Bút máu
Lương Sinh người ở Măn Châu, con nhà thế
phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ
ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
Năm lên mười hai, gặp
thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất
ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn
luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về
săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Tŕnh ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị
liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều ḥa. Khi lên mười lăm,
Sinh được người cậu gởi đến Lă Công, một quan thủ hiệu băi chức từ lâu ở nhà mở
trường dạy vơ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn vơ bí
truyền của nhà họ Lă. Lă Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi
đời họ Lă lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng
dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
- Máu người tanh
quá!
Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Đến nhà, lạy cậu
thưa lên:
- Vơ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy
trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao
trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả ḷng ta trông
đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác
nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rơ ràng? Làm thiện một cách
hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội v́ đã lừa mình, lừa
người. Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự
thấy không dám theo đuổi.
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi
không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác,
làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xă hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên
đường, bên cạnh nhà trường c̣n có nhà ngục, bên cạnh ng̣i bút c̣n có lưỡi dao,
không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội
lỗi, ng̣i bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân
thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây
giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm
vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ư thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng
như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn
người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, ḷng
cảm mến, tiếp đăi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của
Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay
họa lại những bài đắc ư nhất của mình dưới kư tên Tuyết Hồng, con gái của viên
quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ư. Sau quan lệnh ngỏ lời kén
Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lời.
Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ
ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh
càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng t́nh đời. Thiếu
thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi. Nhân tết nguyên đán, Tuyết
Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du
xuân thủy.
Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi măi đã mười ngày, tiền
lương muốn cạn, ư thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt,
Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi t́m một tửu quán
nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm
nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Ḍ theo
âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ
gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội
lớn, v́ quan khâm sai triều đ́nh sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lư bày
ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng ḥ hét và mọi người
sợ hăi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lư Duyên Hương, con quan
Tổng Đốc. Người đẹp vừa kiêu hănh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến
quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng
cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời t́nh. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền
rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lư tiểu thư thành kính đàm đạo
với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến pḥng kế lấy bút và
giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền
Phật bâng khuâng
Đông biếc, thoáng
cười tiên nữ
Mặt nước hồ in, xao động
bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm,
long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lư tiểu thư
lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hăi bật ra hai bên thì Sinh vội vă
đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính
hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thư.
Lập tức mười
lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất
sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm
nhìn xuống không nói một lời. Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời
khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Đám đông có tiếng thì thào.
- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy.
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời
rồi.
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc
phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào
trại giam, rồi tâu tŕnh lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách
đá, e phải mang nhục phen này. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng
người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc
dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay c̣n cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan t́m lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước
sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo
ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao
gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết ḷng hâm mộ.
Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo
gió đưa, người hăy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa
t́nh ta khao khát lâu nay.
Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra
thết đăi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn
có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Độ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc
du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công
đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là ḍng suối quanh co quan đã khai thông
để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm
hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu
cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng
nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, ḷng Sinh chứa
chan nhiệt t́nh đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ư
rẻ khinh.
Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột
đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc,
hàng hàng gấm thêu. Trước khi giă từ, Sinh c̣n lưu lại bài tán tổng kết công đức
của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, kư để ghi tạc vào mấy cổ hồng
chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn,
đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không
nhận để giữ vẹn ḷng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng,
nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm
không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập
chờn ác mộng.
Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống,
hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài
vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng
chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm
cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập
hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử
chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng
giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác
loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô
trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên
ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm
vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, ḷng lại khao khát cầm
bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại . Sinh cố tập trung thần
lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lăng văng sắc máu, không sao có đủ can
đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn
xao chung quanh vô số hồn oan đ̣i mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống
thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ
họ Tŕnh, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi
nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ng̣i bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà
trách nhiệm rơ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của
văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể
biết là bao, nhưng chẳng qua v́ mờ mịt hư ảo nên không thấy rơ hay không muốn rơ
mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài
nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài
lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của
đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu
xa, xuyên tạc chân lư, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người,
văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem
phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dăy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh
động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cơi vô hình,
chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hăy xem
có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để
chậm thêm ngày nào!
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như
minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển
của mình đọc lại từng câu, ḍ lại từng chữ, thấy toàn là ư bướm t́nh hoa, phát
triển cảm xúc mà xao lăng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn
tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa ḍ được lối máu từ
đâu. Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại
trong thi tuyển, tâm năo trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc
hác trong ngày hội chùa lại hiện rơ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì
thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hăi, những đ̣n dây trói, mấy dăy
nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với
những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được,
quyết định trở lại chốn cũ để t́m hiểu sự thật.
Sinh đến chốn cũ vào một
buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi ḍng
suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo,
không một bóng người thấp thoáng. Đến một g̣ cỏ úa héo chợt thấy một người nông
phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần
ngồi một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?
Người
kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo
của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mồ không phải là bà con
quen thuộc của tôi.
Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi
nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"
Chưa kịp ḍ ư,
người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đây?
-
Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có
vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như
không dằn được tấm ḷng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:
- Nói cho
muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay
thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. đã bao
năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lư độc dữ hơn hùm beo, đồng
ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng
của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết v́ dân làm bản trần t́nh, cản đầu ngựa,
níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng
thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh
sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần t́nh, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói
của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ
bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải
bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồi. Tổng trấn phái sai nha về tróc nă
những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết v́ nỗi cực hình thảm khốc,
vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà
thôi!
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi.
-
Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn
trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu
lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh
cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có
biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao
người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người
này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu
ra mà chết để khỏi bị đày đọa. Trước khi nhắm mắt cụ c̣n gượng nói: "Được chết
trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây cho ta gần gũi
với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh
sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Đừng oán hờn tên danh
sĩ.
Đáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại nghẹn
ngào nói tiếp:
-Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia,
nghĩ c̣n đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!
Đoạn gục đầu trước mồ khóc
thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống ḥa tiếng khóc theo.
Bóng đêm xóa nḥa,
gió lạnh như từ cơi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như
theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ
chảy ra từ một tấm ḷng hối hận chân thành.