải có mặt trên cương vị tổng biên tập, mà ở nơi an tọa riêng của một trong
những dinh cơ của Hunt: ở Dallas, Wasington, New York, băi biển Miami, ở Niagara
Falls hay trên đảo Los Palmost.
Mỗi buổi sáng lăo Bạc tỉ cho gọi tôi vào:
lăo muốn nghe tin tức mới, đọc cho viết những thư từ giao dịch quan trọng nhất,
theo quan điểm lăo ta, vào lúc đầu óc c̣n sảng khoái, mạn đàm những vấn đề hóc
buá v.v...
Chúng tôi hiếm khi ngồi lâu một chỗ. Trong năm, nhất là những
khi thời tiết thay đổi đột ngột, chúng tôi lại chuyển đến ở những nơi thường ấm
áp ôn hoà hay mát mẻ phải mức. Hiện giờ Texas đang đẹp trời, nên chúng tôi sống
ở Dallas.
Cái ngày, khi tôi quyết định bắt đầu cuốn sách của mình, c̣n
ghi nhớ trong tôi. Thường thì tôi tránh tự ư tḥ mặt ra trước cặp mắt Hunt, tức
là những khi không có lời mời đặc biệt. Đúng tám giờ sáng hay muộn hơn một tư,
khi tôi đã kịp liếc qua các tờ báo lớn buổi sáng, phân loại tin tức thế giới ra
loại đặc biệt quan trọng và quan trọng vừa vừa, thì trong pḥng tôi vang lên
tiếng chuông điện thoại và Hunt gọi tôi lên tần hai, nơi lăo sống cô đơn một
mình, và là nơi có những cửa sổ chấn song và cửa lên bằng những tấm vật liệu đạn
xuyên không thủng.
Tin hôm nay quan trọng đến nỗi tôi dám vi phạm cái
trật tự quy củ từ lâu và không đợi được gọi, tôi lao lên cầu thang với xấp báo
số ra đặc biệt trong tay. Tôi chắc rằng sự đột nhập của tôi sẽ chẳng gây cho
Hunt, sau khi lăo biết mọi chuyện, một sự cáu kỉnh hay ngạc nhiên nào. Sự việc
diễn ra đúng như vậy.
Dù đêm qua Hunt không ngon giấc, dù lăo có khó ở đi
chăng nữa, dù có những lo toan đề nặng lên lăo, dù lăo có vội vă công việc đến
thế nào đi nữa, lăo không bao giờ quên lăng thái độ cư xử với tôi. Lúc nào cũng
nhấn sự chú ư, chào hỏi đôn hậu. đã có thời bằng cái đó lăo đã chinh phục được
tôi. Lúc này đây, lăo bước ra đón tôi, chìa tay và mỉm cười:
- Chào tôn
ông.
Tôi chẳng nhớ kể từ khi nào và tại sao lăo lại gọi tôi như vậy. Dĩ
nhiên tôi chẳng là tôn ông tôn iếc gì cả.
- Nào, có gì vậy?
Lăo
thường bắt đầu ngày làm việc với tôi bằng những lời như thế. Hôm qua, hôm kia đã
như thế, ngày mai cũng sẽ như thế. Nhưng hôm nay, trong lời nói của lăo, tôi cảm
thấy có cái gì khác thường trọng thể nào đó mà hôm qua không thấy có và có thể
ngày mai sẽ không gặp. Vẻ mặt lăo thật đặc biệt. C̣n giọng nói cất lên hân hoan.
"Lăo biết hết rồi" - Tôi nghĩ và bắt tay vào nhiệm vụ của mình mà nỗi hưng phấn
đã chìm đi rơ rệt. Tôi thông báo một cách hết sức vắn tắt những gì mà ở các báo
"New York Time", "Wasington Post" và cả các báo khác phải chiếm đến vài trang.
- ở Sài G̣n, - tôi nói,- đã xảy ra đảo chính. Một hội đồng tướng lĩnh đã chiếm
được quyền lực. Tổng thống Diệm và giám đốc mật vụ Nhu bị bọn lính mang súng tự
động giết chết khi định chạy trốn khỏi dinh tổng thống bị bao vây.
Lăo
nghe tôi nói và gật đầu:
- Vâng, thưa tôn ông, tôi đã biết mọi chuyệt từ
vài giờ trước. Bạn bè tôi ở Langley đã gọi dây nói cho tôi. Tôi đã có thì giờ
nghiền ngẫm sự kiện này. Nên anh đừng ngạc nhiên trước sự bình thản của tôi.
Nào đâu là bình thản! Hunt, tay chơi poker máu mê, biết che dấu một cách tài
t́nh những t́nh cảm và ư nghĩ của mình ngay cả đối với những kẻ thân cận, vậy mà
cũng không ḱm được nữa. Cả người toát lên sự vui sướng, lăo cười hết cỡ và hỏi:
- Nào, thế báo chí của ta bình luận những sự kiện ở Việt Nam ra sao?
-
Nhiều kiểu lắm. "Wasington Post" chẳng ngại ngùng gì, gọi cố độc tài là kẻ đứng
đầu triều đại nhà Diệm, là kẻ độc đoán đã thối nát đến xương tủy và đưa đất nước
đến vực thẳm, và cho rằng bây giờ đã đến giai đoạn hồi sinh của nước cộng hoà.
"New York Time" cũng giữ một quan điểm tương tự, như có rào thêm: dù sao Diệm
cũng đã làm không ít việc hữu ích cho tổ quốc mình và cho chúng ta, những người
Mỹ. Suốt những năm dài ông dă là người bạn chung thủy của chúng ta. Và vẫn sẽ là
người bạn, nếu như ...
- Đến đây thì đã mất hay đi rồi, - Hunt ngắt lời
tôi - C̣n gì nữa?
- "Chicago Sun" với vẻ chỉ trích rơ rệt, lộ liễu nói
bóng đến chuyện Wasington có dính líu trực tiếp đến những gì xảy ra ở Sài G̣n.
Và tờ báo nói ngay rằng, với việc sụp đổ của chế độ gia đ́nh trị Diệm và cái
chết của ông ta, một pha chiến tranh mới đang mở màn ở Việt Nam: sự leo thang
chiến tranh có quân đội Mỹ đông đảo trợ giúp. Đoạn cuối bài báo khẳng định: cuộc
đảo chính ở Sài G̣n chỉ làm béo những kẻ sản xuất vũ khí cho lục quân Mỹ.
- Báo nói thẳng ra thế à?
- Vâng, đây ông xem.
Hunt đọc tờ báo,
quẳng nó đi và cười khẩy.
- Những anh hàng thịt Chicago đang ghen tỵ với
ta đấy mà.
- Sao mà không ghen tỵ cho được! - Tôi nói và báo cáo tiếp: -
Tờ "Globe" Boston thì thận trọng: chẳng chửi cũng chẳng thương Diệm. C̣n đây
"New York Herald Tribune" dành cho sự kiện Sài G̣n không chỉ bản tin tràng giang
đại hải, mà c̣n có cả tiểu phẩm có minh hoạ nhan đề là "Nó đã được thực hiện như
thế nào?". Đây, ông ngắm xem. Vẽ cả hình Kennedy.
Hunt nhìn tờ báo và phá
lên cười:
- Không lẽ ông ta lại đáng sợ đến thế kia? Không giống. Không
hề giống chút nào.
- Dẫu sao ông hăy đọc bài tiểu phẩm cái đă, ông
Harold. Người viết bài là kẻ biết rơ ngọn nguồn sự việc.
- Thế cơ à? Hay
thật! Hừ, thằng đểu, nó cũng biết điều nọ điều kia đấy. Nhưng do đâu nhỉ? Ai đưa
tin cho hắn? Làm sao hắn lại đánh hơi được là ta có nhúng tay vào sự kiện này?
Về cuộc gặp gỡ của tôi với phó tổng thống Johnson sau khi ông Sài G̣n về, chỉ có
ba người biết: anh, Marker và Arthur. Ai nhỉ?
- Có thể, ai trong số người
của Johnson. Hay chính là Johnson.
- Không khác được. Thôi đượ. Tiểu phẩm
là tiểu phẩm. Chẳng ai nghiêm túc tiếp nhận nó. C̣n gì nữa?
- Trên các
trang báo "Philadelphia Inquirer" thì có mấy nhận xét và ảnh kể về cuộc sống
phóng đăng của hai anh em kẻ bị giết, tổng thống và giám đốc mật vụ, về cách bài
trí của dinh tổng thống bị các lực lượng nổi dậy ném bom, về những thứ rượu cất
giữ trong hầm rượu, những thứ quần áo trong tủ và lũ họ hàng thân thích nắm
quyền.
- Những chuyện vớ vẩn đó tôi không quan tâm.
- Thế c̣n bài
phỏng vấn người đẹp em dâu Diệm?
- Hừ, mụ ấy lảm nhảm những gì?
-
Mụ cam đoan rằng biết đích xác kẻ nào, v́ sao và theo lệnh ai đã tiến hành đảo
chính và giết tổng thống. Mụ doạ sẽ vạch trần ra.
Hunt phẩy tay khinh bỉ:
- Cứ để cho mụ ta cục tác. Mụ chả biết gì đâu. Hết rồi chứ?
- Vâng, chủ
yếu là hết rồi. C̣n lại những tiểu dị thôi.
Hunt tiến lại gần, đặt tay
lên vai tôi:
- Thế nào, c̣n cái gì inh trong ḷng anh, hở tôn ông?
- Trong ḷng tôi?
Đội ơn Chúa, khi tiếp xúc với Hunt, tôi c̣n chưa mất
khả năng đỏ mặt và lúng túng. Sếp của tôi nhận thấy điều đó và thoả măn cười
ngất:
- Nào, thổ lộ những tâm tư thầm kín ra đi, mỹ nương!
- Cái
đó không hứng thú đâu, ông Hunt ạ.
- Sao lại không? Anh dù sao cũng là
"ng̣i bút riêng" của tôi mà.
- Vâng, là "ng̣i bút" không hơn. Tôi ghi chủ
yếu những gì ông đọc cho.
- ấy, ấy, đừng có giả vờ ngây ngô nữa. Anh vẫn
thường sắp xếp lại lời tôi theo ư mình. Và thành ra đơn giản và rơ ràng hơn.
Nào, nói đi.
- Không, Hunt ạ, không đâu. Tôi đâu dám liều thi thố với
ông. Tốt hơn là ông hăy nhìn vào ḷng tôi và đọc ra những gì viết ở đó.
Lăo lại phá lên cười với vẻ măn nguyện rơ rệt:
- Cũng không đến nỗi ngốc.
Chà, thưa tôn ông, cả tôn ông, cả những người khác đều không thể đọc được những
gì in trong ḷng tôi. Cả tôi cũng thế. Có cái là tôi nhìn rơ, c̣n có cái thì phủ
lớp mù dày đặc. Tôi chỉ có thể nói cho anh lúc này là tôi đặt nhiều hy vọng ở
hội đồng quân sự thay Diệm. Người của tôi đã tiếp xúc với họ. Vốn đã được đưa
vào guồng quay. Ta sẽ đợi lăi. Hăy khác vào tâm khảm như thế, tôn ông ạ. Nào,
bây giờ thì cầm lấy bút ghi đi.
Hunt gơ gót giày như ngựa gơ móng, sải
bước dọc pḥng từ cửa sổ này đến cửa sổ khác và uôn ra bức thư cho người bạn và
đồng hương tốt nhất của lăo. Kết quả của việc đọc của lăo và việc ghi của tôi là
thế này:
" Tâm trí tôi luôn hướng về ông ngay khi nhận được mẩu tin mong
mỏi từ lâu của bạn bè. đã hoàn thanh! Mọi cái diễn ra đúng như ông muốn, như ông
đoán trước. Tôi c̣n nhớ kỹ câu chuyện dài của chúng ta sau khi ông từ đó trở về.
Tôi khâm phục tầm nhìn xa, trí tuệ, hiểu biết của ông về những gì cần phải làm
vào chính những giờ khắc lịch sử này khác cho chính phủ ta và cho nước ta, nước
hùng mạnh nhất, kiên quyết nhất, giàu có nhất và là nước duy nhất trên thế giới
có khả năng bảo vệ nền dân chủ nói chung và lối sống của chúng ta nói riêng.
Nhân dịp vui sướng này, tôi gửi đến ông những lời chúc mừng chân thành nhất,
ḷng yêu mến keo sơn và sự kính trọng sâu sắc của tôi. Tôi tin, hỡi bạn thân
mến, rằng ông từ nay về sau cũng "cứ thế mà giữ". Tôi gắn nhưng hy vọng lớn lao
với hoạt động hàng ngày của ông.
Ôm hôn ông và chúc sức khỏe"
Hunt, theo thói quen giữ bí mật, không hề nêu tên người bạn của mình lấy một
lần. Lăo cũng chẳng lộ cái gì cụ thể trong thư chúc mừng bạn v́ lư do gì và khâm
phục cái gì. Nhưng kẻ đồng hương bạn lăo, tất nhiên là sẽ hiểu cả.
Vào
cuối buổi làm việc, khi tôi đã sắp rời toà soạn, thì một người có khuôn mặt hẹp
và cái mũi sắc tựa dao bước vào pḥng làm việc của tôi. Anh ta khép chặt cửa và
tựa lưng vào nó, nhìn chăm chăm vào tôi bằng cặp mắt buồn bă và thông minh của
một con chó không nhà. Anh ta hỏi, giọng khàn khàn, giận dữ:
- Ông là
Bruce? Chủ bút tờ "Texas Sun"?
Tôi vội đi ăn, có thể thanh thản rũ bỏ vị
khách bất ngờ này. Nhưng dẫu sao tôi đã không làm điều đó. Tôi im lặng, gật đầu
và chỉ cho anh ta chiếc ghế bành. Anh ta vận complet bằng flanel xám sẫm, sơ mi
trắng có cravat, trông rất chỉnh tề, vậy mà tôi vẫn có cảm tưởng lùi xùi như chú
gà chọi sắp lao vào một cuộc đấu. Vai trò của chú gà kia dĩ nhiên là phần tôi.
Kinh nghiệm biên tập của tôi không nhiều, chỉ mới hai năm, tuy vậy qua thời gian
ngắn đó, tôi đã học được cách phân loại ngay từ cái nhình đầu tiên khách của
"Texas Sun" ra các loại nguy hiểm và an toàn, chán ngấy và thú vị. Tay mặt hẹp,
lùi xùi này, khỏi phải bàn, có vẻ gì đó nguy hiểm. Trong hao hao như kẻ mất trí.
- Quả thế, thưa ông, tôi là Bruce, c̣n ông... ?
Tôi ngồi xuống sau bàn,
để tay lên nút tín hiệu báo động, và sốt ruột đợi hắn lao bổ vào tôi.
Hắn
ngồi xuống ghế, lấy khăn tay lau khuôn mặt đỏ húp lên và nói:
- Xin phép
tự giới thiệu, thưa ông Bruce. Tôi là Robert Thomson, thành viên ủy ban chống
chiến tranh Việt Nam.
- Xin lỗi, ông vừa nói gì vậy?
- Robert
Thomson.
- Không, cái ấy tôi hiểu. Ông nói là thành viên ủy ban ...
- Vâng, thành viên ủy ban New York chống chiến tranh Việt Nam.
- Aí chà!
Hoá ra lại có cả cái ủy ban như thế nữa kia.
- Vâng, nó mới thành lập.
Bởi bàn tay tôi, ông hăy nhớ vậy.
- Tôi đã hiểu rồi. Hân hạnh được làm
quen với ông, ông Thomson. Vậy thì, cái gì đã dẫn ông đến toà soạn báo chúng
tôi?
- Trước khi tŕnh bày ngọn ngành sự việc, tôi thấy cần thông báo cho
ông biết điều sau đây.
Trên đầu gối anh ta là chiếc va li nhỏ, hẹp và
phẳng bằng da cá sấu non, có khóa tử tế cùng hàng chữ bạc thên của chủ nhân. Ông
Thomson giữ nó nâng niu cứ như nó chứa chất đầy kim cương.
- Ông sẽ được
biết, ông Bruce ạ, - giọng đai ra cứ làm như tôi phản đối ông ta, vị khách lạ
lùng nói tiếp. - rằng phần tôi có đủ đô la để ngồi ăn không cả đời tôi, cả đời
con tôi. Tôi có bất động sản ở New York và Los Angeles. đã tốt nghiệp Harvard.
Phó chủ tịch một hăng. đã chiến đấu ở Việt Nam. đã làm việc ở Lầu Năm góc trong
ban nghiên cứu và ban liên lạc với dư luận công chúng. Chưa bao giờ bị truy cứu
trách nhiệm bởi ủy ban điều tra các hoạt động chống Mỹ. Sĩ quan dự bị. đã được
thưởng huy chương "Trái tim rực đỏ".
Tôi làm cử chỉ dang tay và mỉm cười
- chẳng c̣n làm thế khác được.
- Thật quá nhiều ưu điểm đối với một người
Mỹ, thưa ông.
- Xin lỗi, nhưng tôi phải nói tất cả điều đó cho ông hay.
- Tại sao lại phải? Không có những lời mào ấy tôi cũng vẫn nghe ông nói cơ mà.
- Tôi không tin điều đó ngay cả bây giờ, sau những lời tốt đẹp của ông.
-
Thử tin xem. Cái gì đã đưa ông đến chỗ chúng tôi? Ông đã viết bài báo, truyện
ngắn hay phóng sự nào đó?
- Không! - Thomson nói và nhẹ nhàng vuốt ve
những gai trên lớp da cá sấu non.
- Ông muốn bác bỏ một bài báo đã xúc
phạm đến danh dự của ông?
- Không. Tôi muốn thông báo, ai là kẻ đã tiến
hành dảo chính ở Việt Nam, và ai đã giết tổng thống Diệm và một số điều khác
nữa.
- Aí chà! Không hơn không kém. Thế chính mắt ông đã trông thấy cảnh
giết tổng thống Diệm?
- Không, nhưng tôi...
- Ông đã ở Sài G̣n
thời gian ấy?
- Không, nhưng...
- Xin lỗi, thế thì do đâu ông có
thể biết ai đã tiến hành đảo chính và ai đã giết ông Diệm?
- Tôi biết. Do
đâu thì không quan trọng. ảnh sao các tài liệu tuyệt mật của Nhà trắng, Lầu Năm
góc và Bộ Ngoại giao đã lọt vào tay tôi. Những tài liệu này dọi ánh sáng tỏ
tường vào những công việc đen tối của chúng ta ở Việt Nam.
Anh ta lấy từ
túi quần bí mật ra một chiếc chìa khóa nhỏ, đút vào ổ khoá của chiếc va-li đắt
tiền của mình, vặn hai lần, mở va li rồi rút ra một tập dầy những bản sao; lấy
cái trên cùng, anh ta chìa nó cho tôi với lời nói:
- Tài liệu này đã được
mười năm rồi. Nó được làm tại Nhà trắng dưới thời chính phủ Truman. Nó chứng tỏ
rằng, trên thực tế chính phủ Truman đã ép nhà cầm quyền Pháp thời đó mở cuộc
chiến tranh ở Đông Dương! Tiền Mỹ với máu Pháp và Việt Nam. Tám mươi phần trăm
tất cả các chi tiêu quân sự của Pháp ở Việt Nam là do chính phủ Mỹ đài thọ.
Tôi chưa kịp làm quen kỹ với tấm ảnh, thì anh ta đã chìa ra tấm thứ hai.
- C̣n tài liệu này chứng tỏ rằng cả người kế tục Truman, tổng thống Eisenhower,
cũng đã rắp tâm lật đổ chế độ cộng sản ở Bắc Việt Nam. Khi không làm được điều
đó, ông ta t́m mọi cách phá hiệp định Geneve về Việt Nam, kư vào năm một ngàn
chín trăm năm mươi tư. Ông xem đi. Không, không, đây không phải là chuyện hư
cấu. Và tổng thống hiện nay, Kennedy, đã lại đi theo vết các tiền bối của mình.
Ông có biết Kennedy đã nói gì với Eisenhower khi tiếp quản Pḥn Bầu dục không?
"Cần bao nhiêu thời gian để ném một sư đoàn Mỹ từ Hoa Kỳ sang Việt Nam?". Đây
lại một tài liệu nữa, sinh ra dưới thời Kennedy. Bản ghi nhớ về các vấn đề anh
ninh quốc gia. Bản này xuất hiện nhờ công tác của nhóm tác chiến về Việt Nam,
được lập ra theo lệnh của tổng thống. Trong đó có đoạn như sau. Ông nghe đây!...
Một: phái nhân viên t́nh báo vào Bắc Việt Nam. Hai: phái nhân viên t́nh báo "bổ
sung" vào Bắc Việt Nam bằng đường không do các đội bay dân dụng làm thuê theo
hợp đồng. Ba: cho các đơn vị biệt kích Nam Việt Nam xâm nhập Đông Nam Lào để
phát hiện và tấn công các căn cứ và mạng lưới giao thông của bọn cộng sản. Bốn:
lập mạng lưới kháng chiến, các cơ sở và các nhóm bí mật nhằm hoạt động phá hoại
và "gây rối" trên lănh thổ Bắc Việt Nam. Năm: rải truyền đơn từ máy bay xuống
Bắc Việt Nam.
Tổng thống Kennedy ngày mười một tháng năm, năm một nghìn
chín trăm sáu mươi mốt đã hoàn toàn tán thành chương tŕnh do nhóm tác chiến về
Việt Nam lập ra và bản ghi nhớ đã trờ thành chương tŕnh hành động của Lầu Năm
góc. Ông xem đi!... Vài tháng sau, vào tháng mười cùng năm, Kennedy ra chỉ thị
bổ sung mới cho Lầu Năm góc tổ chức các hoạt động du kích, sử dụng các lực lượng
đồng minh của Mỹ trong trường hợp cần thiết để cắt ngang đường tiếp tế của cộng
sản ở Sepaul (Lào). Khi đó Kennedy đã lện cho Bộ Ngoại giao chuyển bị ra Sách
trắng, trong đó trách nhiệm "xâm lược " Nam Việt Nam sẽ đặt lên Bắc Việt Nam.
Tướng Taylor thời gian này đang thực hiện sứ mạng đặc biệt ở Sài G̣n. Ông ta gửi
về bức điện cho Nhà trắng và Lầu Nằm góc. Đây là bản sao của nó: "Quan điểm của
tôi là chúng ta nên cử nhóm tác chiến sang để đảm bảo cho sự có mặt quân sự của
Mỹ ở Việt Nam, ngơ hầu xua tan mối nghi ngờ của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ở sự
sẵn sàng đứng về phía ông ta của chúng ta trong trường hợp đối địch quân sự với
Việt Cộng hoặc Việt Minh".
Taylor khuyên tổng thống gửi sang Việt Nam
những dạo quân Mỹ lớn, ngụy trang là nhóm chiến thuật cung cấp vật chất, kỹ
thuật để giúp đỡ chế độ Diệm. Thêm vào con số nghìn đầu tiên của cái gọi là các
cố vấn Mỹ rải ra trong quân đội Nam Việt Nam, phải thêm, theo ư Taylor, vài
nghìn nữa. Đây này, lại một bức điện của Taylor gửi từ Philipine tháng mười cùng
năm và có ḍng chữ : "Dành riêng cho tổng thống". Trong đó Taylor đ̣i gửi ngay
sang Nam Việt Nam tám nghìn lính Mỹ. Khi ấy, hai năm trước đây, Kennedy chưa gửi
lục quân sang Sài G̣n như Taylor đề đạt. Nhưng bây giờ, sau hai năm, ở Việt Nam
đã có tới mười sáu nghìn "cố vấn". Sang năm con số đó sẽ c̣n tăng lên. Sự việc
đang tiến tới một cuộc can thiệp lớn. Tổng thống Kennedy ráo riết chuẩn bị cho
cuộc xâm nhập công khai vào Việt Nam.
Mới đây, vào tháng hai năm ngoái,
khi phát biểu tại một cuộc họp báo có tiếng vang, đề cập đến vấn đề Việt Nam và
sứ mạng của tướng Taylor, tổng thống Kennedy đã nói những lời sau đây: Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu viện trợ thêm... Chúng ta đã tăng viện trợ. Chúng ta
đang thực hiện sự giúp đỡ về vật chất kỹ thuật, giúp về vận tải và huấn luyện.
Người Mỹ đang tham gia vào những nỗ lực này...".
Dối trá, dối trá thô bạo
và không thể tha thứ được! "Diệm yêu cầu...". Có lẽ, cầu xin chưa đủ nước mắt,
cúi mình và thề thốt trung thành với chúng ta chưa đạt yêu cầu. Có lẽ, đến Diệm
cũng hiểu rằng ông ta với người Mỹ không cùng đường. Cho nên mới trở nên không
vừa ư Nhà trắng và Lầu Năm góc. Này, này, c̣n những tài liệu mới nữa, đặc trưng
cho chính phủ "yêu hoà bình" của chúng ta.
Và ông Thomson đẩy ra góc bàn
cả đống những bức ảnh có ḍng chữ "Dành riêng cho tổng thống", "Cho chính
McNamara", "Chỉ cho Bộ trưởng Ngoại giao", "Tuyệt mật".
Trong số tài liệu
ấy tôi quan tâm nhất tới ghi chép của trợ lư bộ trưởng ngoại giao Hilsman gửi
cho ông chủ của mình, trong đó có nói phải tiến hành đảo chính ở Sài G̣n và gạt
bỏ tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đ́nh Diệm khét tiếng. Đây là cốt lơi quan trọng
của nó... "Nếu Diệm có bước tiến chính trị lại phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
ví dụ như mở cuộc thương lượng về trung lập hoá, thậm chí nếu chỉ xuất hiện tin
đồn về cuộc thương lượng như thế hay nguy cơ gián tiếp về khả năng ấy, Hoa Kỳ
phải:
... Hướng các tướng lănh thực hiện cho ra trò cuộc đảo chính... Nếu
Diệm đề nghị với tổng thống Pháp Charles de Gaulle ủng hộ việc trung lập hoá
Việt Nam, Mỹ phải:
... Công khai chỉ ra rằng Việt Nam không thể trung lập
hoá có hiệu quả, chừng nào cộng sản c̣n chưa mất quyền kiểm soát Bắc Việt Nam...
Khi mà cuộc đảo chính chống Diệm ở Nam Việt Nam bắt đầu được đem ra thực hiện,
chúng ta có thể lấy cớ nhân dân Việt Nam hiển nhiên bác bỏ sự liên hiệp giữa
Diệm và Cộng Sản... Để ngăn ngừa các lực lượng quân đội trung thành với Diệm
đóng ở ngoài Sài G̣n, ủng hộ Diệm, chúng ta phải sẵn sàng dập tắt liên lạc vô
tuyến với các đơn vị này, đồng thời cho phá cá cầu cần thiết để cản trở sự tiến
quân của các đơn vị này... Nếu cần, chúng ta phải gửi sang Việt Nam quân đội Mỹ
để bảo đảm thắng lợi cho phe đảo chính"
Tôi lướt mắt qua ghi chép của
Hilsman cho đến hết, nghĩ ngợi một chút rồi hỏi:
- Ông Thomson, ông cho
biết Bộ trưởng Ngoại giao đã phản ứng trước đề nghị không úp mở này của người
trợ lư thân cận của mình?
- Ông ta tán thành hết.
- Có bằng chứng
chứ:
- Có. Đây này.
Tôi lại được biết một tài liệu nữa - bản sao
ghi chép báo cáo của viên trùm ngành ngoại giao. Dean Rusk không muốn khó nhọc
thêm và chỉ chép lại gần như đúng từng chữ bản luận văn hiếu chiến của cấp dưới
và gửi đến Nhà trắng dưới chữ kư của chính mình.
Tôi mong muốn kẻ tiết lộ
này cho tôi xem và nói càng nhiều càng tốt, nên không hà tiện câu hỏi, đôi khi
ngây ngô xét về phía chủ bút "Texas Sun".