Phải mất tới vài phút Jessica mới chấp nhận khả năng họ đang ở Peru là hoàn toàn có thật – điều mà Nicky vừa nói với nàng. Không, làm gì có chuyện đó! Chắc chắn chúng không đủ thời gian làm như thế. Nhưng gạt bỏ những giả định cũ, và khi trí nhớ của ngàng đã trở lại, khả năng ấy lớn dần lên. Nàng tự lý giải, liệu có khả năng là nàng, Nicky và Angus đã bất tỉnh trong khoảng thời gian dài hơn nàng nghĩ, ngay cả khi nàng cho rằng họ có thể đang ở một bang ở miền Nam nước Mỹ không? Rõ ràng là có. Nhưng nếu đây quả thực là Peru, thì chúng đưa họ tới đây bằng cách nào? Đưa ba người đang bất tỉnh nhân sự ra khỏi nước Mỹ một cách lén lút đâu phải dễ dàng? Đột nhiên nàng nhớ lại! Một hình ảnh rõ ràng, sắc nét mà nàng hoàn toàn quên mất cho tới lúc này. Trong thời gian ngắn ngủi mà nàng vật lộn và làm thằng “mặt rạch” bị thương… trong khoảnh khắc tuyệt vọng đó, nàng nhìn thấy hai chiếc áo quan trống rỗng, một chiếc nhỏ hơn chiếc kia. Hình ảnh khủng khiếp đó làm nàng tin rằng nàng và Nicky sẽ bị giết chết! Nhưng lúc này Jessica rùng mình nhận ra rằng họ chắc đã bị nhét trong những chiếc áo quan đó và đưa tới đây giống như đưa người chết! Ý nghĩ đó khủng khiếp đến nỗi nàng không dám, không thể nghĩ đến nó, mà tự buộc mình nghĩ đến cái hiện tại, mờ mịt và đau đớn này. Tay bị trói giật sau lưng, Jessica, Nicky, và Angus vẫn phải cuốc bộ, bước thấp bước cao trên lối mòn hai bờ cây cỏ rầm rì. Một vài đứa cầm súng đi trước, những đứa khác đi sau. Mỗi khi thấy họ có vẻ đi chậm lại, mấy thằng đi sau thúc báng súng vào họ, miệng hét “Andale! Apurese!” (1) Trời đang nóng. Nóng không tưởng tượng được. Người họ đẫm mồ hôi. Jessica cuống cuồng lo sợ cho hai ông cháu. Bản thân nàng cũng đang bị nhức đầu ghê gớm, buồn nôn, lại còn thêm tiếng côn trùng kêu ra rả. Cảnh này sẽ kéo dài bao lâu? Nicky đã nói với nàng là họ sẽ tới một con sông. Chắc không bao lâu nữa họ sẽ tới đó. Phải rồi, Jessica nghĩ, điều gã nọ bảo Nicky chắc chắn là đúng! Đây đúng là Peru, và nàng những muốn khóc khi nhận ra rằng họ đang ở cách xa nước Mỹ biết bao, và cơ may được cứu thoát nhỏ bé làm sao. Đất loét nhoét dưới chân làm nàng lê bước càng khó khăn hơn. Bỗng nàng nghe tiếng kêu thét ở ngay sau lưng, tiếng ồn ào rồi tiếng người ngã gục. Ngoảnh lại, nàng thấy Angus ngã sấp mặt xuống bùn. Ông già cố đứng dậy với vẻ cứng cỏi, nhưng không được vì tay bị trói. Bọn mang súng đứng phía sau cười hô hố. Một thằng lao tới, sẵn sàng đâm mũi súng vào lưng Angus. Jessica hét lên: “Không! Không! Không được làm thế!”. Tiếng hét làm hắn giật mình khựng lại; và trước khi hắn kịp trấn tĩnh, Jessica chạy lại và quỳ xuống cạnh ông. Nàng cố giữ thẳng người, ngay dù tay nàng đang bị trói, nhưng không thể giúp Angus đứng dậy được. Gã cầm súng tiến lại phia nàng với vẻ tức giận, nhưng dừng ngay lại khi nghe tiếng quát giật giọng của Miguel. Từ phía đầu hàng, Miguel xuất hiện, cùng Socorro và Baudelio đi phía sau hắn. Trước khi mọi người lên tiếng, Jessica nói giọng nghẹn ngào: “Thì chúng tôi là tù nhân của ông. Chúng tôi chẳng biết tại sao, nhưng chúng tôi biết là không thể bỏ trốn được, và ông cũng biết điều đó. Vậy thì cần gì phải trói tay chúng tôi? Chúng tôi chỉ muốn có một điều là tự giữ mình khỏi ngã. Ông cũng thấy điều gì xảy ra khi chúng tôi bị trói. Xin ông hãy rủ lòng thương. Xin ông cởi trói cho chúng tôi”. Lần đầu tiên Miguel tỏ ra do dự, nhất là khi Socorro nói nhỏ: “Nếu bọn họ bị gãy chân tay hay xây sát là sẽ bị nhiễm trùng. Mà ở Nueva Esperanza, chúng ta không có phương tiện chữa nhiễm trùng đâu”. Đứng cạnh Socorro, Baudelio chen vào: “Cô ấy nói đúng đấy”. Với cử chỉ sốt ruột, Miguel ra lệnh bằng tiếng Tây Ban Nha. Một gã cầm súng bước lên trước – chính là gã đã giúp Nicky khi còn ở trên xe. Hắn rút con dao đeo trong bao gắn ở thắt lưng và cúi xuống phía sau Jessica. Nàng cảm thấy dây trói tay nàng lỏng ra rồi rơi xuống đất. Sau đó tới lượt Nicky, Angus được vực dậy khi cắt dây trói. Sau đó Jessica và Nicky giúp ông đứng dậy. Họ lại đi tiếp trong tiếng quát tháo ra lệnh ầm ĩ. Năm phút vừa qua, mặc dù lòng dạ chẳng yên, Jessica cũng biết được vài chuyện. Trước hết, nàng biết nơi họ sẽ đến là Nueve Esperanza, mặc dù cái tên đó chẳng có ý nghĩa gì đối với nàng. Hai là gã có vẻ thân thiện với Nicky tên là Vicente – nàng nghe chúng gọi tên hắn khi hắn cắt dây trói cho họ. Ba là, ả đàn bà cùng đi với Miguel, cũng chính là ả đã đánh nàng trong lán lúc trước, có vẻ biết đôi chút về nghề y. Gã mặt bị cắt cũng vậy. Một trong hai đứa, mà cũng có thể cả hai là bác sĩ. Nàng cố ghi nhớ trong đầu những thông tin đó, vì bản năng mách nàng rằng sau này chúng có thể giúp ích nàng. Mấy phút sau, khi đoàn người đang men theo khúc lượn của lối mòn, thì trước mặt họ hiện ra một con sông rộng. ° Miguel còn nhớ, trong những ngày hắn mới trở thành tín đồ của thứ hư vô chủ nghĩa, hắn có đọc trong sách nói rằng một tay khủng bố muốn thành đạt phải gột sạch mọi thứ tình cảm thông thường của con người và chỉ đạt được mục đích của mình khi làm cho những kẻ chống lại ước muốn của mình phải khiếp sợ. Ngay cả lòng thù hận, đôi khi tạo cho những người khủng bố niềm đam mê đầy bệnh hoạn, lại rất dễ dẫn họ đến chỗ thái quá, ảnh hưởng đến sự xét đoán của họ. Trong nghề khủng bố, Miguel không những theo đúng những lời răn dạy ấy, mà còn bổ sung thêm điều nữa, đó là hành động và hiểm nguy là chất kích thíc kẻ khủng bố. Bản thân hắn cần nó không khác gì dân nghiện cần ma tuý. Việc này giải thích tại sao hắn lại cảm thấy chán ngán với những gì sắp tới. Suốt bốn tháng trời, bắt đầu là việc đáp máy bay qua London, dùng hộ chiếu giả để vào Mỹ, hắn thấy phấn chấn trước những mối nguy hiểm thường xuyên, với việc hoàn tất kế hoạch có ý nghĩa sống còn; gần đây hơn là dư vị ngây ngất của thành công, và trên tất cả là thường xuyên cảm giác để có cơ may sống sót. Nhưng lúc này, ở tít trong rừng sâu của Peru này, các mối nguy hiểm lại ít hơn. Mặc dù luôn có khả năng quân chính phủ đột nhiên xuất hiện, xả súng liên thanh, rồi lục vấn sau đó, nhưng các loại áp lực khác hầu như ít hoặc không có. Thế nhưng Miguel đã ký hợp đồng sẽ ở lại đây, hay ít ra là ở lại Nueva Esperanza – một làng nhỏ mà hôm nay chúng sẽ tới – một thời gian dài không biết đến bao giờ, bởi vì khi ký hợp đồng với cácten Medellin, Miguel không biết. Hắn cũng không biết tại sao mấy người này lại bị bắt cóc, và sau khi đã mang họ tới đây sẽ làm gì tiếp. Hắn chỉ biết phải canh gác họ thật chặt chẽ; có lẽ thế nên hắn mới phải ở lâu đến vậy, vì hắn có tiếng là đáng tin cậy. Còn mọi chuyện khác có lẽ đều nằm trong tay của Abimael Guzman, mà ngày nay Miguel nghĩ là một tên điên khùng, là người sáng lập Sendero Luminoso và tự cho mình là chúa Giêsu mao-ít thuần khiết. Tất nhiên là nếu như Guzman vẫn còn sống. Tin đồn hắn đã chết hoặc hãy còn sống cũng rất nhiều, và không đáng tin cậy, giống như mưa rừng vậy. Miguel rất ghét rừng rậm, mà dân Peru gọi là Selva; ghét cái ẩm ướt như thấm vào da thịt, mùi gỗ mục, mùi rêu phong… cái cảm giác tù túng, tựa như đám cây cỏ um tùm đan xít nhau kia đang khép dần lại…; tiếng côn trùng nghe rát tai như không bao giờ dứt, đến nỗi ta chỉ muốn có một phút giây yên lặng và thư thái…; rồi lại còn một lô rắn rết luồn lách không một tiếng động mà nghĩ đến đã thấy tợn người! Mà rừng rộng mênh mông, gần gấp đôi bang California, chiếm tới ba phần năm diện tích Peru, nhưng lại chỉ có 5% dân số nước này sống ở đó. Người Peru thích nói có ba nước Peru: đó là khu vực bờ biển kéo dài cả ngàn dặm với những thành phố, những bãi tắm và những khu buôn bán sầm uất; đó là vùng núi phía nam dãy Andes, với những đỉnh cao hùng vĩ sánh với dãy Himalaya và là khu vực còn lưu giữ lịch sử và truyền thống của bộ tộc da đỏ Inca; cuối cùng là khu rừng này, tức là Selva Amazon đầy vẻ hoang sơ và các bộ lạc da đỏ cư trú. Ừ thì cái chứ nhất và cái thứ hai Miguel còn có thể chấp nhận với đôi chút thích thú, nhưng không gì có thể thay đổi lòng căm ghét của hắn với cái thứ ba. Khu rừng thật asquerosa (2). Ý nghĩ của hắn quay về Sendero Luminoso, tức là “Con đường sáng” tới cách mạng; cái tên này lấy trong các bài viết của nhà triết học mác xít quá cố, Jose Carlos Mariategui. Năm 1980, Abimael Guzman bước theo con đường đó, rồi chẳng bao lâu tự phong mình là “thanh kiếm thứ tư của cách mạng thế giới”, ba người trước là Mác, Lênin và Mao Trạch đông. Tât cả những nhà cách mạng khác đều bị Guzman khinh bỉ gọi là những quân lường gạt xấu xa, trong đó gồm cả những người kế tục Lênin ở Nga và Castro ở Cuba. Quân du kích Sendero Luminoso tin là họ sẽ lật đổ chính phủ hiện hành và sẽ cầm quyền ở Peru. Nhưng không phải là nhanh cóng, phong trào này tuyên bố là phải tính bằng thập kỷ, chứ không phải bằng năm. Nhưng Sendero Luminoso hiện đã có lực lượng mạnh, có đội ngũ lãnh đạo và sức mạng ngày càng tăng, nếu Miguel mong được thấy điều đó khi mình còn sống không phải trong cái khu rừng idiasa (3) này. Tuy nhiên vào lúc này, Miguel còn đợi chỉ thị về đám tù nhân; những chỉ thị đó chắc sẽ được phát đi từ Ayacucho, một thị trấn lịch sử ở chân dãy Andes là nơi Sendoro hầu như kiểm soát hoàn toàn. Mà Miguel đâu cần biết kẻ nào ra lệnh, miễn là hắn sẽ nhanh chóng được hành động, thế thôi. Bây giờ con sông Huallaga đang ở ngay trước mặt, mộ khoảng trống đột ngột hiện ra giữa chốn rừng già khép kín. Hắn đứng lại xem xét con sông. Nó cuồn cuộn chảy, mang theo đất phù sa đỏ quạch của vùng núi Andes về nơi hội tụ với con sông Maranon cách đó chừng ba trăm dặm, để rồi sau đó đổ về Amazon hung dữ. Cách đây nhiều thế kỷ, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đã đặt cho toàn bộ vùng Amazon này cái tên O Rio Mar, có nghĩa là Hải Hà. Khi đến gần hơn, Miguel thấy hai chiếc thuyền bằng gỗ, mỗi chiếc dài chừng ba mươi lăm bộ, có hai động cơ đang buộc gần bờ sông. Gustavo, cầm đầu toán người đã đón họ ở đường băng đang ra lệnh chuyển đồ mà chúng mang tới xuống thuyền. Hắn cũng phân chia số người xuống thuyên. Đám tù binh sẽ đi chiếc thứ nhất. Miguel gật đầu tán thành việc Gustavo cắt hai lính gác canh chừng quân chính phủ đột ngột xuất hiện trong khi những đứa khác chuển đồ. Hài lòng với những việc đang làm, Miguel thấy không cần phải can thiệp. Đến Nueva Esperanzo, hắn sẽ lại nắm toàn quyền chỉ huy. Với Jessica, con sông này làm tăng thêm cảm giác biệt lập với thế giới bên ngoài, nó giống như chiếc cửa cô quạnh mở ra một thế giới vô định không còn gắn gì với thế giới phía sau. Nàng, Nicky và Angus bị xua bằng báng súng, lội xuống dòng nước ngập đến gối để lên thuyền; sau khi vào thuyền, họ được lệnh ngồi xuống khoang thuyền ẩm ướt làm bằng những tấm gỗ gác ngang gần đằng mũi. Nếu muốn họ có thể tựa lưng vào một tấm gỗ cao giữa hai mạn thuyền; nhưng đó cũng chỉ là một sự lựa chọn giữa hai thế giới rất gò bó mà họ không thể chịu lâu được. Tới lúc đó, Jessica nhận thấy mặt Nicky xám ngoét người bỗng run rảy vì nôn mửa. Ngực nó thóp lại, nhưng không nôn ra cái gì trừ một ít đờm nhãi. Jessica xích lại gần và dỡ nó, đồng thời cuóng cuồng nhìn quanh cầu cứu. Nàng vừa thấy “mặt cắt” từ bờ lội ra và đang ở cạnh thuyền. Trước khi Jessica kịp lên tiếng, mụ đàn bà mà trước đó nàng gặp mấy lần xuất hiện và “mặt cắt” ra lệnh: “Cho chúng nó uống nhiều hơn, trước tiên là thằng bé kia”. Socorro đổ nước đầy chiếc ca nhôm và đưa cho Nicholas, nó vồ lấy uống ừng ực; uống xong, người nó đỡ run hơn. Rồi nó nói, giọng yếu ớt: “Cháu đói”. “Ở đây không có đồ ăn”, Baudelio bảo. “Mày sẽ phải đợi”. “Thể nào cũng có cái gì ăn được chứ?”, Jessica phản đối. “Mặt cắt” không trả lời, nhưng cái lệnh cho họ uống nước đã xác định rõ địa vị của hắn, vì vậy Jessica nói, giọng trách móc: “Thì ra ông là bác sĩ!”. “điều đó không liên quan gì đến bà”. “Và hắn là người Mỹ đấy”, Angus nói thêm: ‘Cứ nghe giọng hắn mà xem!”. Ca nước có vẻ làm Angus tỉnh táo và ông xoay qua Baudelio nói: “Đúng không, đồ con hoang ghê tởm? Mày không thấy nhục sao?”. Baudelio quay người, trèo lên chiếc thuyền kia. “Cho cháu ăn, cháu đói”, Nicky nhắc lại. Nó quay sang phía Jessica “Mẹ ơi, con sợ”. Jessica lại ôm con, thú nhận: “Mẹ cũng sợ, con ạ”. Nghe hai mẹ con, Socorro có vẻ do dự. Sau đó, ả thò tay vào túi đang đeo lấy ra mộ thanh sôcôla to mang hiệu Cadbury. Không nói không rằng, ả bóc giấy, bẻ khoảng sáu bảy miếng nhỏ và đưa cho mỗi người hai miếng. Ả đưa cho Angus sau cùng, nhưng ông già lắc đầu nói: “Hãy đưa phần tôi cho thằng bé”. Socorro làu nhàu khó chịu, sau đó hứng lên ném cả thanh sôcôla vào trong thuyền. Nó rơi gần chân Jessica. Trong khi đó, Socorro bỏ đi, qua chiếc thuyền thứ hai. Mấy thằng mang súng khi trước cùng đi trên xe và trên đường trèo vào chiếc thuyền họ đang ngồi, rồi cả hai bắt đầu chạy. Jessica nhận thấy mấy đứa khác trên thuyền cũng đều mang súng. Ngay cả hai đứa ngồi điều khiển động cơ đằng sau thuyền cũng gác súng ngang đùi, trông có vẻ sẵn sàng dùng đến nó. Cơ hội trốn thoát, nếu như có nơi nào mà trú, xem ra không thể có được. ° Trong lúc hai thuyền chạy ngược dòng sông, Socorro tự giận mình vì những việc ả vừa làm. Ả hy vọng không ai thấy, vì đưa cho bọn tù binh loại sôcôla ngon không kiếm được ở Peru là một dấu hiệu của sự yếu đuối, của lòng thương ngu xuẩn - là thứ tình cảm đáng khinh đối với một người “cách mạng”. Vấn đề là trong con người ả có những giây phút dao động, sự giằng kéo trong tinh thần. Mới cách đây chưa được một tuần, Socorro đã tự nhắc mình phải cảnh giác với cái thứ tình cảm tầm thường. Đó là cái đêm ngay sau vụ bắt cóc, khi người đàn bà mang họ Sloane, thằng bé và ông già còn đang mê man bất tỉnh trong phòng y tế trên tầng hai ngôi nhà khu Hackensack. Lúc đó Socorro cố hết sức căm thù bọn bị bắt, mà ả thầm gọi là vico bourgeois scum (4) và bây giờ cũng vẫn còn ghét. Nhưng khi đó ả đã buộc mình căm ghét, và ngay cả lúc này cũng vậy, điều mà ả nghĩ không thể nào hiểu nổi. Mới sáng nay, trong chiếc lán cạnh đường băng, khi người phụ nữ nhà Sloane này hỏi một câu sau khi đã có lệnh im lặng của Miguel, Socorro cố tình tát chị ta lăn ra đất. Lúc ấy, tin là Miguel đang theo dõi, Socorro chỉ cố tỏ ra ngừoi giữ nghiêm mệnh lệnh. Nhưng ngay sau đó, ả cảm thấy xấu hổ vì việc đã làm. Xấu hổ ư! Ả không được cảm thấy như thế! Socorro tự nhủ: cần phải kiên quyết bỏ lại phía sau vĩnh viễn ký ức về những gì ả yêu thích – không, phải nói là tự dối mình – trong ba năm ở Mỹ. Ả phải ghét, căm ghép, căm thù nước Mỹ. Và cả những tù binh này nữa. Ngay sau đó, khi có thuyền lướt trên dòng sông giữa đôi bờ cây xanh rậm rạp không một bóng người, ả thiếp đi. Chừng ba tiếng sau khi khởi hành, thuyền đang chạy chậm lại, rồi rẽ từ sông lớn vào một dòng suối nhỏ hơn; càng vào sâu suối càng hẹp lại với hai bờ dốc dựng đứng. Socorro nghĩ sắp tới Nueva Esperanza, ả tự trấn an rằng ở đó, ả sẽ tăng cường hơn nữa cái nhiệt huyết “cách mạng” của ả. Nhìn con thuyền phía trước chạy dọc thung lũng kéo dài từ con sông Huallaga, Baudelio biết cuộc hành trình này sắp kết thúc, nên hắn rất mừng. Hợp đồng của hắn trong chuyến này cũng xong và hắn hy vọng chẳng lâu nữa sẽ có mặt tại Lima. Họ đã hứa với hắn, ngay khi mấy người tù tới nơi trong tình trạng khoẻ mạnh, ngay cả khi trời nóng ẩm đến ghê người như thế này. Như thể xui khiến bởi ý nghĩ của hắn, bầu trời bỗng nhiên tối sầm lại, kéo theo một trận mưa như trút làm mọi thứ ướt đẫm, sũng nước. Mặc dù đã nhìn thấy bến, nơi đó có mấy chiếc thuyền nữa, thuyền của hắn mới cập bến; cả tù nhân lẫn người áp tải chỉ còn mỗi việc là ngồi chịu trận dưới mưa. Baudelio thờ ơ với mưa gió; những ngày này hắn thờ ơ với mọi chuyện hắn gặp; thí dụ như lời thoá mạ của công già và người phụ nữ nhà Sloane kia. Đã từ lâu, hắn chẳng thèm để tâm đến những điều như vậy, và những tình cảm nhân đạo mà hắn đã từng thể hiện với người bệnh của hắn cũng đã chết từ lâu. Điều lúc này hắn thực sự mong mỏi là được uống rượu, uống đã đời, hắn muốn uống cho say bí tỷ luôn. Hắn vẫn phải uống những viên Anabuse là loại thuốc làm cho kẻ uống rượu ốm lăn ốm lóc – Miguel ngày nào cũng tự tay đưa và bắt tay bác sĩ nát rượu uống một viên – nhưng Baudelio định bụng sẽ thôi uống cái viên thuốc ấy ngay khi hắn và Miguel chia tay, điều mà hắn nghĩ cũng không còn là lâu nữa! Baudelio còn một thèm muốn khác; đó là cô bồ của hắn ở Lima. Hắn biết ả là một con dâm đãng, đã từng là gái điếm, cũng nát rượu như hắn, nhưng trong bao nhiễu nhương của cuộc đời chìm nổi của hắn, ả là tất cả những gì hắn có, vì vậy hắn thấy nhớ ả. Chính vì nỗi cô đơn trống rỗng ấy đã khiến hắn lén dùng chiếc điện thoại ở ngôi nhà khu Hackensack gọi cho ả. Điều này trái với lệnh của Miguel, thành thử lúc ấy hắn đâm lo, chỉ sợ Miguel biết. Nhưng hắn nhẹ người, vì hình như không ai để ý đến cú điện thoại ấy. Ôi, hắn cần uống rượu làm sao! Thỏi sôcôla tuy không thay được thức ăn nhưng cũng làm đỡ đói. Jessica cứ cố nghĩ không hiểu sao ả mặt khó đăm đăm ấy lại hứng lên cho cả thỏi sôcôla, chỉ có điều nàng nhận thấy ả là một người tính khí không biết đâu mà lường trước được. Nàng giấu thỏi sôcôla trong túi áo, để bọn đeo súng trên thuyền khỏi nhìn thấy. Trong lúc thuyền chạy, Jessica đưa cho Nicky phần to, nàng cũng ăn một chút và nhất định buộc Angus cũng phải ăn. Nàng nói nhỏ với ông rằng điều quan trọng là phải giữ sức, mà rõ ràng là sức lực của họ đang cạn dần sau chặng đi bằng xe tải, đi bộ đến đứt hơi qua rừng và sau mấy tiếng ngồi trên thuyền. Về việc ba người bất tỉnh trong bao lâu, Jessica chợt nghĩ ra, căn cứ vào bộ râu không cạo của Angus. Trước đó nàng không để ý, nhưng đám râu bạc không cạo trên mặt ông nay trông quá dài. Nghe nàng nhận xét, Angus lấy tay sờ mặt và ước đoán có lẽ cũng phải bốn hay năm ngày ông chưa cạo. Đến lúc này, có lẽ điều đó cũng không quan trọng, nhưng nàng vẫn đang thu thập mọi loại thông tin; đó chính là lý do tại sao nàng luôn cố tỉnh táo trong suốt chặng đường trên sông. Không thể thấy gì khác ngoài cây cối um tùm dọc hai bờ sông ngoằn ngoèo uốn khúc, hầu như không có đoạn nào thẳng. Đôi lúc cũng thấy những chiếc ca nô chạy ở phía xa, nhưng không có chiếc nào tới gần. Suốt chặng đường đi, Jessica thấy người ngứa ran. Lần đầu tỉnh lại khi đang ngồi trên sân lán, nàng biết có con gì đó đang bò trên người. Bấy giờ nàng nhận ra đó là bọn bọ chó đang liên tục đốt nàng. Song vì không thể cởi quẩn áo ra, nên chẳng có cách nào mà bắt chúng. Nàng hy vọng dù có bị đưa tới đâu đi nữa, chắc ở đó cũng có đủ nước để nàng có thể tắm rửa và thoát lũ bọ chó này. Cũng như mọi người, Jessica, Nicky và Angus đều ướt như chuột lột trong trận mưa xối xả ngay trước lúc cập bến ở Nueva Esperanza. Nhưng đúng lúc thuyền cặp mạn ghé vào kè gỗ, đột nhiên mưa tạnh. Cũng chính vào lúc đó, cả ba người ngán ngẩm khi thấy vùng đất cấm khủng khiếp ở trước mặt. Con đường ghồ ghề, lầy lội từ bờ sông dẫn tới một dãy khoảng hơn hai chục nóc nhà ọp ẹp, trong đó một số chỉ là những lều tạm bợ cột tre, vách bằng gỗ đóng thùng hàng và mái sắt tây han gỉ. Hầu hết là nhà không có cửa sổ, mặc dù hai nhà có vẻ như chỗ có cửa hàng. Mái lá không được sửa sang, nhiều chỗ hở toang hoác. Vỏ đồ hộp và rác rưỡi vất đầy khu xung quanh. Mấy con gà gày guộc chạy nháo nhác. Ở phía bên kia, lũ diều hâu đang rỉa thịt con chó chết. Liệu vào sâu nữa có gì khá hơn không? Câu trả lời đáng sợ nằm ngay trên con đường mấp mô, lúc này đang đầy bùn đất dẫn ra khỏi thôn, đi ngược lên đồi. Ngoài mấy nóc nhà đã thấy khi trước, không có gì khác ngoài rừng rậm bao quanh. Con đường biến mất trên đỉnh đồi. Về sau, Jessica và hai người kia mới biết Nueva Esperanza thực ra là một xóm chài, nhưng Sendero Luminoso thỉnh thoảng dùng nó khi cần lẩn trốn. “Vayaanse a tierra! Muevanse! Aruense!” (5), Gustavo quát mấy người bị bắt, đồng thời ra hiệu bảo họ đi. Lòng buồn rười rượi, lo sợ những điều sắp tới, Jessica và hai ông cháu tuân theo. Những gì xảy ra sau đó hai phút lại còn tồi tệ hơn điều họ sợ. Gustavo cùng bốn thằng nữa mang súng giải họ đi ngược con đường mòn lầy lội, rồi đẩy họ vào một túp lều cách xa bờ sông nhất. Vào trong lều, họ phải mất mấy phút mới quen với bóng tối mờ mờ. Jessica rên rỉ: “Ôi, lạy Chúa, không được! Các ông không thể nhốt chúng tôi ở trong cũi như thú vật được! Xin các ông đừng làm thế”. Ở phía trong cùng, nàng thấy ba chiếc cũi liền nhau rộng khoảng tám bộ vuông. Những thanh tre mỏng nhưng chắc buột chặt với nhau thay cho song sắt. Hơn nữa, giữa các cũi chằng dây thép gai để ngăn không cho người bị nhốt thò tay hoặc đưa gì cho nhau. Trước mỗi cũi là một thanh sắt cài có khoá to. Bên trong cũi là một giường gỗ thấp có trải đệm mỏng đầ bụi đất; cạnh giường là một chiếc xô tráng men có lẽ dùng làm bô. Túp lều sực mùi hôi hám. Trong lúc Jessica cầu xin và phẩn uất, Gustavo túm lấy nàng. Mặc dù nàng giằng kéo giãy giụa, bàn tay hắn cứng như thép. Xô nàng về phía trước, hắn ra lệnh “Vete pasa adentro!”. Sau đó ngập ngừng nói bằng tiếng Anh: “Bà vào trong đó”. “Trong đó” chính là chiếc cũi xa cửa nhất, nói xong hắn thô bạo đẩy nàng vào. Nàng ngã giúi vào tường; cửa cũi đóng lại, và nàng nghe tiếng khoá sập vào. Từ phía bên kia, tiếng giằng co và phản đối của Angus vọng lại, nhưng ông đành chịu để chúng đẩy vào và khoá cửa cũi. Nàng nghe tiếng Nicky thút thít khóc ở cũi bên cạnh. Những giọt nước mắt giận dữ, tuyệt vọng chảy dài trên má nàng. Chú thích: 1 Đi đi! Nhanh lên. 2 Tởm lợm. 3 Đáng ghét. 4 Tầng lớp tư sản giàu có. 5 Lên bờ! Vận động lên! Nhanh!