Vào những ngày Chủ nhật, khi mà hầu hết bọn trẻ đang thoải mái ngủ một đêm yên lành ở nhà, thì Billy Raven thường đi vơ vẩn trong những hành lang tối như bưng và những khu vực trống vắng của Học viện Bloor. Chỉ còn một đứa trẻ khác nữa ở trong tòa nhà này là Manfred Bloor, nhưng giờ hắn đã mười tám tuổi, kể như không còn là con nít, và vào những ngày cuối tuần, hắn thường tự giam mình ở trong chái phía tây cùng với cha hắn và lão già Ezekiel, ông cố hắn. Thỉnh thoảng, nếu Billy tiết lộ cho hắn một mẩu tin thú vị, chẳng hạn như tin gì đó về Charlie Bone, thì Manfred có thể sẽ thưởng cho thằng bé một thanh sô-cô-la. Và nếu thằng bé làm được việc gì mà lão Ezekiel Bloor sai bảo, thì lão già khụ này sẽ đãi nó một ly ca cao vào giữa khuya. Hôm nay là sinh nhật thứ tám của Billy, nhưng cho đến lúc này thì không ai nhớ ra điều đó. Năm ngoái, bà bếp trưởng đã làm cho ngày đó trôi qua chỉ với một câu “Chúc mừng sinh nhật, Billy,” không hơn. Người ta có lẽ sẽ thắc mắc làm sao mà Billy biết được ngày sinh của nó. Dù gì cũng không ai nhắc tới sinh nhật nó kể từ năm nó một tuổi. Billy biết, vì ngày đó luôn ghi khắc sâu đậm trong đầu nó. Billy biết, bởi vì những con vật biết và chúng đã nói cho nó biết. Khi cha mẹ Billy mất thì nó vẫn còn ẵm ngửa. Nó được một người cô tử tế nhưng nghiêm khắc nuôi dưỡng. Khi Billy được hai tuổi, một chiếc bánh kem tuyệt đẹp được gởi đến theo đường bưu điện. Con chó của cô nó ăn mất cả bánh lẫn đèn cầy. Vì tội này mà con chó bị một trận đòn, và kèm thêm cả con mèo nữa cũng bị đánh. Vào ngày 4 tháng 5, khi Billy được ba tuổi, con chó và con mèo cùng nhắc nó: “Ngày bánh, Billy!” Nhưng chẳng có chiếc bánh nào tới. Sự việc cũng xảy ra tương tự khi Billy bốn tuổi, rồi năm tuổi. Tính cho tới lúc ấy, Billy và các con vật đã thường hay trò chuyện lâu với nhau, mà cô nó không nghe thấy. Khi Billy được sáu tuổi, nó bỗng hỏi cô nó: “Hôm nay con sẽ có bánh chứ?” Cô nó hỏi lại: “Ai bảo cho mày biết hôm nay là ngày sinh nhật của mày?” “Con chó và con mèo,” Billy thật thà. Cô nó sững sờ nhìn nó. Cuối cùng bà bảo: “Vậy là, mày có thể nói chuyện được với thú vật?” “Dạ phải,” Billy xác nhận, nghĩ rằng đó là điều mà tất cả mọi người đều biết làm. “Con nói chuyện với chúng hoài.” Cô nó không nói thêm gì nữa, nhưng vào đúng tuần sau, Billy được gởi tới Học viện Bloor. Nó cô đơn trong tòa nhà đồ sộ, tối hù này. Nó luôn cảm thấy hoang mang, bối rối, và rồi nó bắt đầu nghĩ rằng người ta đang cố ý giấu giếm nó mọi thứ. Họ không muốn nó biết nó thật sự là ai. Tuy nhiên, bà bếp trưởng lại rất nhân từ, và nó thường nói chuyện với con chó May Phúc, một con chó già, mập ú, có cái đuôi trụi lủi. May Phúc chắc hẳn là rất xấu xí, dẫu vậy bt rất yêu quý nó. Con chó già này luôn có thời gian để lắng nghe Billy. Học kỳ vừa rồi bt đã đá May Phúc, nhưng nó không cố ý. Chỉ là sự việc cứ thế xảy ra, và Billy hối hận ghê lắm. May Phúc có lẽ sẽ không nói chuyện với nó nữa, chỉ còn lũ chuột nhắt, và thỉnh thoảng một con chuột cống, để nói chuyện cùng. Bọn chuột nhắt chán phèo chúng chỉ quan tâm đến đồ ăn với lại con nít mới sinh. Chuột cống có khá hơn. Thầy Boldova có một con chuột đen hay cà rỡn. Tên nó là Rembrandt. Hôm nay thầy Boldova đã đem Rembrandt đi dạo rồi. Billy tự hỏi họ đi đâu. Hy vọng sẽ được chiêu đãi món gì đó, nó bắt đầu lần mò đi lên lầu trên cùng của chái phía tây, nơi lão Ezekiel sống. Lão già này có một căn phòng rộng mênh mông, ẩm móc, chất toàn những đồ cổ lỗ: bình và lọ, xương và gươm, cùng những hũ ngâm con gì đó chết. Lão Ezekiel là một phù thủy, nhưng không phải là phù thủy tài giỏi cho lắm. Billy vừa lên hết một cầu thang ọp ẹp thì nghe thấy một tiếng rú. Nó ngó xuống hành lang dài, thắp sáng bằng đèn khí, dẫn tới phòng lão Ezekiel. Có cái gì đó đang lao về phía nó: một con chó mập lùn đang ngỏng cổ tru thảm thiết. “May Phúc!” Billy ậm ừ bằng ngôn ngữ của chó. “Chuyện gì vậy?” “Đuôi! Đuôi!” May Phúc hét ầm. “Đuôi đau!” Con chó già chạy lại chỗ Billy. “Cậu có thấy không?” Nó đứng lên bằng hai chân sau. May Phúc đã từng có một cái đuôi trụi lủi, xấu chưa từng thấy. Thứ mà nó có hôm nay trông càng xấu tệ. Một mẩu thịt hồng, tí nị lòi ra ở mông. “Đuôi sót lại không còn bao nhiêu, tao nghĩ thế,” bt nói. “Chuyện gì xảy ra vậy?” “Rắn,” May Phúc nói. “Rắn xanh da trời. May Phúc cắn rắn. Lão Ezekiel bảo ‘không’. Rắn siết đuôi. May Phúc chạy.” “Hình như nó căn đứt đuôi mày rồi,” Billy nhận xét. “Không, không, không! Đuôi vẫn còn đó,” May Phúc tru lên. “Bị nghiến. Bị siết. Ối đau!” “Thật mà, không có đuôi ở đó mà,” Billy nói. “Láo!” May Phúc rú vang. “Nói bà bếp trưởng.” Billy không thích cái vụ con rắn xanh da trời này. Nó quyết định không đi tới chỗ lão Ezekiel nữa. Thay vào đó nó sẽ đi kiếm bà bếp trưởng. Billy chắc chắn sẽ không bao giờ quên ngày sinh nhật lần thứ tám của mình. Nó không nhận được thiệp hay quà. Nó thậm chí còn không tới được nhà bếp, chỗ của bà bếp trưởng. Có chuyện xảy ra trên đường nó tới đó. Nó đang bước qua chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh thì thấy nữ sinh mới, Belle, xuất hiện. Con bé xổ ra từ một cánh cửa hỏ dẫn lên tháp nhạc. Hầu như cùng lúc, thầy Boldova bước ra khỏi phòng để áo khoác xanh lá cây ở đầu kia tiền sảnh. Đứa con gái và thầy hội họa trố mắt nhìn nhau một thoáng. Bất thình lình Belle lên tiếng: “Chào Samuel Sparks.” Thầy giáo hội họa đáp. “Vậy bà là…” “Có đoán ra ta là ai thì cũng không có phần thưởng đâu,” Belle cười khành khạch. Giọng đứa con gái nghe già và trầm đục. “Yolanda,” thầy giáo thì thào, như thể thầy sợ cái tên ấy. “Phảảảiii!” Đứa con gái vung cánh tay lên, và khi nó làm vậy, một bức màn xám giống như làn khỏi mỏng phụt lên, bắt đầu cuồn cuộn quanh thân thể. “Mi thấy ta thì cho mi khỏi thấy luôn.” “Rủi quá, ta vẫn thấy bà,” thầy dạy vẽ lầm bầm. “Samuel khốn khổ kia. Mi tới để kiếm thằng nhóc em của mi phải không? Hừ, đừng hòng bao giờ kiếm được nó.” Belle đang biến đổi hình dạng. Những bụi tóc trắng phun vô những lọn tóc vàng, những nét thanh tú giãn ra và méo xệch đi, rồi nó từ từ cao lên, cao lên. Giờ, cô nữ sinh đã biến thành một mụ già da vàng ệch, lõng thõng nhiều đụn thịt dưới cằm và một chóp mũi to xụ, sần sùi. Billy không muốn xem tiếp. Nhưng nó không thể điều khiển được bản thân. Nó khuỵu gối xuống và lõ mắt nhìn ra giữa những thanh vịn cầu thang bằng gỗ sồi. Thầy Boldova tiến lại gần mụ phù thủy. Thầy rút cái gì đó ra khỏi túi quần và xòe bàn tay ra. Một nắm đá nhỏ nằm trong lòng bàn tay thầy, từ từ chúng bắt đầu phát sáng, và rồi, một quầng sáng đỏ bùng lên khỏi bàn tay thầy. Billy hà hốc miệng, mắt kính tuột khỏi mũi, và nó cố ráng chụp lại kịp. Hai người kia quá tập trung vào nhau nên chẳng ai chú ý tới nó. “Cái thứ đó sẽ chẳng giúp được mày đâu, Sparks,” mụ Yolanda châm chọc. “Ollie là một thằng quỷ tọc mạch, nó phải bị trừng phạt. Và bây giờ đến lượt ta phải trừng phạt mi.” “Để coi!” Thầy Boldova nâng nắm tay lên và liệng mớ đá đang cháy vô mụ già. Mụ ta hét lên khi tóc và một chút quần áo xám của mụ bắt đầu bốc cháy, và rồi, bằng giọng đùng đục, ớn lạnh, mụ ta gầm lên: “Đồ chết tiệt!” Mụ nhìn thầy giáo trừng trừng. Trừng mắt rồi lại trừng mắt. Thầy giáo tiến một bước về phía mụ già và chúi nhũi. Thầy bước thêm một bước nữa và dừng lại. Mặt thầy trắng bợt, mắt thầy lộ vẻ hãi hùng và dại đi. Tuyệt vọng, thầy lần tay vô túi quần, lần tìm thêm đá lửa, nhưng thầy không thể rút tay ra được. Thầy không thể cử động. Xem ra thầy đã ngừng thở rồi. “Thế sẽ dạy cho mày một bài học,” Yolanda rít lên. Mụ vuốt vuốt mái tóc và phủi phủi những vết cháy xém trên váy, rồi quay gót và biến mất sau cánh cửa dẫn lên tháp nhạc, để lại thầy Boldova im lìm và cứng đờ như một bức tượng. Thình lình, có một tiếng chít lớn, một con chuột đen nhảy ra khỏi túi quần thầy Boldova và chạy băng qua tiền sảnh. Nó bắt đầu nhảy lên các bậc thang, và khi lên hết cầu thang, nó phóng lẹ tới chỗ Billy. “Cứu!” Con chuột la chit chít. “Cứu! Cứu!” Nó ngước nhìn lên Billy khẩn nài. “Cứu Rembrandt!” Nó rú lên. “Cứu chủ nhân!” “Để tao coi,” Billy nói. Nó lượm con chuột lên và bước chầm chậm dọc theo chiếu nghỉ. Thầy dạy vẽ vẫn chưa cựa quậy. Billy chạy xuống dãy cầu thang rộng. Những hòn đá cháy nằm vương vãi khắp tiền sảnh và Billy phải bước len lỏi giữa chúng. Lúc này những hòn đá đang dần mất đi màu sắc, vài hòn đá đã ngả màu xám tro, trông như xỉ than. Thầy Boldova hình như không trông thấy Billy. Thằng bé tóc trắng tiến lại gần hơn và nói: “Thưa thầy, con chuột của thầy này,” nó trao Rembrandt cho thầy. “Cái gì?” Thầy Boldova nhìn lom lon Rembrandt. “Cái gì đây?” “Con chuột của thầy,” Billy lặp lại. “Tôi không có chuột.” Rembrandt chít lên một tiếng não nề. “Đúng nó là của thầy mà, tên nó là Rembrandt.” Thầy Boldova bắt đầu nhúc nhích, nhưng rõ ràng thầy không còn là thầy nữa. Thầy quay người và bước đi về hướng ngược lại. “Vứt nó đi!” Thầy hét. “Thảy nó vô thùng rác!” Nếu chuột có thể ngất xỉu thì hình như Rembrandt đã xỉu rồi. Dường như thế thật, nó nằm bất động, mềm oặt. Billy nhét con chuột vào dưới chiếc áo len chui đầu của nó và chạy lên phòng ngủ chung. “Đi rồi,” con chuột lào khào khi Billy nằm kền ra giường. “Cái gì đi rồi?” Billy nói. ”Ý mày là thầy Boldova hả?” “Chết,” Rembrandt nói. “Ánh sáng đi rồi.” Billy hiểu ra ý của con chuột muốn nói gì. “Ý mày là con người thật của thầy phải không? Linh hồn của thầy ấy?” Rembrandt thở dài. Billy bàng hoàng trước những gì vừa chứng kiến, đến nỗi nó không sao ngừng run lập cập được. Belle không phải là một nữ sinh gì hết, mà là một bà già, già khú khụ. Bà ta vừa thay hình đổi dạng, nhưng bà ta cũng vừa làm cái gì đó thật kinh khủng với thầy Boldova. Belle là kẻ thôi miên, giống như Manfred Bloor. “Hai phép thuật cùng một lúc.” Billy lẩm bẩm một mình. Nó nằm ngửa trên giường và nhắm mắt lại. Nó ước gì có thể về nhà và nói chuyện với ai đó. Nhưng nó không có nhà để mà về. Lão Ezekiel đã hứa với nó là nó sẽ được nhận làm con nuôi, nhưng cha mẹ tử tế mà lão nhắc tới đó không bao giờ tới cả. “Nói với bà bếp trưởng,” một giọng vang lên. Billy mở mắt ra. Con chuột đang ngồi trên ngực nó, nhìn nó chăm chăm. “Nói với bà bếp trưởng,” con chuột nhắc lại. “Bà bếp trưởng biết rất nhiều chuyện.” Nghe nhắc tới bà bếp trưởng, Billy chợt nhận ra nó đang đói bụng cồn cào. Nó bèn tuột khỏi giường, đút Rembrandt vào dưới lớp áo len, rời khỏi phòng ngủ chung và rón rén đi xuống lầu. Khi ra tới tiền sảnh, nó thấy đèn đã bật sáng và những mẩu than cháy lụi đã được dọn dẹp sạch. Thật khó mà tin rằng chỉ một giờ trước thôi, nơi đây đã diễn ra một trận chiến biến hình và quăng đá lửa. Billy vội vã đi về phía sảnh ăn tối. Nhưng khi nó đi ngang qua phòng huynh trưởng thì Manfred Bloor xổ ra. “A, mày đây rồi, Billy,” thằng huynh trưởng nói. “Trông mày lén lút vậy. Có gì xảy ra không?” Billy lưỡng lự. Nó cảm giác sự việc Belle biến hình la điều nó không nên nhìn thấy. “Kh… không, thưa anh Manfred.” “Không có gì để kể cho anh sao?” Billy rất muốn kể về Belle vả thầy Boldova, nhưng như thế nó có thể sẽ phải nhắc tới con chuột. Mà nó thì tha thiết muốn giữ con chuột lại. Nó lắc đầu: “Không.” “Không? Không có tin sốt dẻo gì về Charlie Bone à?” Đôi mắt như tha của Manfred nháng lên. Không thể thôi miên Billy được. Nó đã phát hiện ra điều này ngay từ lúc mới tới Học viện Bloor. Manfred đã thử lấy nó để luyện tập phép thuật kinh khủng của hắn, nhưng không bao giờ có tác dụng. Có lẽ là do con mắt đỏ đậm của nó. “Không có gì để báo cáo cả,” nó nói. Manfred lộ vẻ thất vọng. “Cái gì dưới áo mày đó?” “Bao tay của em, em thấy lạnh.” “Xời!” Manfred dài giọng, vẻ chế nhạo. “Hôm nay là sinh nhật em,” Billy nói. “Tiếc quá. Anh chẳng có gì cho mày cả. Bây giờ, nếu mày có gì kể cho anh nghe, thì, à, anh có thể sẽ tìm được một ít sô-cô-la cho mày.” Billy rất mê sô-cô-la. Mà lại là ngày sinh nhật của nó nữa. Tất cả những gì nó cần làm chỉ là kể cho Manfred những gì nó đã thấy và đưa con chuột ra. Nhưng Manfred sẽ làm gì với Rembrandt? Billy hơi rùng mình một cái và bảo. “Thiệt tình là em có một ngày chán phèo.” “Trường hợp của mày là bó tay. Mày có biết thế không, Billy?” Manfred nói đầy khinh miệt. “Xin lỗi anh Manfred,” Billy tất tưởi đi xa khỏi thằng huynh trưởng. “Anh e là anh không thể đến dự tiệc sinh nhật của mày,” Manfred hét với theo. “Tiệc sinh nhật nào?” Billy lầm bầm khi nó đi qua những bức chân dung, qua ba căn-tin, và xuống, xuống tuốt nhà ăn ở dưới lòng đất. Và ở đó, nó thấy có người nhớ tới sinh nhật của nó. Một chiếc bánh kem thật lớn nằm ở cuối cái bàn để đàn. Chiếc bánh có tên của Billy ở trên, bao quanh là tám ngọn nến sáng lung linh. Billy há hốc miệng, ngạc nhiên, và ngồi xuống bên cạnh chiếc bánh. Rembrandt thò đầu ra khỏi cổ áo len của Billy,thốt lên: “Trời! Bánh kem với đèn cầy.” Và rồi bà bếp trưởng xuất hiện, hát bài “Chúc mừng sinh nhật” bằng giọng cao vút, run run. “Cảm ơn bà bếp trưởng,” Billy thổi nến, thầm ước một điều ước bí mật và tự cắt cho mình một lát bánh lớn. “Ta thấy con đem theo một khách mời,” bà bếp trưởng gật đầu với Rembrandt. “Con tìm thấy nó ở đâu vậy?” Billy nhìn vẻ mặt phúc hậu, hồng hào của bà bếp trưởng và đột nhiên nó tuôn trào tất cả: cái đuôi của May Phúc, những hòn đá lửa bay, Belle biến hình, và trận chiến kinh hoàng mà nó vừa mục kích. Bà bếp trưởng vén vạt tạp dề lên lau vầng trán đỏ hây của mình, và ngồi xuống bên cạnh Billy. Trông bà lo lắng, nhưng không hề ngạc nhiên. “Vậy đúng mụ ta rồi,” bà lầm bầm. “Ta biết ngay là có điều không bình thường ở con bé đó. Thầy Samuel Sparks đến đây vì mục đích gì?” “Thầy tới để kiếm cậu em nhỏ của thầy,” Billy nói với bà bếp trưởng. “Ollie Sparks? Vậy ra thằng bé vẫn còn ở đây?” Bà bếp trưởng có vẻ rất ngạc nhiên. “Dạ phải. Con nghe bà già nói thế. Bà ta còn bảo là không ai có thể kiếm ra cậu bé ấy.” “Trời ơi, họ nhốt thằng bé ở đâu? Ta luôn lo lắng về nó. Bấy lâu nay nó ăn gì? Phải chi ta biết được.” “Bà nghĩ là họ vẫn bỏ đói anh ấy à?” Billy nói. “Ô, ta hy vọng là không, Billy. Trời ơi. Phải làm gì đây?” Bà bếp trưởng đứng lên, vuốt lại tạp dề. “Ta khuyên con không nên ăn hết cả chiếc bánh đó, Billy. Chừng nào con và con chuột ăn thỏa thích rồi, thì ta sẽ tới và cất phần còn lại đi, để dành cho cuối tuần sau.” Khi bà bếp trưởng đi về hướng nhà bếp, Billy nói với theo. “Con biết mọi người nghĩ con là do thám, nhưng con sẽ không nói cho Manfred và lão Ezekiel biết về những gì con thấy đâu, con hứa.” Bà bếp trưởng quay lại và nhìn Billy. “Ta chắc chắn là họ biết cả rồi. Về chuyện con làm do thám, ta không trách con, Billy. Một ngày nào đó con sẽ có cha mẹ như con mong ước, nếu gia đình Bloor không kiếm cho con thì ta sẽ kiếm. Nhưng ngay bây giờ, ta phải đi đây, để còn kiếm con chó tội nghiệp bị mất đuôi.” Khi bà bếp trưởng vội vã đi hết hành lang treo đầy những bức chân dung, một luồng gió lạnh thổi vù quanh mắt cá chân của bà. Như vậy có nghĩ là cổng chính vừa được mở ra. Bà tới tiền sảnh vừa kịp lúc thấy một người lách qua cánh cổng đôi, trước khi gã Weedon đóng sập cổng lại. “Đó là ai vậy?” Bà bếp trưởng hỏi. “Việc gì tới bà?” Gã Weedon gắt gỏng. Bà bếp trưởng rụt vai lại và nói: “Tôi hỏi một câu lịch sự. Điều tối thiểu ông có thể làm là đáp lại tôi một câu cho lịch sự.” “Ốốố!” Gã Weedon móc mỉa. “Thôi đi! Thôi đi!” “Ông có trả lời tôi không?” Bà bếp trưởng hỏi. “Không,” gã Weedon đóng chốt cửa cổng lại và đi khỏi. Bà bếp trưởng, vốn có linh cảm cực nhạy, biết rằng một nạn nhân nữa vừa mới bị đưa vô bẫy. Và từ những gì Billy kể, bà đoán ra nạn nhân đó là ai. Và bà đoán đúng. Thầy Boldova, tay xách va li, bước qua mảnh sân gạch và đi qua cổng vòm giữa hai ngọn tháp của Học viện Bloor. Thầy đi xuống những bậc thang tới quảng trường rải sỏi, và ở đó, ánh mắt thầy bị hút về hướng vòi phun nước hình đàn thiên nga đá ở giữa quãng trường. Thác nước ánh lên như vàng óng trong những tia nắng mặt trời cuối cùng. Thầy Boldova nhíu mày. Tại sao mình lại ở đây? Mình định sẽ đi đâu? Mình là ai? Một chiếc xe hơi đen đỗ xịch lại ở đầu kia quảng trường. Tài xế, một phụ nữ tóc xám, vẫy thầy Boldova. Thầy bước lại gần bà ta. “Tôi cho anh đi nhờ được chứ?” Người phụ nữ hỏi. “È…” Thầy Boldova gãi đầu. “Tôi không biết mình sẽ đi đâu.” “Tôi biết,” người phụ nữ nói. “Tôi là nhà tiên tri mà. Vô đi, Samuel.” “Tôi chưa biết…” “Lẹ lên. Chúng ta không có cả ngày đâu,” tiếng cười của người phụ nữ lạnh tanh và rin rít. “Nhân tiện, tên tôi là Eustacia.” Thầy Boldova giơ một bàn tay lên che ngang mắt. Dường như không có nơi nào khác để đi. Thầy bước vòng quanh chiếc xe và leo vô ghế hành khách. Có một việc gì đó thầy phải làm tiếp theo, nhưng đó là việc gì nhỉ? “Quên dây an toàn đi!” Bà cô Eustacia lại phá ra cười hoang dại, và chiếc xe rồ máy, vọt đi với tốc độ kinh hồn. Trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên, vào sáng thứ Hai, khi Charlie và Fidelio đang treo áo chùng trong phòng để áo khoác xanh da trời, thì Billy Raven vô, với một cục gì phồng lên trong áo len của nó. Chỗ phồng nhúc nhích và Charlie hỏi Billy đang giấu cái gì. “Không có gì,” Billy nói, bỗng đỏ mặt. “Ê này, Billy. Không có gì là sao,” Fidelio bảo. “Nó kêu chít chít kìa.” Billy đang định chối biến thì một cái đầu chuột đen ló ra khỏi cổ áo len của ó. “Đó là Rembrandt,” Charlie nói. “Em làm gì với nó vậy?” Billy dẫu môi ra, rồi mấp máy: “Thầy Boldova đưa nó cho em.” “Anh cá là thầy không hề đưa,” Charlie nói. Billy vụt khỏi phòng, chạy dọc theo hành lang ra cửa vườn, Charlie và Fidelio rượt theo. “Được rồi, Billy,” Charlie gọi. “Bọn anh sẽ không quy tội em gì hết. Chuột vẫn sổng ra mà.” Billy không dừng lại. Bó vẫn chạy cho tới khi biến mất trong biển người nhấp nho. Cũng từ biển người ấy nhô ra hai nữ sinh chạy về phía hai thằng con trai. “Có chuyện gì kinh khủng mới xảy ra.” Emma thở gấp. “Chuyện gì?” Bọn con trai cùng hỏi. Trong khi Emma thở hổn hà hổn hển, Olivia nói: “Thầy Boldova rời trường rồi.” “Không đời nào,” Charlie sửng sốt. “Nếu đi thì thầy đã nói với tụi mình rồi.” “Đúng mà.” Emma đã lấy lại hơi. “Có chuyện khủng khiếp đã xảy ra với thầy. Mình biết vậy. Mình có cảm giác ghê ghê là hai đứa kia có liên quan.” Nó nhìn qua Dorcas và Belle, đang ngồi trên bãi cỏ, thì thào với nhau. Bị lỡ mất cuộc hẹn ở quán Cà Phê Thú Kiểng, Fidelio chẳng hiểu đầu cua tai nheo là tụi bạn nó đang nói về cái gì. Cho nên, bốn đứa bạn dạo quanh vườn trong khi Charlie thuật lại tỉ mỉ mọi thứ cho Fidelio nghe. Một nhoáng sau, chúng đã có thêm Gabriel nhập bọn. Gabriel thông báo là nó vừa thấy Billy đang cho một con chuột đen ăn bánh mì nướng. Có thể nào đó là Rembrandt? “Có lẽ,” Charlie nói. “Mà đúng là nó thật. Giờ họ nói thầy Boldova đi rồi, nhưng em nghĩ có chuyện gì đó khủng khiếp đã xảy ra với thầy.” “Có liên quan đến con kia không?” Gabriel nói, mắt nhìn Belle xinh đẹp, tóc vàng óng, giờ đang chải những lọn tóc. Olivia thình lình đứng sựng lại ngay tại chỗ. “Nếu con nhỏ đó là người biến hình, thì sẽ khó mà biết chính xác nó đang ở đâu. Nó có thể biến ra bất kỳ người nào.” “Hay bất kỳ cái gì,” Fidelio nói một cách ảm đạm. Ý nghĩ này kinh khủng đến độ cả bọn im thin thít. Tối đó, trên đường tới phòng làm bài tập về nhà, Charlie đuổi kịp Billy Raven, đang bê đầy sách. “Em đưa Rembrandt đi cùng à?” Charlie hỏi. “Không. Em cất nó trong tủ âm tường phòng ngủ chung,” Billy nói khẽ. “Anh nghĩ tụi mình nên kiếm cho nó một chỗ khác,” Charlie nói. “Bà giám thị sẽ nghe tiếng nó cào sột sột, ai mà biết bà ấy sẽ làm gì nếu bà ấy bắt gặp một con chuột trong phòng ngủ chung.” Billy rùng mình. “Chắc chắn con chuột sẽ là một người bạn tốt. Nó đã kể cho em nghe nhiều chuyện mà em không biết.” “Nó có kể cho em nghe tại sao thầy Boldova rời khỏi trường không?” Charlie hỏi. Đôi mắt màu hồng ngọc của Billy trợn lên khỏi phía trên cặp kính. Nó nhún vai. Bất giác Charlie nghĩ rằng Billy hẳn là đã nhìn thấy những gì xảy ra với thầy giáo dạy vẽ. “Em biết điều gì đó, phải không Billy?” Chúng đã tới cánh cửa đen cao nghệu của phòng Nhà Vua, và mặc kệ Charlie, Billy cứ đẩy cửa bước vô. Đống sách bật khỏi hai cánh tay nó và đổ nhào xuống sàn. “Từ từ, Billy Raven!” Manfred quát. “Cái gì mà vội vã vậy?” Từ chỗ ngồi của mình giữa Asa và Dorcas, Belle mỉm cười với thằng bé bạch tạng. “Đừng khắt khe thế, Manfred. Nó còn nhỏ mà,” Belle nói. Manfred ngạc nhiên nhìn con bé. Khi Charlie cúi xuống giúp Billy thu lượm sách vở lên, nó nhận thấy hai tay thằng bé đang run lẩy bẩy. Billy rất sợ hãi. Trước khi, mười hai đứa trẻ được ban phép thuật ngồi đồng đều quanh chiếc bàn tròn. Nhưng dần dần, vị trí của chúng đã thay đổi. Bây giờ thì phân thành hai nhóm rõ rệt. Manfred, Asa, Belle và Dorcas ngồi một bên vòng tròn, trong khi Tancred, Lysander, Gabriel, Emma và Charlie ngồi ở phía bên kia. Billy bị dôi ra. “Ngồi gần anh này, Billy,” Charlie nói nhỏ. Billy mỉm cười với nó đầy biết ơn, và đặt chồng sách kế bên Charlie. Sau giờ học bài, Charlie đi kèm sát Billy khi chúng về phòng ngủ chung. Gabriel đuổi kịp hai đứa, và vì vẫn yêu thích thú vật, thằng này hỏi thăm xem điều gì đã xảy ra cho Rembrandt. Khi nghe nói Rembrandt bị nhốt trong tủ âm tường, nó đề nghĩ bọn chúng nên đem con chuột vô phòng vẽ, nơi thầy Boldova vẫn giữ con này trong một cái lồng rộng, thoáng khí. “Nhưng em có đi thăm nó được không?” Billy hỏi. “Em không thuộc khoa hội họa.” “Dĩ nhiên lả được,” Gabriel bảo đảm với Billy. “Emma luôn ở trong phòng vẽ. Em cứ hỏi chị ấy…” “Được,” Billy vụt lên trước. Và khi những đứa khác về tới phòng ngủ chung thì Billy đang ngồi chờ, cùng với Rembrandt ở dưới vạt áo chùng. Phòng vẽ ở cùng một tầng với phòng ngủ chung của bọn con trai. Đó là một không gian rộng thênh, mái trần cao, với những cửa sổ dài hướng về phía bắc, nhìn ra khu đổ nát. Những khung vẽ với giá đỡ đủ mọi tư thế dựng khắp phòng, những tấm vải bạt được xếp thành từng chồng ba hay bốn tấm dựa vô khắp các bức tường. Lồng của Rembrandt ở trong một góc, bên cạnh kho chứa màu vẽ. Không có ai ở trong phòng vẽ, ngoại trừ Emma. Con bé đang vẽ một con chim màu trắng thật lớn, bay qua khu rừng. Nó ngừng vẽ để chỉ cho bọn con trai nơi thầy Boldova cất đồ ăn cho Rembrandt, ở cuối kho màu vẽ. Khi con chuột đen được đặt vô một chỗ thoải mái rồi, với nước sạch và thật nhiều hạt ngũ cốc, Emma khóa cửa lồng lại. “Mình không thể không nghĩ tới thầy Boldova,” con bé nói. “Cả khoa học đều nhớ thầy. Bồ biết đó, hình như thầy luôn đứng về phía tụi mình.” Không một dấu hiệu báo trước, bất ngờ, nước mắt rơi lã chã trên má Billy. “Em biết, em biết,” nó sụt sịt. “Em đã trông thấy tất cả.” “Em đã thấy cái gì?” Charlie hỏi. Billy quệt tay áo ngang mặt, và bằng giọng khiếp đảm, nghẹn ngào, nó thuật lại những biến cố khủng khiếp trong ngày sinh nhật thứ tám của nó: cái đuôi của May Phúc, người phụ nữ già khụ hiện ra từ thể xác của Belle, những cục than bay, và tình trạng cứng đơ đáng sợ, đột ngột giáng xuống thầy giáo dạy vẽ. “Thầy không muốn nhận Rembrandt,” Billy nức nở. “Hình như thầy quên hết mọi thứ… Thậm chí quên luôn mình là ai.” “Bị thôi miên rồi,” Charlie lầm bầm. Bọn kia kinh hãi nhìn Bloor chằm chằm, và Emma bảo: “Không gì mà Belle không thể làm được, phải không? Giờ tụi mình sẽ phải giúp Ollie như thế nào?” “Các anh chị biết anh ấy ở đâu à?” Billy hỏi. Charlie phân vân không biết có nên cho thằng bé biết hay không. Charlie rất tội nghiệp cho thằng bé bạch tạng này, nhưng nó đã từng là gián điệp cho Manfred. Tốt hơn là không nên cho nó biết quá nhiều thông tin, tới chừng nào cả bọn chắc chắn có thể tin được nó. Mấy đứa bạn Charlie rõ ràng cũng đi đến kết luận tương tự. “Không, tụi anh không biết nó ở đâu,” Gabriel nói. ”Anh nghĩ tụi mình nên về lại phòng ngủ chung đi, ko thì bà giám thị sẽ hoạnh họe cho coi.” Billy năn nỉ được ở lại thêm vài phút với Rembrandt, ba đứa lớn để nó ngồi chồm hổm bên lồng chuột, chít chít nhè nhẹ với con chuột đen. Billy ở lại nói chuyện với Rembrandt lâu hơn nó dự định rất nhiều. Cuối cùng, khi nó chuồn khỏi phòng vẽ thì bà giám thị đã thông báo tắt đèn rồi. Nó chạy gấp qua hành lang, kẹp chặt kình vô mũi, và bị ríu chân, té ngã. “Mày vừa ở đâu đó, Billy Raven?” Manfred bước ra từ một ngưỡng cửa, chặn đường thằng bé. Billy sợ đến nỗi không dám nói dối, nhưng nó quyết định chỉ nói một nửa sự thật. “Em… em vừa cho con chuột của thầy Boldova ăn,” nó nói. “Em bắt được nó ở trong hành lang.” “Anh không nghĩ mày nói thật, Billy,” Manfred lạnh lùng. “Thật, thật mà,” Billy cuống quít. “Anh nghĩ mày đã thấy cái gì đó, Billy. Anh nghĩ, mày đã cứu con chuột đen khi thầy giáo hội họa yêu quý đã ra đi của chúng ta bị một tai nạn nhỏ.” “Không, không!” Manfred quắc mắt nhìn xuống Billy. “Mày đã thấy cái gì?” “Em không thấy gì hết,” Billy lắp bắp, né nhìn con mắt đen thui, đầy vẻ hăm dọa của Manfred. “Nói láo. Mày đã thấy chuyện xảy ra với ông Boldova, và mày đã nói với Charlie Bone rồi, phải không?” Billy có cảm giác bất an rằng nếu nói ra sự thật thì nó sẽ khiến Charlie gặp rắc rối. “Không,” nó cương quyết. “Em chẳng thấy gì cả, và em cũng chẳng nói với Charlie cái gì hết.” Manfred thở hắt ra giận dữ. “Mày tưởng là anh se rời Học viện Bloor vào cuối học kỳ này sao?” Billy không hề nghĩ tới điều đó. Nó lắc đầu. “Tất cả những học sinh lớn khác đều sẽ ra trường. Bây giờ là học kỳ hè. Tụi anh có nhiều bài thi phải học. Cho nên tạm thời lúc này anh đang bận, nhưng anh sẽ không rời khỏi đây đâu. Anh sẽ ở lại đây và sẽ có rất nhiều thời gian để để mắt tới mày.” “Vâng,” Billy lí nhí. “Cho nên, tốt hôn mày hãi nhớ là mày đang làm việc cho ai, Billy. Nều không mày sẽ không bao giờ có được ba mẹ tử tế, dễ thương như mày muốn đâu.”