CHƯƠNG V – 33
Cụ Lý Trần Quán

Nhà thơ Đạo Tĩnh gây ấn tượng với tôi trong một lần tổng kết Ban, khi chị vừa về công tác ở Đài. Nhà thơ Ngọc Trần giới thiệu chị lên đọc thơ. Lần ấy chị đọc bài Bùa lá.
……………………
Đêm dài tôi thả bùa mê
Cho con đom đóm bờ đê lạc đường
Buồn tình ngồi ngắm trăng suông
Chẳng ai thương đến thì thương lấy mình
…………
Thơ đâu mà buồn thế! Sau này biết chị và đọc thơ chị, tôi thường nghĩ, thơ ám vào đời, hay đời chị ám vào thơ.
Một lần tôi và vợ đang đi, bất chợt gặp chị, tôi giới thiệu vợ với chị Đạo Tĩnh. Vợ tôi vồ vập nói, chị thì bây giờ em mới biết mặt, nhưng em rất thích bài Bùa lá và cô ấy đọc luôn mấy câu. Chị Tĩnh cảm động vì có người hâm mộ và yêu thơ chị thế. Quen chị, tôi cảm nhận, chị sống nhẹ nhàng, kín đáo và như khép mình. Đấy là tôi nghĩ thế thôi, chứ riêng hành động từ quan của chị, dù chỉ là cái chức quan Phó trưởng phòng nho nhỏ, để làm biên tập viên, cũng thấy, một con người bản lĩnh.
Tôi viết bài về nhân vật Trần Quán, đăng trên báo Hà Nội mới. Sếp Phó tổng viết bài đăng trên tạp chí của Đài, phản đối quan điểm trong bài viết của tôi. Mới đầu tôi cũng không biết. Qua giao ban, tôi mới hay. Thông tin giao ban không bàn về quan điểm bài viết, mà chỉ nêu, bài đăng trên tạp chí ngành là không hợp, vì tạp chí chỉ dành đăng về chuyên môn nghiệp vụ Đài.
Độ hai tuần sau, hôm đó tôi rẽ vào phòng Văn hoá, định vào nói chuyện với chị Đạo Tĩnh. Lúc đó sếp Phó tổng đang ngồi ở trong phòng. Thấy tôi vào, nhà thơ Tĩnh Đạo cười, giới thiệu:
- Đây, ông Lý Trần Quán đây!
Nghe chị Đạo Tĩnh giới thiệu, sếp buông câu:
- Tưởng thằng nào. Hoá ra mày!
Tiếp đó sếp thuyết giáo cho tôi một chặp. Tôi là lính chẳng tiện tranh luận với sếp về quan điểm của mình đưa ra trong bài báo. Để đến khi sếp dừng lời, tôi nhỏ nhẹ:
- Thôi, lúc nào chú cứ gửi bài viết của chú cho cháu. Cháu đưa sang báo Hà Nội.
Tối đó sếp còn gọi điện thoại đến nhà tôi tranh luận. Tôi vẫn giữ thái độ như buổi sáng. Như hứa, tôi lấy và gửi bài của sếp cho báo Hà Nội mới. Họ đã đăng quan điểm của sếp. Rất công bằng. Sau đây chỉ xin nhắc nguyên lại nội dung bài viết của tôi, không có lời tranh luận gì hơn. Âu cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong nghề:
"Người Nhật rất tự hào về truyền thống võ sĩ đạo và sự gan dạ, trung thành của họ. Người Trung Hoa ngợi ca, truyền tụng gương các bề tôi trung quân, xả thân vì chủ. Lịch sử Việt Nam cũng ghi lại nhiều bậc trung thần quên mình vì chúa, sẵn sàng xả thân cho lý tưởng mình phụng thờ. Những gương ấy sẽ còn mãi mãi lưu truyền hậu thế, như Nguyễn Biểu, Lê Lai,...
Lý Trần Quán và cái chết của ông, một cái chết tôi trung có thể nói khác lạ nhất trong những trường hợp tuẫn tiết vì đạo trung quân ở Việt Nam - ông tự chôn sống mình.
Nguyễn Huệ với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê kéo quân ra Bắc. Trước sức mạnh như vũ bão của Tây Sơn, quân Trịnh tan vỡ, chúa Trịnh Tông phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Lúc trước Lý Trần Quán là một viên quan được phục mệnh đi chiêu dụ dân binh và đang ngụ tại làng Hạ Lôi. Khi Trịnh Tông qua đây, đã vời Lý Trần Quán, ông yết kiến chúa và nhờ cậy Nguyễn Trang, kẻ từng là học trò của mình, hộ vệ chúa qua vùng ấy.
Thật không may, Lý Trần Quán nhờ phải một tên phản thày, phản chủ. Từng có thời theo học chữ Thánh Hiền, nhưng Nguyễn Trang không ngượng ngùng nghĩ và nói ra miệng điều: “Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình.". Nguyễn Trang nộp Trịnh Tông cho Tây Sơn. Dọc đường Trịnh Tông tự sát. Tây Sơn an táng Trịnh Tông theo lễ nghi quân vương.
Nghĩ mình là người có lỗi trong cái chết của chúa, Lý Trần Quán hết sức ân hận, tự dằn vặt dày vò khôn nguôi. Ông nghĩ: Kẻ bề tôi vì lầm lẫn nhầm người đến hại chúa, thì chỉ có cái chết mới tỏ được tấm lòng tôi trung trước trời đất.
Lý Trần Quán người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ năm 1766. Xin trích trong Hoàng Lê nhất thống chí đoạn miêu tả về cái chết bi hùng và hết sức đặc biệt đó:
" Quán sai người đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở, đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó đội mũ, mặc áo chỉnh tề, hướng về phía Nam lạy hai lạy. Lạy xong lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải khăn trắng chít ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại.
Tấm ván vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra: Hãy còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền đọc hai câu rằng: Đạo hiếu ba năm đã trọn. Chữ trung mười phần chưa xong. Rồi Quán bảo với chủ nhà: Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta. Nói xong câu ấy lại tiếp luôn: Đa tạ ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé! Chủ nhà và năm sáu người đầy tớ cùng sụp lạy, chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và lấp đất lên. Người đời sau coi ông là một bậc nghĩa khí."
Phán xét về vai trò lịch sử của Tây Sơn, của dòng chúa Trịnh và nhà Nguyễn là một vấn đề lớn, cần có thời gian và những công trình lịch sử nghiên cứu tỉ mỉ. Gần đây có những công trình nghiên cứu, đánh giá lại vai trò của các chúa Trịnh, hay công cuộc thống nhất đất nước của phong trào Tây Sơn và triều Nguyễn. Đó là công việc của các sử gia.
Về trường hợp Lý Trần Quán, thì hiển nhiên cái chết của ông là cái chết khí phách, trung liệt, được người đời sau ngưỡng mộ. Chỉ có kẻ phản thày, phản chủ Nguyễn Trang thật đáng phỉ nhổ.
Thời đại nào cũng có tiêu chí về đạo đức và nó mang dấu ấn của thời đại ấy. Việt Nam dưới thời phong kiến, tôn sùng khổng giáo, thì đạo bề tôi là hết lòng thờ vua, lấy chữ trung làm gốc, chứ kính làm đầu.
Một thời có ai đó từng mỉa mai, coi cái chết của Lý Trần Quán là sự trung quân mù quáng. Chính sự giễu cợt, mỉa mai ấy mới là điều phi đạo lý, bôi nhọ lịch sử, ngược với đạo đức truyền thống của người Việt Nam ta. Chẳng lẽ lại có thứ trung thành, tử vì đạo, vì lý tưởng cơ hội chăng? Và thử hỏi như vậy, sẽ giáo dục các thế hệ đời sau ra sao đây về lý tưởng, về đạo đức, về sự trung thành, nghĩa vụ của mỗi công dân với quê hương đất nước? ”