Partridge biết anh đã tính toán sai. Họ đã bi chậm rất nhiều.
Cái anh không tính tới khi chọn Sion thay vì chọn điểm hẹn gần hơn là xuồng gặp sự cố. Việc đó xảy ra khoảng hai tiếng sau khi rời Nueva Esperanza, tức là còn một tiếng nữa mới đến chỗ họ bỏ thuyền lên bờ và bắt đầu đi bộ tới điểm đỗ máy bay.
Cả hai máy vẫn đang hoạt động bình thường tuy kêu hơi to, thì bỗng chuông trong máy bên trái xuồng réo ầm lên, Ken O’Hara lập tức giảm ga, về số không, và tắt máy. Chuông và máy đều im lặng.
Chiếc máy ở mạn phải vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng lúc này xuồng chạy chậm hẳn lại.
Partridge bước về phía cuối xuồng và hỏi O’Hara: “Sao thế? Liệu có sửa được không?”.
“Tôi e rằng không”, O’Hara trả lời. Anh đã tháo nắp máy và đang xem xét bên trong. “Máy nóng quá, vì thế chuông báo. Nước làm mát máy rất trong, chứng tỏ bơm đã hỏng. Cho dù tôi đủ dụng cụ tháo rời máy ra, có thể vẫn cần phụ tùng thay thế. Mà chúng ta không có cả hai thứ…”. Anh bỏ lửng không nói hết câu.
“Tức là chắc chắn không thể chữa được nữa?”.
O’Hara lắc đầu: “Rất tiếc là vậy, Harry ạ”.
“Nếu cứ cho chạy tiếp thì sao?”.
“Máy sẽ hoạt động một thời gian ngắn, rồi lại bị nóng. Sau đó máy quá nóng, pittong và xilanh chảy dính với nhau. Rồi chỉ còn mỗi một việc là quẳng ra bãi rác”.
“Cho chạy đi”, Partridge bảo. “Nếu không còn cách nào khác, cứ chạy được chừng nào hay chừng ấy”. “Được thôi, anh là thuyền trưởng mà”, O’Hara trả lời, mặc dù anh rất ghét làm hỏng chiếc máy, mà giá ở hoàn cảnh khác vẫn chữa chạy được.
Đúng như O’Hara nói, máy hoạt động được vài phút, rồi chuông réo ầm ĩ và có mùi khét lẹt. Sau đó nó ngừng và không sao khởi động lại được nữa. Xuồng lại chậm lại và Partridge lo lắng nhìn đồng hồ.
Anh có thể thấy tốc độ xuồng chỉ còn bằng nửa khi trước. Như vậy quãng sông còn lại họ sẽ phải đi hết hai tiếng chứ không phải một tiếng.
Thực tế phải mất tới hai giờ mười lăm phút, và lúc này đã là sáu giờ năm mươi phút sáng; họ đã thấy chỗ bỏ xuồng lên bờ. Partridge và Fernandez nhận ra nó trên tấm bản đồ tỷ lệ lớn, đồng thời căn cứ vào dấu hiệu người trước để lại – ống bơ nước ngọt và mảnh chai vỡ vứt đầy trên bờ. Bây giờ họ sẽ phải lết hết đoạn đường rừng khó khăn tới đường băng Sion trong vòng một tiếng, ngắn hơn thời gian dự tính rất nhiều. Liệu họ có làm nổi không?
“Chúng ta phải đến kịp”, Partridge nói, rồi giải thích cho Jessica và Nicky biết. “Có thể sẽ rất mệt, nhưng không còn thời gian nghỉ nữa, và nếu cần, chúng ta sẽ phải giúp nhau mà đi. Fernandez sẽ đi trước, tôi đi sau cùng”.
Mấy phút sau, mũi xuồng sát trên cát và họ lội vào bờ. Ngay trước mặt là một khoảng trống trong vùng rừng rậm dày đặc.
Giá có nhiều thời gian, Partridge có lẽ đã tìm cách giấu xuồng đi, hoặc đẩy nó ra giữa sông cho trôi xuôi. Còn bây giờ, nó đang nằm ngay gần bờ.
Sau đó, sắp sửa vào rừng, Fernandez bỗng dừng lại, ra hiệu mọi người im lặng. Anh nghiêng đầu, đứng nghe trong bầu không khí ban mai yên tĩnh. Anh quen thuộc rừng hơn những người kia, anh nghe rõ các loại âm thanh khác nhau. Anh hỏi nhỏ Partridge “Anh nghe thấy không?”.
Lắng tai nge Partridge nghĩ anh nghe thấy tiếng ì ầm đằng xa, phía họ vừa đến, nhưng không biết là gì. Anh hỏi: “Tiếng gì thế nhỉ?”.
“Một thuyền khác đang chạy”, Fernandez trả lời: “Cũng còn cách khá xa, nhưng chạy rất nhanh”.
Không trù trừ, mọi người đi vào rừng.
*
Lối mòn này không đến nỗi khó đi như con đường rừng từ điểm đậu máy bay trên đường ô tô tới Nueva Esperanza mà Partridge và các thành viên của nhóm đã đi trước đó ba ngày. Rõ ràng lối này có nhiều người qua lại hơn, vì cỏ chỉ hơi rậm một chút và không có chỗ nào mất dấu như đường kia.
Thế nhưng qua được cũng không phải dễ. Mặt đất gồ ghề rễ trồi lên, và ở những chỗ mềm mềm có thể bị thụt xuống bùn hoặc vũng nước, rất khó nhấc chân.
“Nhìn cẩn thận rồi hãy bước”, Fernandez nhắc mọi người. Anh ta đang đi phía trước, chân bước phăng phăng.
Partridge hoạ theo, cố làm bộ vui vẻ, phấn chấn: “Chúng tôi không muốn phải cõng ai đâu nhé. Tôi đang toát hết cả mồ hôi!”.
Ai cũng đều thế cả. Cũng như lần họ tới đây, trong rừng nóng ngột ngạt như nồi hầm và càng về trưa càng nóng hơn. Các loài sâu bọ cũng hoạt động mạnh hơn.
Đầu óc Partridge luôn bận rộn với câu hỏi: Jessica và Nicky sẽ chịu đựng chuyến đi vất vả này được bao lâu? Suy nghĩ một lát, anh cho rằng Jessica có thể trụ được; nàng có quyết tâm và rõ ràng là dẻo dai. Song Nicky có vẻ mệt lắm rồi.
Lúc đầu Nicky đi gần cuối, rõ ràng muốn ở gần Partridge như lúc trước. Song anh cương quyết bảo nó và Jessica phải đi gần đầu hàng, ngay sau Fernandez. “Để sau, Nicky ạ”, anh bảo. “Còn bây giờ chú muốn cháu đi gần mẹ”. Nicky nghe lời, với vẻ miễn cưỡng.
Nếu đúng là chiếc thuyền họ vừa nghe tiéng máy kia chở bọn đuổi theo, Partridge hiểu rằng cuộc tấn công sẽ đến từ phía sau. Nếu điều đó xảy ra, anh sẽ cố hết sức đẩy lui cuộc tiến công, trong khi nhữnng người khác tiếp tục đi. Anh đã kiểm tra khẩu Kalashnikov đang đeo trên vai, để hai băng đạn dự trữ chỗ túi anh có thể dễ dàng lấy ra.
Partridge lại nhìn đồng hồ; bẩy giờ ba mươi lăm phút. Họ đã đi được gần bốn mươi phút. Nhớ đến cái mốc tám giờ tại điểm hẹn với Aerolibertad, anh hy vọng đã đi được ba phần tư quãng đường.
Mấy phút sau họ buộc phải dừng lại.
Nghĩ lại cũng buồn cười, Fernandez là người nhắc mọi người phải cẩn thận trước khi bước, nhưng chính anh ta lại trượt ngã chỏng gọng, chân kẹp trong đám rễ cây đầy bùn. Khi Partridge vội vã chạy đến, Minh đã nâng Fernandez dậy, còn O’Hara đang cố kéo chân anh ta ra; lúc đó Fernandez nhăn mặt vì đau đớn.
“Có vẻ tôi đã làm hỏng việc”, anh ta nói với Partridge. “Tôi xin lỗi vì đã phụ lòng tin của ông”.
Khi đã rút được chân ra, Fernandez thấy đau buốt tận óc khi bước đi. Rõ ràng chân anh bị gãy hoặc trật khớp rất nặng.
“Nói thế không đúng; anh chưa bao giờ phụ lòng chúng tôi”, Partridge nói. “Anh là người dẫn đường, người bạn đường tốt, và chúng tôi sẽ dìu anh đi. Chúng tôi sẽ vứt bớt các thứ đi”.
Fernandez lắc đầu: “Dù có làm thế đi nữa, cũng không còn thời gian. Tôi chưa nói với ông, Harry ạ, nhưng tôi đã nghe thấy tiếng động cơ ở phía sau. Chúng đang đuổi theo và cách chúng ta không xa nữa đâu. Hãy để tôi lại, các ông đi tiếp đi”.
Jessica cũng đến. Nàng bảo Partridge: “Chúng ta không thể để anh ấy lại được”.
“Một người sẽ cõng anh”, O’Hara nói. “Tôi sẽ cố làm việc đó”.
“Trong cái nóng như thế này ư? “ Fernandez sốt ruột nói. “Anh sẽ không đi nổi qua một trăm mét, và tất cả sẽ bị chậm lại”.
Vừa định phản đối, Partridge chợt hiểu làm như O’Hara nói là vô ích. Fernandez đã nói đúng: không còn cách nào khác hơn là phải bỏ anh lại. Song anh nói thêm: “Nếu có thêm người và có thể được, chúng tôi sẽ quay lại đón anh”.
“Đừng phí thời gian nữa, Harry. Tôi phải nói ngay mấy việc”. Fernandez đang ngồi cạnh lối mòn, tựa lưng vào gốc cây. Cây cối rậm quá, không thể đưa anh vào sâu thêm. Partridge và Jessica quỳ xuống cạnh anh ta.
“Tôi còn một vợ và bốn đứa con”, Fernandez nói. “Tôi mong sẽ có người trông nom vợ con tôi”.
“Anh làm cho CBA”, Partridge đáp “thì CBA sẽ chịu trách nhiệm việc đó. Tôi đảm bảo với anh, chính thức hứa sẽ làm như vậy. Việc ăn học của lũ trẻ, tất cả”.
Fernandez gật đầu, rồi anh chỉ khẩu M16 anh mang theo, hiện đang để bên cạnh “Anh nên cầm nó theo. Ngoài khẩu anh có, anh có thể phải dùng đến nó. Nhưng tôi không định để chúng bắt sống. Đưa tôi khẩu súng lục”.
Partridge đưa cho anh ta khẩu Browning chín li của anh, sau khi tháo bỏ ống giảm thanh.
“Ôi, Fernandez!” Jessica nghẹn ngào, mắt đẫm lệ. “Nicky và tôi chịu ơn anh nhiều”. Nàng cúi người hôn lên trán anh ta.
“Vậy thì đi đi” Fernandez giục nàng “Đừng mất thời gian nữa, kẻo sẽ mất những gì đã làm được cho đến lúc này”.
Khi Jessica đứng dậy, Partridge nhoài người, ôm chặt Fernandez và hôn lên hai má anh ta. Phía sau anh, Minh và O’Hara đang đợi để hôn vĩnh biệt Fernandez.
Partridge đứng dậy, bước đi không ngoảnh lại.
*
Ngay khi thấy chiếc xuồng bỏ lại trên bãi gần cửa rừng, và nhận ra nó từ Nueva Esperanza tới, Miguel rất mừng, hắn đã quyết định đi trên chiếc thuyền tới Sion.
Hắn càng mừng hơn, khi vừa từ trên thuyền nhảy xuống bờ, Ramon chạy đến bên chiếc xuồng và thông báo: “Underhill mortor esta cliente, Elliott ottro frio-fundido” (1).
Một máy còn nóng tức là những người chúng đang đuổi theo mới vào rừng chưa lâu. Còn chiếc máy bị cháy, đã nguội ngắt cho biết chiếc xuồng đã bị chậm lại và những người trên xuồng đến đây khá muộn.
Cũng như Miguel, bảy tên thuộc nhóm Sendero đều mang vũ khí đầy đủ. Hắn bảo chúng bằng tiếng Tây Ban Nha: “Bọn sâu mọt tư sản ấy chưa chạy xa được. Chúng ta sẽ đuổi kịp và trừng trị chúng. Hãy hành đông với lòng căm hận của Guzman”.
Chúng lao nhanh vào rừng, reo hò ầm ĩ.
“Chúng ta đến sớm mấy phút”, Rita nói với Oswaldo Zileri, phi công chiếc Cheynne II khi máy bay tới gần Sion, điểm hẹn đầu tiên. Cô vừa mới xem đồng hồ, bảy giờ năm mươi lăm.
“Chúng ta sẽ lượn và quan sát”, ông ta nói: “Dù thế nào đây cũng là nơi ít có khả năng các bạn chị sẽ tới nhất”.
Cũng như hôm qua, cả bốn người trên máy bay – Rita, Crawford Sloane, Zileri và anh chàng lái phụ Felipe nhìn như dán mắt vào tấm màn xanh phía dưới. Họ tìm kiếm dấu hiệu có người, nhất là khu vực đường băng ngắn, hai bên toàn cây, mà cho đến tận khi bay ngay trên nó mới nhìn thấy. Và giống như hôm qua, tuyệt nhiên không có động tĩnh gì.
Trên lối mòn, Nicky càng thấy khó theo kịp nhịp đi như tra tấn này, Jessica và Minh đang diu nó, mỗi người túm một bên tay vừa lôi, vừa nhấc nó qua những chỗ khó trên đường đi. Cuối cùng có thể sẽ phải khiêng nó, nhưng lúc này mọi người còn phải giữ sức lực còn lại.
Từ lúc họ chia tay Fernandez đến giờ đã được khoảng mười phút, Partridge đã trở lại vị trí cuối hàng; từ vị trí đó thỉnh thoảng anh nhìn lại phía sau. Cho đến lúc này, vẫn chưa thấy bóng dáng bọn kia đâu.
Phía trên, vòm lá mỏng dần; ánh sáng lọt qua kẽ lá nhiều hơn. Lối đi rộng hơn, Partridge hy vọng đó là dấu hiệu cho thấy đã tới gần đường băng. Có lúc anh nghĩ nghe thấy tiếng máy bay ở phía xa, nhưng không dám chắc. Anh lại nhìn đồng hồ: bảy giờ năm mưoi lăm phút.
Đúng lúc đó, từ phía sau vọng lại một tiếng ngắn, đanh gọn, rõ ràng là tiếng súng. Chắc là Fernandez, Partridge nghĩ. Vậy là ngay cả khi dùng khẩu Browning mà Partridge đã cố ý tháo ông giảm thanh, anh thợ dựng kèo nhà đầy nhiệt tình ấy vẫn giúp họ lần cuối – báo cho họ biết bọn đuổi phía sau đã đến gần. Nhưng để xác nhận việc ấy, họ nghe mấy phát súng nổ.
Có lẽ bọn đang duổi theo họ thấy Fernandez đã chết, nhưng nghĩ là chúng thấy những người khác phía trước nên bắn hú hoạ. Sau đó không hiểu sao tiếng súng im bặt.
Bản thân Partridge cũng đã gần kiệt sức. Lúc này anh thấy khó tập trung tư tưởng.
Vào lúc đầu óc đang miên man, anh quyết định, điều mong muốn nhất là thôi không phải làm gì nữa. Khi cuộc phiêu lưu này kết thúc, anh sẽ tiếp tục kỳ nghỉ mà anh vừa mới bắt đầu, rồi đơn giản là biến mất, không gặp gỡ bất cứ ai… Jessica và Gemma là chuyện dĩ vãng. Vivien có thể là tương lai. Cho đến nay, có lẽ anh đối xử với nàng không công bằng; cuối cùng đã đến lúc phải tính chuyện cưới nàng… Hãy còn chưa muộn… Anh biết Vivien sẽ rất thích điều đó…
Rồi anh cố gắng trở về với thực tại.
Bỗng nhiên họ thấy mình đã ra khỏi rừng rậm. Đã thấy đường băng trước mặt! Một chiếc máy bay, chiếc Cheyenne đang lượn trên đầu. O’Hara, đáng tin cậy cho đến phút chót, Partridge nghĩ, anh đang lắp viên pháo hiệu màu xanh vào khẩu súng lệnh mà anh mang theo suốt cả chặng đường. Màu xanh nghĩa là: “Hạ cánh bình thường. Không có trở ngại gì”.
Và cũng đột nhiên từ phía sau vang lên hai tiếng súng, lần này nghe gần hơn.
“Bắn pháo hiệu đỏ, không phải pháo hiệu xanh!” Partridge hét gọi O’Hara. “Hãy làm thật nhanh!”. Pháo hiệu đỏ tức là “Hạ cánh càng sớm càng tốt. Chúng tôi đang gặp nguy hiểm!”.
*
Đã quá tám giờ. Trên chiếc Cheyenne II đang bay phía trên đường băng, Zileri quay lại nói với Rita và Sloane “Không thấy gì cả. Chúng ta qua hai điểm hẹn kia thôi”.
Máy bay đổi hướng. Đúng lúc đó, Crawford gọi: “Khoan đã! Tôi nghĩ tôi nhìn thấy cái gì đó”.
Zileri cho máy bay vòng lại. Ông ta hỏi: “Ở đâu?”.
“Ở dưới kia kìa”, Sloane lấy tay chỉ. “Tôi không biết chắc ở chỗ nào. Nó diễn ra trong chốc lát… tôi nghĩ…”. Giọng anh nghe cũng có vẻ không cả quyết lắm.
Zileri cho máy bay lượn tròn. Họ lại căng mắt quan sát mặt đất. Lượn được một vòng, người lái máy bay nói: “Tôi chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ chúng ta nên bay tiếp”.
Đúng lúc đó, pháo hiệu đỏ từ mặt đất bay lên.
*
O’Hara bắn phát pháo hiệu đỏ thứ hai.
“Thế đủ rồi. Họ đã nhìn thấy chúng ta”, Partridge nói. Chiếc máy bay đã đổi hướng bay về phía họ. Điều anh cần biết lúc này là máy bay sẽ hạ cánh theo hướng nào, để anh chọn đúng vị trí ở lại chống trả bọn chúng, trong khi những người khác leo vào máy bay.
Anh nhanh chóng thấy rõ câu trả lời. Chiếc Cheyenne II lượn một vòng rất hẹp, giảm độ cao rất nhanh và sẽ bay trên đầu họ. Sáu đó nó sẽ hạ cánh từ hướng lối mòn xuyên rừng nơi họ vừa nghe súng nổ.
Mặc dù nghe tiếng súng, nhưng nhìn lại, Partridge vẫn chưa thấy bóng đứa nào cả. Anh chỉ đoán tại sao chúng lại nổ súng. Có lẽ trong khi đi, đứa nào đó trong bọn chúng bắn hú hoạ, hy vọng may ra thì trúng.
Anh bảo O’Hara: “Đưa Jessica và Nicky ra chỗ đường băng thật nhanh và ở lại đấy với họ. Khi máy bay tới đầu đường phía xa, nó sẽ quay đầu chạy lại, chạy lại gần máy bay rồi tất cả trèo vào. Anh nghe rõ chứ, Minh?”.
“Tôi nghe rõ”, Minh trả lời, mắt vẫn dán vào ống kính, điềm nhiền ghi nhìn như anh đã mấy lần làm trong suốt chuyến đi. Partridge quyết định không cần phải lo cho Minh nữa. Anh ta biết cách tự giữ mình.
Jessica lo lắng hỏi: “Còn anh thì sao, Harry”.
Anh nói với nàng: “Anh sẽ bọc hậu bằng cách bắn chặn lối mòn. Khi mọi người đã lên hết máy bay, anh sẽ nhập bọn. Bây giờ đi đi!”.
O’Hara vòng tay dìu Jessica lúc này đang nắm bàn tay còn lành của Nicky và họ vội vã chạy về phía máy bay.
Ngay lúc họ vừa đi xong, Partridge ngoảnh lại phía rừng thì thấy bóng một vài đứa đang tiến về phía đường băng, tay giương súng.
Partridge nhoài người nấp sau mô đất gần đó. Anh nằm xấp, khẩu Kalashnikov để trước mặt, đưa những bóng di động vào thước ngắm. Anh siết cò, và trong tiếng súng nổ thấy một đứa gục xuống, những đứa khác lao tìm chỗ nấp. Cũng lúc đó, anh nghe tiếng máy bay lướt thấp trên đầu không cần ngoảnh lại, anh biết hiện giờ nó đang hạ cánh.
“Họ kia rồi”, Crawford Sloane hét lên vì quá hồi hộp. “Tôi nhìn thấy Jessica và Nicky!”. Máy bay vẫn đang còn chạy trên đường băng, bánh lướt nhanh trên mặt đường gồ ghề.
Điểm cuối đường băng vụt gần lại và Zileri hãm phanh rất gấp. Khi máy bay hết đà chạy, viên phi công vẫn phanh hãm và để một động cơ hoạt động, kèm đầu máy bay quay ngược hướng vừa hạ cánh. Sau đó, dùng cả hai động cơ để tăng tốc, ông ta cho máy bay chạy nhanh dọc đường băng về phía đối diện.
Chiếc Cheyenne II dừng lại đúng nơi Jessica, Nicky và O’Hara đang đợi. Felipe, người lái phụ đã rời chỗ ngồi và chạy về cuối máy bay. Từ bên trong thân máy bay, anh ta mở cửa và hạ thang xuống.
Nicky, rồi Jessica và O’Hara trèo lên thanh; mấy cánh tay giơ ra, trong đó có tay Sloane kéo giúp họ vào hẳn bên trong. Minh xuất hiện đằng sau mọi người và lom khom trèo vào.
Trong khi Sloane, Jessica và Nicky đang xúc động ôm ghì lấy nhau, O’Hara gọi to, giọng hổn hển: “Harry đang ở phía trước. Chúng ta phải đón anh ấy. Anh ấy đang bắn chặn bọn khủng bố”.
“Tôi thấy rồi”, Zileri bảo. “ngồi cho vững nào”. Ông ta lại tăng ga và máy bay chạy vụt về phía trước.
Đến cuối đường băng, ông ta lại cho máy bay lộn đầu lại. Lúc này máy bay nằm đúng chiều vừa xuống, sẵn sàng cất cánh, nhưng cửa lên vẫn còn để mở. Qua cửa máy bay để ngỏ, có thể nghe thấy súng nổ. “Bạn của các vị sẽ phải chạy thật nhanh tới máy bay”, giọng Zileri nghe khẩn thiết: “Tôi muốn chuồn khỏi đây ngay”.
“Anh ấy sẽ làm như vậy”, Minh nói. “Anh ấy đã thấy chúng ta và thế nào cũng tới”.
*
Partridge đã nghe và nhìn thấy máy bay. Liếc vội về phía sau, anh biết nó đã cố đến thật gần chỗ anh. Khoảng cách giữa anh và máy bay độ một trăm mét. Anh có thể chạy khom người thật nhanh tới máy bay. Song trước hết anh phải vẩy đạng vào phía đường mòn trong rừng để chặn lực lượng Sendero có thể phóng đến. Mấy phút vừa rồi, anh thấy bóng mấy thằng nữa, anh nổ súng và thấy một tên ngã nhào. Bọn còn lại đang nấp sau những thân cây. Một loạt đạn sẽ ghìm chúng ở đó, và đủ thời gian để anh chạy đến được máy bay.
Anh vừa tra băng đạn mới vào khẩu Kalashnikov, siết mạnh tay cò, anh bắn xối xả dọc hai bên đường mòn. Từ lúc nổ súng, lòng say mê chiến trận vốn có trong anh trỗi dậy… làm anh ngây ngất… nó làm chất adernalin chảy trong huyết quản, nước dịch trào…một thứ nghiện ngập đến điên rồi, phi lô gich trước âm thanh và cảnh sắc chiến tranh…
Bắn hết băng đạn, anh vứt súng, nhỏm dậy chạy, cúi gập người thật thấp. Chiếc máy bay đang ở trước mẳt. Anh biết anh sẽ thoát!
Partridge chạy được một phần ba đoạn đường thì bị đạn vào chân. Anh khuỵu ngay lập tức. Mọi việc diễn biến quá nhanh, anh phải mất mấy phút mới hiểu được chuyện gì xảy ra.
Viên đạn xuyên qua khoeo chân phải, làm vỡ đầu gối. Anh không thể bước được nữa. Cái đau khủng khiếp, hơn cả cái đau nhất mà anh tin là có thể có, lan toả khắp cơ thể. Vào lúc ấy, anh biết không bao giờ anh còn có thể đến được chỗ máy bay đang đợi. Anh cũng hiểu không còn thời gian nữa. Máy bay sẽ phải cất cánh. Còn anh sẽ phải làm cái việc mà trước đó nửa giờ Fernandez đã làm.
Thu hết sức lực còn lại, anh nhỏm người ra hiệu cho chiếc Cheyenne cất cánh. Điều quan trọng lúc này là mọi người hiểu được ý anh.
*
Minh đứng ghi hình ở cửa máy bay. Anh đang quay cận cảnh Partridge và ghi được giây phút khi anh trúng đạn. Felipe, người lái phụ đứng cạnh Minh.
Felipe gọi với vào trong. “Anh ấy trúng đạn rồi! Tôi nghĩ bị nặng đấy. Anh ấy đang vẫy bảo chúng ta đi!”.
Từ trong máy bay, Sloane nhoài người ra cửa. “Chúng ta phải đón anh ấy vào!”.
Jessica kêu to: “Đúng, ôi, đúng đấy!”.
Nicky hoà theo: “Chú Harry chưa vào thì đừng bay vội!”.
Chính Minh, người am hiểu thực tế của chiến tranh nói: “Không được đâu! Không có đủ thời gian”.
Qua ống kính, Minh đã thấy lực lượng Sendero đang tới gần. Vài thằng đã đến được mép ngoài đường băng, đang vừa chạy vừa nổ súng. Đúng lúc ấy, mấy viên trúng vào máy bay.
“Tôi bay đây”, Zileri nói. Ông ta đã hạ thấp phần cánh nắp phía sau chuẩn bị cất cánh, bây gờ ông đẩy tay ga về phía trước. Minh mang máy quay ngã giúi vào trong. Felipe cũng thụt vào và đóng cửa lại.
Khi máy bay đã đủ tốc độ, Zileri kéo nhẹ cần điều khiển. Chiếc Cheyenne II rời đường băng bay lên.
Jessica và Nicky đang ôm nhau khóc. Sloane ngồi mắt lim dim, lắc đầu như thể không tin vào những điều anh vừa thấy.
Minh tỳ máy vào cửa sổ, ghi những hình ảnh cuối cùng dưới đất.
*
Nằm trên mặt đất. Partridge nhìn chiếc Cheyenne II cất cánh bay đi.
Và anh còn thấy một cảnh khác nữa. Trong cơn đau đớn đến mờ mắt, anh như thấy bóng người mặt bộ đồng phục của hàng không Alitalia đang đứng ở cửa máy bay, mỉm cười vẫy anh.
Nước mắt bấy lâu nén lại trong anh bắt đàu trào ra. Sau đó, anh bị trúng thêm nhiều vết đạn và chết.
*
Nhìn xuống xác Harry Partridge, Miguel thề sẽ không bao giờ để diễn lại thất bại như hôm nay. Ở giai đoạn đầu của vụ bắt cóc, tuy rất phức tạp và công phu, hắn đã thành công đến mức khó tin. Thế mà vào giai đoạn hai, dễ dàng và không phức tạp bằng, thì hắn lại thất bại thảm hại.
Bài học rõ ràng là: không có gì dễ dàng và không phức tạp cả. Đáng ra hắn phải học bài học đó từ lâu. Nhưng từ giờ phút này trở đi, hắn sẽ ghi nhớ.
Sau đây làm gì?
Trước hết hắn phải rời Peru. Hắn có thể mất mạng nếu ở lại đây; Sendero Luminoso sẽ không để yên việc này.
Hắn cũng không thể trở lại Nueva Esperanza. Cũng may, hắn chẳng phải quay lại đó làm gì. Trước khi rời Nueva Esperanza, lường trước những chuyện có thể xảy ra, hắn đã nhét toàn bộ số tiền hắn có, trong đó có gần năm chục ngàn đôla nhận của Antonio Salavery vào lần cuối cùng hắn tới Liên hợp quốc, vào chiếc bao đựng tiền mà hắn đang đeo. Hắn cảm thấy cồm cộm, phải cái hơi khó chịu, nhưng làm hắn yên tâm.
Với số tiền này, hắn thừa sức rời khỏi Peru và trở về Colombia.
Bây giờ hắn định luồn vào rừng. Cách đây hai lăm cây số có một chỗ đỗ máy bay – không phải hai nơi hôm nay chúng đến – là nơi các máy bay chở ma tuý do phi công Colombia lái thường lên xuống. Hắn biết có thể dúi tiền để họ chở hắn về Colombia, và một khi đã ở đó, hắn sẽ được an toàn.
Nếu có đứa nào trong đám từ Nueva Esperanza kia dám ngăn cản, hắn sẽ giết chết nó ngay. Nhưng hắn không tin là có đứa nào sẽ làm như vậy. Trong số bảy thằng cùng đi với hắn đến đây, chỉ có bốn còn sống sót. Ramon cùng hai hằng nữa đã bị bắn chết bởi tay cái thằng nước ngoài chó chết đang nằm dưới chân hắn đây. Không biết nó là thằng nào, nhưng rõ ràng là một tay súng giỏi.
Ngay cả ở Colombia, thất bại ở Nueva Esperanza cũng sẽ ảnh hưởng đôi chút đến tiếng tăm của hắn, song cũng không lâu. Và không như Sendero Luminoso, các cácten ma tuý Colombia không đến nỗi cuồng tín. Táo bạo thì có đấy, song bình thường họ thực dụng và lo làm ăn. Miguel là tên khủng bố vô chính phủ rõ ràng đáng bỏ tiền ra thuê. Các cácten có nhu cầu sử dụng đến hắn.
Gần đây, hắn được biết họ đang thực hiện một chương trình dài hạn biến một số nước nhỏ và trung bình thành nơi ngự trị của cácten ma tuý như ở Colombia. Hắn tin chắc dự án này sẽ cho hắn dịp thi thố tài năng đặc biệt của hắn.
Colombia không còn là một thể chế dân chủ nữa. Bề ngoài có vẻ vẫn còn đấy, song ngay cả những cái đó cũng đang biến mất dần khi các vụ giết chóc theo lệnh của những ông chủ cácten tỷ phú hùng mạnh đã loại dần cái thiểu số tin vào những con đường cũ.
Để biến những nước khác thành những Colombia mới, cần phải hối lộ các nhân vật chóp bu hoặc gần chóp bu trong chính phủ của những nước này; hối lộ sẽ tạo điều kiện cho các cácten ma tuý có thể mò vào hoạt động ở đó. Tiếp theo, bằng những bước đi âm thầm, xảo quyệt, các cácten sẽ dần dần mạnh hơn cả chính phủ sở tại. Sau đó, như ở Colombia không gì có thể đảo ngược được nữa.
Hiện nay người ta nói đến bốn nước có khả năng sẽ được “Colombia hoá”. Đó là Bolivia, Elliott Salvador, Guatemala và Jamaica. Rồi sau sẽ có thêm những nước khác được đưa vào danh sách.
Với khả năng và kinh nghiệm sống sót độc đáo, Miguel nghĩ, có thể hắn sẽ bận rộn suốt trong thời gian tới.
Chú thích:1 Một máy nóng, còn chiếc kia lạnh