Ai Hát Giữa Rừng Khuya
NGÀN KHUYA VẮNG
TIẾNG
Hai vợ chồng tôi ở đây đã quá một
năm mà thực quả chưa bao giờ được cái hân hạnh như anh cả.
Từ khi chúng tôi
vừa mới đến, đã nghe các ông cai và các bác phu già nói dông dài về nhiều chuyện
đường rừng: nào dă sử của mấy mươi loài chim lạ, như con "cô ơi", con "trà
toản", con "tử qui", con "da da" vân vân, nào sự tích của bao nhiêu loài dị thú,
như con "thủ thỉ", con "rắn lục", con "sài cứu", con "vọng nguyệt", nói thế nào
cho hết được; tóm lại phần nhiều những chuyện đó, tuy lư thú, ư vị cả, song
không lấy gì làm kỳ dị hăi hùng.
Bản tính tôi chỉ thích nghe những chuyện
hăi hùng mà thôi, hóa nên tôi chả để ư đến lời họ nói. Măi sau này, có một ông
cai già mà anh em áo cộc thường gọi "Lăo Cai Móm", v́ răng ông ta rụng gần hết -
Ông ấy thuật tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Đầu tiên tôi
không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa ḷng tôi, hai là để dọa
vợ tôi cho thú vị. Nhưng, được ít lâu trong một trường hợp cực kỳ quái gở, tôi
suưt nữa bị tán đởm v́ sợ hăi rồi từ đó tôi phải tin lời ông cai già là đúng.
Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm nay chả hạn, là tôi cố thức và
chú ư lắng tai nghe.
Tôi thức măi, lắng măi, mà chả bao giờ thấy gì cả. Cái
lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút nữa
mất mạng. C̣n về sau này, thì cả vợ chồng, đêm đêm thường cùng nhau ngồi lắng
tai gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ, không
thám thính nữa. Ai ngờ lần đầu tiên anh đến, anh đã nhận được ngay sự bí hiểm mà
tổn hao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được; tái anh thực là tai thánh, linh ứng bằng
tai Hổ thần!
Quả như lời anh nói, sự bỉ hiềm kia là một điệu hát cô đầu.
Trong rừng có ả đầu, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở mạn rừng
này. Bới lẽ Đồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân tha nước độc, cô đầu đến làm gì?
Trong mấy chục năm nay, có lẽ từ thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có một chị
quẩng mỡ hoặc điên rồ đến đây mở một ngôi hàng Hồng lâu cả. Thế thì tại sao chỗ
này lại được nghe hát đào?
Cứ về đêm, quá giờ Tư, thì mới văng vẳng có tiếng
đàn ca réo rắt. Đàn ca ấy lại xuất phát tử mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi
mới đến cũng lắm người nói với tôi như thế tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe
thấy ai cũng cam đoan là sự thật, tôi mới đâm nghi ngờ, muốn biết rơ duyên cớ v́
đâu có sự dị kỳ như vậy. Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo là trong rừng đêm đêm có
tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu tinh, có
một ông cụ lại quyết rằng đó là một thứ hồ ly lạc măi từ bên Tàu, đi lần đường
núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rỗi lần ṃ tới Đồng Giao thì không đi nữa,
v́ tìm được địa thế hợp với nó. Sau, lại có một bà già nói là mắt bà thấy con
quái vật ấy ở trong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vợn trắng, rùng
mình một cái biến ngay ra con gái rơ đẹp; vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ
đưa vào hang, đàn bà nó không thèm bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay lấy làm
chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải chết.
Ông kư ga bảo là không phải thế, theo như ông biết, thì đó là một nàng tiên rất
mỹ miều diễm lệ. không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ Ở thân một cây quế lớn, đi tạt
qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố tìm ṭi hàng tháng cũng không
ra, bời lẽ nàng tiên đã biến cây quế thành một cây gỗ khác rồi. Cứ những ngày
tôi tăm trời đất, hoặc những ngày sáng sủa có trăng sao, nàng lại hiên ra. Trời
đất buồn thì nàng buồn, trời đất vui thì nàng vui; hoặc vui, hoặc buồn, nàng đều
lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi
sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm
nhạc ấy; thường thường nàng tự mồm ca tay đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe
thôi, bởii thế ta có thính tai lắm mới thoáng nhận được vài điệu bổng trầm.
Đến lợt ông cụ Bát ở gần chợ thì không phải tiên mà là rắn, một thứ bạch xà to
lớn hơn con trăn gió, biến hóa vô chừng. Nó lúc hóa đàn ông, lúc hóa đàn bà, lúc
hóa trẻ con, không biết thế nào mà lường, v́ nó đủ lục tri thần thông. Sở dĩ nó
ca hát, là để mê hoặc ḷng người, để cho những kẻ hiếu sự ṭ ṃ tìm đến xem nó
tận đáy rừng, lúc đó nó sẽ há rộng miệng rồi chỉ việc hít một cái nhẹ nhẹ là tự
khắc mình bay tọt vào họng nó, cho nó nuốt.
Khi hỏi đến bà Chánh Ba, là
người từng đi lại hạt Đồng Giao buôn bán, thì bà nghiêm nghị hạ thấp giọng xuống
và nói se sẽ, một cách rát kính cẩn rằng nàng tiên đó là một vị công chúa trong
12 Chầu Cô hẩu Đức Bà Thượng Ngàn. Ấy là "cô nường" Quỳnh Hoa đó. V́ cô nường lỡ
tay làm rơi chiếc chén cẩm ngọc khi róc rượu mời Đức Bà Liễu Hạnh ở Ṣng Sơn,
nên bị đày ra rừng Đồng Giao. Bới thế, những đêm u tịch tẻ buồn, hay những đêm
thanh vắng sáng sủa, nàng Quỳnh Hoa lại nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một
chị em, trong ḷng buồn rầu tràn ngập, phải hiện lên đi du ngoạn cho tiêu sầu.
Và giữa lúc ấy, đối cảnh sinh tình, cô nường bùi ngùi hoài vọng, hát lên một
khúc ngơ hầu vợi bớt nỗi ḷng.
Nghe thuyết của bà Chánh Ba, các bọn phụ nữ
đều tỏ vẻ sợ hăi, sùng kính; ai cũng cho thuyết ấy là đúng. Nghĩ cho kỹ thì câu
chuyện bà Chánh nói c̣n có ư vị, nó không hoang đường mấy và c̣n hợp lẽ hn các
chuyện khác nhiều.
Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn băng câu chuyện của
ông Phó Cựu. Ông Phó Cựu cả quyết nói lớn rằng ông biết đích tông tích của con
quái vật hiện ra trong rừng; nó chính là một con Sài Kíu. Cái giống Sài Kíu này
na ná như loài chó sói, song dữ tợn hơn nhiều. Đầu nó cứng rắn như sắt; có kẻ
bẫy được nó, lấy búa bổ măi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúi gằm
mặt xuống mà đi, trông tựa như một con chó dại lớn lờ đờ buồn bă. Thế mà hễ gặp
người thì nó nhảy xồ lại mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình ngă
xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết; xong đâu đấy nó tha xác vào một hang hốc giấu
đi. Nó đợi cho lúc xương thịt ră rời , có mùi hôi thối xông lên, có ruồi bọ bám
đầy, lúc bấy giờ nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu thịt rữa
mà thôi, nó không thẽm ăn thịt tươi như các mănh thú khác. Ở phía tây nớc Tàu,
trong các tỉnh lắm rừng rú hiểm trở như Tứ Xuyên, Quí Châu và Vân Nam, Cam Túc
v.v... có rất nhiều Sài Kíu. Người Tàu thường dùng hai chữ sài lang; lang là để
chỉ loài chó sói, c̣n sài thì chỉ giống Sài Kíu đó. Giống đó đi lùng khắp chốn,
đánh hơi ngửi mùi xác chết; phàm giả chỗ nào có mả mới là nó sục đến, lấy đầu
húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi thế nên trong
mấy tỉnh trên đây, ở các miền gần rừng rậm, dân cư không dám chôn người chết
nữa, họ phải dùng lối táng treo, nghĩa là đem quan tài vào trong rừng rồi buộc
lủng lẳng trên cành cây cao. Giống Sài Kíu không leo trèo được, đành chịu thua,
hết kế vọc xác người chết. Nhưng chúng nó cứ đợi cho trong quan tài có nước rỏ
xuống cỏ lại liếm thứ nước "béo bổ" ấy.
Ăn thi thể mục nát măi, lâu ngày có
con thành tinh; con nào ăn được hơn trăm tử thi thì cũng linh thính và có phép
biến hóa như hổ bắt được đủ trăm người. Con yêu ở Đồng Giao này chính là một con
Sài Kíu cái đã có hạnh phúc "xơi" được hơn trăm thây người chết, nên thành ra đủ
phép thần thông đó! Nỏ cứ hiện lên hát véo von để bẫy người ta vào xem. Gần đến
sào huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình đi vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở
những chỗ hang sâu vực thẳm, rồi, đợi khi nào trên tử thi mình đầy các thứ gịi
bọ hôi tanh, lúc bấy giờ nó mới đến xé thịt mình ra đánh chén.
Cứ nghe thiên
hạ xôn xao bàn tán, thì mỗi người nói một cách, mỗi người có một chuyện riêng,
mà không chuyện nào giống chuyện nào như thế, c̣n xét làm sao cho rơ biết căn
nguyên của sự mình muốn biết nữa? Thực là khó. Bởi thế tôi cứ phân vân, bán tín
bán nghi, nghe bà con kể lại thì biết vậy, song không dám tin lời ai cả.
Cho
đến lúc tôi được nghe chuyện ông Cai Móm. Ông Cai Móm là người làm công cho tôi
từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Giao lần đầu. Ông là một cụ già quắc
thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin cẩn lắm. Ông lại ít nói, không bờm xơn
bợm băi bao giờ. Các bạn đồng nghiệp và các phu phen sợ hăi và kính nể ông lắm
lắm.
Ông chỉ giao thiệp với tôi trong những giờ có việc c̣n ngoài ra, ít khi
ông vào nhà tôi chơi độ vài tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông chăm chỉ làm lụng cặm
cụi cả ngày hóa nên chả mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình cờ tôi mới được nói
chuyện với ông trong một đêm, rồi được rơ sự tích khúc hát trong rừng nó ly kỳ
rùng rợn như thế nào.
Hôm đó khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất quan
trọng từ Hà Nội gần về. Lẽ ra thì sáng hôm sau ra ga lấy cũng được, nhưng năm
giờ phải có đủ vật liệu để khởi công thành thử ông Cai Móm phải đi lănh ngay
hàng về cho tôi. Đường tối lại vận tải bằng xe ḅ, thành hì hục măi gần chín giờ
đêm ông Cai Móm mới về đến trại. Ông vừa tới nơi, vừa kịp xếp hàng vào kho thì
gió đâu bỗng nổi lên đùng đùng, ròi mưa trút xuống như thác chảy, lại có cả sấm
sét nứa. Một cơn băo lớn. Thực là gió núi mưa ngàn.
Ông Cai không về được,
phải xuống bếp ngồi nghỉ cùng tụi cu ly đẩy xe và khuân hàng. Tôi nhân có việc
dặn ông gọi ông lên nhà trên uống nớc. Ông Cai Móm từ chối hai ba lợt nhất định
không ngồi xuống ghế xa-lông; măi sau tôi cố sức mời, ông nể lắm mới ghé lưng
ngồi một cách kính cẩn lên chiếc ghế ở góc bàn ăn. Tôi vốn biết ông là người ít
nói, cử chỉ rất thận trọng, nên cũng biệt đăi ông. Nhân có một chai rượu nếp
cẩm, ngọt lật như đường và rất mạnh, của một người bạn thân vừa biếu tôi được
vài ngày, tôi bèn mở ra, rót mời ông Cai Móm.
Ông đứng dậy tạ từ hai ba lần,
không uống, tôi ép măi, ông mới chịu đặt môi vào chiếc cốc con, dốc một hơi cạn
hết. Ông là người thích rượu, rượu của tôi lại quá ngon, hóa nên khi mời đến cốc
thứ hai, rồi thứ ba, ông không từ chối nữa, chỉ cám ơn thôi. Cốc nào ông cũng
hớp một hơi là sạch ráo, tôi thấy tửu lực hùng tráng của ông mà vui ḷng. Tôi cứ
rót, ông cứ uống. Chả bao lâu, chai rượu vơi hẳn, gần hết, tôi đoán chừng ông đã
hơi say. Quả nhiên ông lấy tay ngăn không cho tôi rót tiếp nữa, ông tươi cười
đắc ư, vái tôi, nói khà khà:
- Đa tạ thầy đã yêu mà cho con uống quá nhiều,
say rồi thầy ạ! Biết lấy gì mà đáp ơn thầy?
- Cái đó có hề chi! Lúc vui ta
cùng uống chơi, có gì mà ơn với huệ. À này, nhân tiện ông ở đây, tôi muốn hỏi
ông về câu chuyện lạ của đất Đồng Giao này. Chả hay cái điệu hát cô đầu văng
vẳng trong rừng đưa ra nguồn gốc nó ở đâu? Thiên hạ mỗi người nói một lối, ông
đã già, vả lại ở đây đã lâu, chắc hẳn biết rơ hơn mọi người, ông thử kể lại cho
tôi nghe?
- Thầy đã dạy con đâu dám trái lời, nhưng để khuya khuya chút nữa
khi nào tinh mịch hẳn, con thuật lại thầy nghe mới thú, bây giờ c̣n ồn ào lắm,
vả con đương c̣n say, nói chả được rành mạch.
- Chốc nữa ông sẽ say quá rồi
ngủ mất tôi biết làm thế nào?
- Thầy đừng ngại. Con có uống đến gấp bốn năm
lần như ngày hôm nay cũng chả say nữa là! Thầy hăy chịu nán một chút nữa, con
xuống bếp hút điếu thuốc lào rồi xin lên ngay...
Khi ông Cai Móm trở lên
pḥng khách của tôi, nửa giờ sau, thì đồng hồ chuông trong pḥng reo vào không
gian mười một tiếng. Con Thu Nhi đi ngủ từ sớm, c̣n Lệ Thi thì vẫn ngong ngóng
chờ đợi chí kỳ được nghe chuyện mưới thôi. Vợ tôi bắc ghế ngồi bên cạnh tôi tỏ ư
sốt ruột. Lúc thấy mặt ông Cai Móm, nàng mừng rỡ như trẻ con được kẹo, vội vàng
đứng dậy đón, dắt lại chỗ ngồi cẩn thận, xong rót đa ông một cốc rượu lớn.
-
Nào bây giờ thì cụ kể đi cho chúng tôi nghe! Tôi xin biếu cụ cốc rượu ngon này.
Cụ uống hết bao nhiêu, cứ việc tự tiện, chúng tôi xin chu tất đủ hết. Cụ bắt đầu
đi!
Dưới ánh đèn măng-sông sáng lóe, lúc ấy tôi mới ngắm kỹ dung mạo ông Cai
Móm. Một cái trán cao vọi, vồ hẳn ra, làm cho ta phải để ư đến đầu tiên. Cái
trán ấy lan rộng đến tận gần đỉnh đầu hói bóng; một làn tóc ngắn tha và trắng
xóa, lơ thơ bao vành hai bên và phía sau chiếc sọ dừa gần nhẵn thín. Một đôi mắt
to, mà rượu đã làm mờ đi bởi những tia máu nổi lên làm đỏ ngầu; một cái mũi hùng
vĩ như mũi sư tử ở giữa đôi lỡng quyền cao ṿi vọi; một cái mồm rất tươi, nhưng
có hai hàm răng trụi cả, khiến cho hai hàng môi mỏng co rúm lại, vập vào mé
trong, làm khuôn mặt ngắn hẳn lại; đó là vài nét đặc biệt vẽ thành diện mạo ông
Cai Móm. Ông tuy già, mà da dẻ c̣n hồng hào tươi tốt, chỉ sạm đi như màu đồng
đen, và răn rúm như vỏ trái xoài chín nẫu. Dưới bộ quần áo vi tây vàng, ta có
thể đoán thân thể ông Cai c̣n khỏe mạnh, nhanh nhẹn lắm, dẫu nó không đủ khí lực
cường tráng như thủa xuân xanh nữa.
Lúc ở nhà dưới trở lên, ông không quên
mang theo cái điếu cầy, một vật liệu tối cần cho sự kể chuyện cổ tích giữa đêm
khuya. Ông đặt điếu xuống gầm bàn, rồi ngồi nghiêm trang trên ghế. Lệ Thi đưa
biếu ông cốc rượu, ông giơ hai tay đỡ lấy, uống một hơi dài gần hết nửa cổc,
không mời chào từ tốn như khi trước.
Uống xong, ông thở khà một tiếng, liếm
môi rồi cất tiếng nói vang vang hùng dũng lắm.
- Nào ! Mời thầy cô ngồi gần
sát lại đây, và xin thầy cô đừng sợ nhé! Câu chuyện này nó không phải chuyện bịa
đặt, v́ nó hoàn toàn đúng sự thực, mà cũng không phải chuyện cổ tích, v́ nó mới
xảy ra được độ dăm chục năm nay. Chỗ xảy ra chuyện con sắp kể đây ấy chính là
hạt Đồng Giao ta đó!
Tôi xin mạn phép anh hăy xen vào chỗ này một lời, trước
khi thuật lại anh nghe sự tích ông Cai Móm đã kể cho vợ chồng tôi nghe đêm hôm
ấy. đã lâu lắm rồi, tôi không nhớ rơ cách dàn xếp của ông Cai và nguyên văn của
ông ta làm sao. Tôi chỉ biết cả Lệ Thi, cả tôi, nghe ông nói lấy làm thú lắm.
Cảm giác của chúng tôi lúc đó thực là đặc biệt, nói cho đúng, ông Cai quả có tài
trứ thuật vô cùng. Ngày nay, tôi mạc lại câu chuyện, có lẽ không hay được như
ông đã kể, song tôi tin rằng văn tôi sẽ rờm rà mà lẳng lơ bay bướm hơn nguyên
văn. Tôi sẽ xếp đặt theo cách của tôi, tôi sẽ thêm bớt thêu thùa theo ư riêng
tôi, anh lượng trước cho tôi chỗ đó! Rồi anh đừng bắt bẻ tôi sao ông Cai già mà
lại có lời lẽ văn hoa tao nhă như lời tôi sẽ nói; sau đây sẽ là câu chuyện của
ông Cai mượn miệng lưỡi và tinh thần tôi mà lọt vào tai anh đó thôi. Anh nên
hiểu như thế cho tôi thì mới được!