Bài Kư Một Giấc Mộng
Nhân Tông gặp loạn Nghi
Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải pḥng ngừa. Thường
dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát. Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ
Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám, phảng phất có tiếng khóc than thảm
thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió
lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra
phía có tiếng khóc, khấn thầm rằng:
- Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông,
dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất
ức, đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên
được. Khấn với các thần ở địa pphương, nếu có u hồn nào c̣n uất ức thì bảo chúng
cứ thực tâu bày. Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rơ, như khóc
như than, nửa ẩn, nửa hiện, trong t́nh u oán có ư thẹn thùng, làm cho ta sinh
ḷng nghi hoặc, muốn nêu lên không rơ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết
oan đâu mà giải. Trẫm không nói lại lần nữa, bảo cho các thần biết.
Khấn
xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ư cảm động, khiến ta cũng sinh ḷng thương
xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.
Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:
- Từ khi thánh thượng
chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời
rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có
ḷng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét,
vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong
mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về, dân chúng sẽ nghi là có việc
khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở
cửa Tây, chỉ trăm bước là về tới chính cung thôi.
Ta ngượng theo ư chư
tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Đêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp
đội một phong thư, phục xuống trước mặt tâu rằng:
- Chị em thiếp trước
thờ vua Lư Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị
kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn, định bán chị em thiếp cho người ta
bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem
chị em thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi
tuần qua đi, có ḷng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng
thư, mong đội đức thánh minh soi xét cho. Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc
được ra ngoài hang tối, thấy bóng mặt trời.
Hai cô nói xong, rồi đặt thư
lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui ra.
Ta tỉnh giấc, trông lên án, quả có
một phong thư. Trong ḷng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng
ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như
hình giun dế, không thể hiểu được. Dước cũng có hai bài thơ:
Bài thứ nhất
rằng:
Cổ nguyệt lạc hàn thủy,
Điền ôi vị bán âm.
Dạ dạ quân
kim trọng,
Thê thê thiên lư lâm.
Tạm dịch là:
Mặt trăng
xưa, rơi xuống nước lạnh,
Góc ruộng v́ thế mà tối mất một nửa.
Đêm
đêm cân vàng nặng,
Đau xót ḷng ngàn dặm.
Bài thứ hai:
Xuất
tự ba sơn sự nhị vương,
Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương
Hậu
lai giá đắc kim đồng tử,
Không đới đào chi vĩnh tự thương.
Tạm
dịch là:
Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua,
Trên đầu liền xóm hai người
sánh đôi.
Đến sau gả cho chàng kim đồng,
Uổng công đội cành đào,
cảm thấy đau xót măi.
Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần, nhưng vẫn chưa hiểu
ư. Sáng hôm sau ta vào triều, vời học thần nội các đến, thuật rơ việc ấy và đưa
hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩa.
Các họa sĩ đều nói:
-
Lời nói của quỷ thần rất huyền bí, không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho
phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lại.
Trải qua ba năm,
không ai biết hai bài thơ ư nói gì.
Một hôm ta ngủ trưa, mộng thấy người
Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm, mời gă cùng ngồi, cầm tay
nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia, đem ra hỏi:
Tiên thổi địch nói:
- Tiên triết ta có câu: “Không thể biết được mới gọi
là thần”. Đem ḷng trần ḍ ḷng thần, ḍ thế nào được? Vậy nên ba năm nay muốn
thân oan cho người mà vẫn chưa được.
Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:
- Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lư
Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, trên đàn là Ngọc tỳ bà. Là
chuông, mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi
lần được tấy ở ngự tiền, vẫn được ban thưởng. Nhà vua rất quý, đem cất vào nhạc
phủ cẩn thận. Đến đời Huệ Tông, trễ nải chính trị, ruồng bỏ nhạc công, hàng ngày
say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà
Trần. Lúc ấy, một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục, thừa cơ lấy trọm hai nhạc
cụ ấy. Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy, toan đem phát giác. Lục sợ
mắc tội, liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho
mất dấu tích đi. Khí vàng và ngọc lâu này thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua
đào lên để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó. Trong bài thơ nói: “Cổ nguyệt
lạc hàn thủy”, là: bên tả chấm thủy, giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt”
ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói: “Điền ôi vị bán âm”. Kim, đồng ghép lại
là chữ “chung”. Thiên lư ghép lại là chữ “mai”, v́ chữ “thổ” ngược lại là chữ
“thiên”. Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” (nghĩa là Chuông
chôn bờ hồ). C̣n các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôi. Hai chữ
“vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau,
nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”. Hai chữ tuy đảo
ngược, nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ
“chung”. Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó.
C̣n câu: “Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì cem bờ hồ nào có cây anh đào,
tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.
Ta lại hỏi âm và nghĩ của 71 chữ ở
đầu trang.
Tiên thổi địch nói:
- Những chữ ấy tức là lời tâu của
hai con yêu. Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn
động cũng có người c̣n đọc được. Nhà vua triệu họ đến, bắt họ đọc thì khắc biết.
Tiên thổi địch nói xong, ta c̣n muốn nói chuyện nữa. Chợt có cơn gió thoảng qua
làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi t́m. Quả
nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ.
Lê
Thánh Tông