Chiều sương
--------------------------------------------------------------------------------
Vàomột chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngơ
hẻmlàng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự ṿm trời trắng
hơibiêng biếc như giát bạc, cái êm ả của những cuối ngày thôn dă. Chàng đi và
nghĩđến trăm điều vu vơ, những ư nghĩ thoáng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi,
nhưnhững con bướm đa t́nh vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.
Chàng
đilơ đăng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết.
Sươngbạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi
nướcđọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.
Cảnh vật, như dưới một
đũatiên mầu nhiệm, đã tan biến trong giây phút. Chỉ c̣n trơ lại quanh mình
nhữngnét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ của các
túptranh. Những bụi xương rồng và râm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng
ánh,xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt
bằngnhững sợi tơ bạc li ti.
Trời không lạnh lắm, nhưng hơi sương ngấm
vàomình; chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang,
cáibuồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ và đã xa xôi lắm,
tưởngtượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa. Hơi ẩm đọng trên mi, chàng
tưởngnước mắt rưng rưng.
Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương
baytừng luồng, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.
Nhữngtiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lăng đăng. Ngoài sông mờ,
bóngmột chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi: sương mù đã tới báo mùa cá thụ Chàng
rẽvào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lăo đang ngồi xổm đan lưới, hai chân
cotrước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh
lấycổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.
Chàng chào, và lăo Nhiệm bình
vớidáng điệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi
trênphản. Chàng hỏi:
- Cố (#1) không đi biển à?
- Không, chú ạ.
Giàrồi, không năng đi được nữa.
- Cố kể chuyện đi chài nghe đi.
Chàngnói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu ṿi bà. Chàng thường đến đánh
bạnvới lăo chài, và ông lăo, đối với chàng trai mới lớn, có một t́nh yêu thương
chechở, tốt quá mức đến cưng chiều, như t́nh yêu thương mà tất cả những người
giàđùm bọc trẻ con. Lăo cười đáp:
- C̣n chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết
cảchuyện của tôi rồi.
- Không... Cố phải kể đi... à, cố kể chuyện ma đi.
Cốđi chài có bao giờ gặp ma không?
Lăo Nhiệm bình có một nụ cười hồn
hậunhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.
- Chuyện ma à?
Tôicũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần thuyền neo ngoài khơi, tôi ngồi câu
đêm,thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. ái chà, sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy
nặngthôi, như có tảng đá tŕ giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫy như con
cátọ Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái nố ta (#2) rồi, hắn muốn trêu mình đây...
Quảnhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn x̣a một cái, xanh lè cả
nướcbiển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn c̣n nguyên.
Đó,
tôichỉ gặp vài lần như vậy thôi. Đêm khuya lạnh lẽo, vắng vẻ, chắc cụ buồn
t́nh,bày chuyện phá mình tí cho vui.
Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi,
trời êmbiển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên
ngồi dăngdăng hai bên mạn thuyền; họ nói: "Thôi mà, anh em mình cả, trêu nhau
làm gì?",thế là cả bọn nhảy sùm xuống, bơi đi.
Mồ ma ông cụ bình khi xưa,
dạnkhiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn
bíulấy taỵ Không thấy người đâu, nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta
đáp:"Chà, xin với xỏ, được mấy con cá về cho vợ con đây!". Thấy nhẹ trong rổ, sờ
vôthì cá đã biến mất. Ông ta nạt: "Đồ quỷ, cứ nghịch thôi!". Thế là tiếng cười
bậtlên ríu rít, hồi sau lại thấy nặng rổ.
Lăo chài kể như vậy, giọng
bìnhthường như nói chuyện người dương gian (#3), tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan
quamắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ;
chắcchắn đó chỉ là điều huyễn tưởng (#4), nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm
trạngnào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền ḥa của ông
lăo!Trong ư nghĩ lăo chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rơ ràng,
cơisống và cơi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài
đăbỏ mình trong băo tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để
t́mlại chút hơi ấm cuộc đời, v́ cảm thấy ḷng biển quá mênh mông, lạnh lẽo. Và
tuy đã t́m thấy cái chết trong tai ương (#5), bi thảm và dữ dội, không phải bao
giờhồn họ cũng ngậm giữ oán hờn; họ c̣n biết nghịch ngợm đùa trêu người sống,
vàchàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười gịn ríu rít
củanhững cái bóng vô hình cạnh cây đa già miếu cổ...
- Có bao giờ người
tathấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không, cố?
Chàng
trailại cất tiếng hỏi.
- Thuyền ma à?... à... có một lần, đã lâu lắm,
chínhmắt tôi thấy. Hồi ấy tôi c̣n trẻ lắm, tôi c̣n đi trai dưới thuyền mồ ma
(#6) ôngPhó Nhụy... Ờ cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố
xong,thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.
Bữa đó thuyền
ralạch...
*
* *
Sáng hôm ấy, một buổi sáng thanh quang.
bìnhminh giát ánh vàng trên những dải mây bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đưa
chèotheo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, ḷng không ư nghĩ, không lo lắng. Nhưng
khithuyền chạy ngang nhà Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo
bỗnglướt ngang trước mũi. Mọi người chửi rủa chúng ầm ĩ; dân chài rất kiêng
bị"ngáng đường" như thế, và ông lái hơi nhăn trán lại.
Ra khỏi lạch
(#7),thuyền kéo buồm bắt cơn gió tây nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng
hơinặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân trân nhìn về trước. Khi một ngọn sóng
kéođến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc xóa. Càng
xabờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ c̣n là những cái lượn, lưng cong và rộng, kéo lừ
đừnhưng hùng cường. Những mảnh nước lớn thốc vào dưới mũi thuyền khiến bọt
trắngtóe, rồi tự rẽ đôi chảy róc rách hai bên mạn. Các bác chài đã gác chèo ngồi
bệndây neo, quai chèo hay tán chuyện, có vẻ không biết đến sự nhồi lắc củasóng.
Gió lên lồng lộng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau một vạchphẳng ĺ, v́ nước
đã bị khối nặng của thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, nhữnglàn sóng lô nhô hai
bên mép tiến vào và xóa mất vạch phẳng.
Càng xa bờ,gió càng mạnh, như dậy
từ bốn phương của khoảng rộng. Nắng vàng và gay gắt thêm.Khi mặt trời đứng bóng,
biển biếc ngả sang mầu lục.
ông Phó Nhụy, nhànghề và chạy lái, ra lệnh bỏ
neo (#8). Đoạn người ta tháo dây neo cho thuyềntrôi tới gần chỗ đã thả bóng hôm
trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn và đanthưa, thả lưng chừng nước, trong có
lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào.Cạnh bóng, người ta cột vài ba cây gầy,
một loại tre vầu. Cá t́m thấy ở đó mộtnơi nghỉ tới nhóng xung quanh, có khi hàng
đàn lớn.
Hai bác chài, lặng lẽvà nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong
khi thuyền, dưới mái chèo, nhẹ tiếntới. Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại và
hai bác, có thêm người trợ lực, kéodần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào mắt
lưới, giăy đành đạch làm lóe nhữngánh bạc biêng biếc. Vài con cá nhỏ nhảy lanh
tanh trong đám rong rêu lẫn nhữnghạt tròn nhớt và trong, mà người ta gọi là
trứng nước. bình hồi ấy c̣n là mộtchú trai quèn, túm từng mảng lưới hất mạnh cho
cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuốngkhoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn và
man mác, mùi của biển cả. Nhữngcon cá trích, cá đốm, lẫn cá thu, cá hồng, mắt
tròn mở trân trân, há miệng méoxệu một cách tuyệt vọng cố hớp không khí, trong
tiếng lách tách của vâycứng.
Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của
sóng. Chú Trai đã đi thổicơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm gỗ, lỏn
thỏn hai bát cá đầy vàmột bát muối; cạnh mâm, một rá cơm và một xanh canh cá.
Cơm xới trong bát đầy cóngọn, các bác chài và rất nhanh như chèo đua cho chóng
xong bữa. Chợt một báckêu:
- Nhìn ḱa!
Và chỉ ra phía bên trái,
chỗ mặt nước lăn tăn báocó đàn cá đi quạ Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến
chèo, kẻ chạy đếnlưới.
Họ mê mải trong công việc trong khi trời đã ngả về
chiều. Mặt trời,lúc c̣n ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn
lên vàkêu:
- Coi ḱa! Trời đổ ráng ngoài.
Mọi người nhìn theo, lo
ngại.Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ béo, quay ngó xung quanh, cũng kêutheo:
- Sắp có tố (#9) đến nơi!
Họ vừa nhận thấy điềm báo khôngthể lầm lẫn.
Trời đã đột ngột đổ ráng ba phương đỏ rực: ráng ngoài, nơi chântrời, và phía
trong bờ, hai ráng Ḷ (Cửa Ḷ), ráng Cương (Cương Gián). Mặt cácbác chài đỏ cháy
lên trong ánh phản chiếu. Ông nhà nghề ralệnh:
- Kéo lưới lên!
Giương buồm!
Chân người chạy trênsạp rầm rập. Các bác chài co chân đu
mình trên dây để kéo buồm, miệng "dô ḥ"lấy nhịp. Một bác hỏi:
- Gió gì?
Người khác đáp:
- Giótrong. Khó tháo kịp.
Gió từ bờ thổi ra,
thuyền cố vát (#10). Sóng vùnglên, cuốn, réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tóe
bọt, ngụp xuống, trồi lên, đăthấy một sức mạnh hỗn độn và bất ngờ trong gió vừa
cuồng lộng (#11) thổi. Buồmvát không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột,
có khi cọ vào gỗ rít ghêtai. hình như thuyền trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để
lấy cữ, ông Phó Nhụykêu:
- Mưa đến rồi!
Phía bờ đã mờ mịt sau màn
mưa trắng bệch, mặtsóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát
thành tiếng ào ào,một giây sau, các bác chài, ngồi co mình trong tơi chiếu, đã
vuốt mặt khôngkịp.
Một bác bảo:
- Bỏ neo thôi, không lại bạt măi
ra ngoài khơiđông xích đế cho mà coi.
Neo buông xuống nước. Trong khi dây
neo tụtxuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về sau, đoạn giật nảy mình, chúi hẳn mũi:
dây đătháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như
mộtcon trâu dữ bị buộc. Sóng đánh té tát, khi mũi thuyền chúi xuống thì vội
thừadịp nhảy chồm, nước tóe trang lang đến tận sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền
rấkhỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt, chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy
tớingồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném
vàomặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng da.
Một lần, thuyền t́ lại
nặngquá. Nước thốc từng mảng lớn, thuyền dốc đứng tưởng như cứ thế mà đâm
thẳngxuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm ngợp v́ bị nước
đánhtối tăm mặt mũi, rời chỗ vịn, lăn trên sạp lông lốc. Ông nhà nghề bị ngụp
trongmảng nước. Không tŕ hoăn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội
giơcao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hết ràng
buộcquay mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông
nhànghề hất xuống nước cái neo sắt c̣n lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi.
Khôngc̣n cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một ḥn
sắtnặng. Như thế, thuyền không bị giằng lại, mà cũng chỉ trôi từ từ, kéo cái
neosắt rê trên đáy cát.
Nhưng gió vun vút lên măi, mưa bay ngang chích
vàomặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, nổi lên như núi. Mặt người nào người
nấytái mét; tuy có tơi che, quần áo họ ước mềm dính vào da, và vải đã bở sẵn,
khithấm nước rách toạc nhiều chỗ. Chú Trai, lúc năy bị sóng đánh lăn xuống
khoang,ở luôn dưới ấy tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam (#12). Hai bác chài
tới giúpsức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm,
ít bịnhồi lắc, nhưng sóng dễ tràn lên; nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi
lềnhbềnh. Theo lệnh ông lái, người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài; nhưng sóng biển,
trongmột hằn thù mai mỉa, đánh vào thuyền, trả lại. Những con cá đập lên áo các
bácchài và nằm trắng ràn rạt trên sạp, chờ một ngọn sóng tràn qua liếm đi và
thaybằng lớp khác. Thuyền nhẹ bớt, nổi hơn, nhưng v́ thế lại làm mồi thêm cho
gió,trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm (#13), buộc dây vào bốn góc, rồi
thảxuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo (#14) đã
cộtvào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớttrôi.
Đoạn, mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội, sóng nhồi,gió táp. Màn mưa
xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp khônggian. Ông nhà nghề
bảo:
- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mànhai.
Nhưng không ai trả
lời. Họ ngồi thu mình, run run trong cái lạnhcủa nước ngấm vào da thịt.
Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, và khôngc̣n một ư niệm nào về thời gian -
sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần,nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con
thuyền mệt nhọc xang đưa (#15) lừ đừ. Và khimột ánh trắng xám ló nơi chân trời,
thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai c̣nđầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong
đó ù ù như điếc. Họ không c̣n đủ sức để tỏniềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và
co rút hầu như làm tê liệt các bắpthịt.
Mầu trắng sữa liếm dần bóng tối
của ṿm trời, và mưa đã ngớt hẳn.Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến - dân
chài bảo từ Thủy phủ (#16) đùn lên -một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi
lạnh thấm thía. Người ta kéo cáineo sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào, rồi neo
thuyền cho đứng yên. Mỗi người gópmột câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở
ngang Thanh Hóa, v́ trong cơn băo,gió chướng (#17) thổi từ phía tây nam. Nhưng
c̣n cách bờ bao xa thì không aiđoán được. Một bác chài đo được hơn năm mươi sải
nước và họ biết là đã bị giạtra ngoài khơi xa lắm.
Đột nhiên, không ai
bảo ai, tất cả im lặng: họ vừangửi thấy một mùi ḱ dị, một mùi nhạt và ẩm ướt,
tanh lợm như mùi rong rêu. Rồimột bóng đen dài hiện trong sương, phía trước mặt.
Một người đoán:
-Chết, mình trôi đến cồn đá. Ra năy giờ neo rê.
Một người khácđáp:
- Neo rê thì biết liền chứ. Đó là cái thuyền, nhìn kỹ
màcoi.
Quả nhiên trong sương bóng đen rơ dần thành một chiếc thuyền,
trênđó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như
thuyềnlướt trên biển dầu. Một bác chài bắt loa miệng hỏi:
- Aiđó?
Thuyền bên kia có người đáp:
- Thuyền Xin Kính đây. Có phảithuyền ông Phó
Nhụy bên ấy không?
ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:
-Tiếng ai nhỉ? Nghe
giọng lạ gớm. Mà sao họ biết thuyền mình?
Đoạn cất caotiếng:
- Tôi
Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa tháo tố đó phải không?Có biết đây là đâu
không?
Bên kia đáp:
- Ngang Cương Gián. Giờphải đi xế lên mà vô
lạch.
Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn căi laoxao. Gió thổi từ phía
nam, sao thuyền lại giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? ông PhóNhụy lại hỏi to:
- Sao mà biết?
Bên kia có một câu trả lời ḱ quặcvà bí mật:
- Sao
lại không biết... à ḱa, nồm vừa thổi đó, ta bắt ngọngió này mau mà lên lạch.
Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giươngbuồm. Chẳng hiểu sao họ làm nhẹn và
lặng lẽ được đến thế. Ông Phó Nhụy, tuy bụngphân vân, sai kéo buồm chạy theo.
Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và c̣n in dấuvết sự hăi hùng vừa qua, người ta
không muốn rời bỏ bạn đồng hành đã gặp t́nhcờ.
Gió quá nhẹ, buồm không ăn
gió đập phần phật. Sương tạt từng luồngnhư một cơn mưa trắng. Thuyền đi trước
vẫn chỉ nom thấy dáng mờ mờ ảo ảo nhưtrong giấc mơ, với quăng cách không thay
đổi.
Chợt chú Trai kêu:
-Có ai như người trôi ḱa?
Một bác
dùng sào khều cái vật trôi lềnh bềnhđen thui và nói:
- Người thật.
Họ cúi vớt người kia lên. Tay anhta co quắp c̣n cắp chặt trong nách một cái chèo
ngắn; mặt anh ta tái nhợt, mắtnhắm nghiền, hai hàm răng cắn khít.
Một
người bảo:
- Hà hơi, hàhơi đi, hình như c̣n thở thoi thóp.
Từ bên
kia thuyền Xin Kính, tiếngngười hỏi:
- Vớt được ai đó?
Mọi người
cúi nhìn tận mặt kẻ bị nạn,nhưng không nhận ra ai. Mặt anh ta co rút nhăn nhúm
đến nỗi đã méo dệch hẳn đi.Chú Trai góp ư kiến:
- Giống như anh Hoe
Chước.
ông Phó Nhụy nóito sang thuyền kia:
- Hoe Chước!
Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Saothế được nhỉ? Hoe Chước đi bạn (#8) trên thuyền
ông Xin Kính kia mà? ông hỏito:
- Có Hoe Chước bên ấy không?
Thuyền bên kia có một im lặng ḱquặc. Chú Trai, thính tai nhất trong đám, nghe
như bên kia đang bàn căi gì láonháo. Chú bỗng kêu lên:
- Ô ḱa, đâu mất
rồi?
Thuyền ông Xin Kínhvừa biến đi, như vụt chìm xuống đáy biển. Cái
bóng cả thuyền lẫn buồm, đen nhờnhờ, chỉ c̣n để lại một khoảng trống không trắng
toát, khoảng trắng ấy nḥa dầnvào màu sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó
Nhụy, mọi người câm lặng, timbóp chặt trong một lo âu ghê rợn, mở to mắt nhìn
trân trân.
Chú Trai lạikêu:
- Có tiếng gì om om lạ gớm?
Cùng một lúc, tất cả ai nấy đềunhận ra quả có tiếng sóng đánh pḥm phọp âm âm
như vỗ vào hang hốc. Ngay trướcmặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ
cách thuyền vài chục thước. Tứcthời, ông lái nhảy bổ tới, túm lấy lèo, giằng
riết. Chiếc thuyền quặt mũi về bêntrái, có một phút do dự rồi tiến theo ngả mới.
Các bác chài vội chạy đi trachèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong
sương, rồi biến đi. Ông PhóNhụy thở phào: thuyền ông vừa suưt đâm phải núi đá.
Khi thuyền ông PhóNhụy, sau một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về tới lạch,
thì anh Hoe Chướchơi tỉnh. Anh kể rằng trong cơn băo, thuyền ông Xin Kính bị
sóng đánh giạt vàonúi đã vỡ tan tành, và có lẽ chỉ mình anh sống sót, v́ đã vớ
được một cây chèonhảy trước xuống biển. Những người kia, sau đó, nếu có nhảy
khỏi thuyền cũng đămuộn và bị sóng quật vào lèn đá (#19) đến ră xương.
Vợ
họ nay vẫn sốngtrong góa bụa - có người đã chết. Và cái hy vọng mong manh một
ngày trở về củangười thân cũng đã tắt trong họ từ lâu.
Chú thích:
(1-)Cố: tiếng dùng gọi người già.
(2-) Cái nố ta: lũ chúng.
(3-)
Dươnggian: cơi dương (đối lập với cơi âm), thế giới người sống.
(4-)
Huyễntưởng: mơ tưởng, ư tưởng viển vông, không có thực (gần giống như ảotưởng).
(5-) Tai ương (như tai họa): điều rủi ro, gây nên tổn thất, đaukhổ lớn.
(6-) Mồ ma: thời c̣n sống của một người nào đó đămất.
(7-) Lạch: đường
nước chảy hẹp, thông ra sông, biển.
(8-)Neo: vật nặng buộc vào dây thả
chìm dưới nước để giữ cho tàu, thuyền đỗ lại,không trôi.
(9-) Tố: gió
mạnh đổi chiều đột ngột xảy ra trong cơngiông.
(10-) Vát: lệch, xiên
chéo.
(11-) Cuồng lộng: gió thổi điêncuồng ở nơi trống trải.
(12-)
Mu sam: mu con sam, cứng và lơm, có thểdùng làm gầu múc nước.
(13-) Xở:
gỡ; xở buồm: gỡ buồm.
(14-) Lèo:dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều
khiển buồm.
(15-) Sang đưa: đưaqua đưa lại; đung đưa.
(16-) Thủy
phủ (như thủy cung): nơi ở của thủythần, Long vương.
(17-) Gió chướng:
gió ngược, thổi từ phíatây.
(18-) Đi bạn: người đi làm thuê cho vụ, việc.
(19-) Lèn đá:núi đá có vách dựng đứng.