Bình luận 2

Phạm Minh Ngọc
Nguồn: Báo An ninh thế giới cuối tháng, số 43, tháng 2-2005
Kỷ niệm Cách mạng mùa thu
Nhà thơ Huy Cận: Lúc vào Đại hội Tân Trào, anh Trần Huy Liệu giới thiệu tôi vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng. Tôi nhớ là hôm đó bầu 15 người. Đến lượt tôi, anh Trần Huy Liệu giới thiệu: “Nhà thơ Huy Cận, bây giờ đã “bỏ bút nghiên theo việc đao cung”, xin Đại hội bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng”. Bỗng nhiên, ở hàng đầu có một ông dáng cao cao đứng lên nói: “Tôi không đồng ý!”. Tôi chột dạ, chắc ông này không muốn bầu mình vào Uỷ ban. Anh Trần Huy Liệu mới hỏi tại sao, thì ông phản đối mới nói thế này: “Tôi không đồng tình với việc “bó bút nghiên theo việc đao cung”; bầu nhà thơ Huy Cận nổi tiếng vào Uỷ ban thì tôi đồng tình, nhưng mà bỏ bút nghiên là không đúng. Bút nghiên cũng là vũ khí đấu tranh cho độc lập dân tộc”.
Người ấy là ai? Người ấy là đồng chí Tống, bí danh của đồng chí Phạm Văn Đồng. Cả ông Liệu và tôi thở phào một cái... Ở Đại hội Tân Trào có hai người làm thư ký đoàn là anh Khuất Duy Tiến và tôi... Đây này, đây là ảnh của Chính phủ lâm thời năm 1945! Cụ Hồ đây; còn đây là ông Trần Huy Liệu, Phó chủ tịch; ông Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia, ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Tài chính ông Nguyễn Mạnh Hà, Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia; ông Hoàng Tích Chí, Thứ trưởng Bộ Y tế ông Hoàng Minh Giám, Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ; ông Vũ Trọng Khánh, Bộ trường Bộ Tư pháp; còn đây nữa, ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ Canh nông (cười). Còn đây là ảnh Chính phủ trong kháng chiến ở Việt Bắc, Cụ Hồ đây, tôi được ngồi cạnh Cụ Hồ. Hôm đó, tôi đang tìm chỗ đứng thì Cụ bảo: “Chú ngồi đây”. Thế là Cụ Hồ ngồi đây và tôi ngồi đây. Lúc ấy, tôi 30 tuổi, năm 1949... Còn đây là hình Huy Cận năm Lửa thiêng ra đời, cũng khá đẹp trai đấy chứ (cười).
Phóng viên: Năm 1945, 26 tuổi, ông là Bộ trưởng Bộ Canh nông. Trên cương vị ấy, ông có làm được gì không?
Huy Cận: Trời ơi, rất có công! Anh nói như vậy là anh nghi ngờ thành tích của Bộ Canh nông hả? (cười). Được rồi, để tôi nói cho mà nghe. Tôi làm Bộ trưởng Bộ Canh nông từ tháng 9-1945 cho đến hết tháng 3-1946, khi thành lập Chính phú Liên hiệp kháng chiến thì tôi không làm Bộ trường nữa và Cụ Hồ giao cho ông Bồ Xuân Luật làm Bộ trưởng. Nhưng tôi không đi đâu cả Cụ Hồ bảo: “Chú cứ ở đấy nhưng mà chú làm Thứ trưởng, và bây giờ mọi việc chủ cứ làm như trước, chi có việc ký là người khác”. Sau trận đói Ất Dậu, đen lúc bấy giờ vẫn đói, nhiệm vụ của Bộ Canh nông rất cụ thể là tăng gia sản xuất gấp để cứu đói Tôi lúc đó được các anh em giúp việc như Hoàng Văn Đức, Bùi Huy Đáp... Chương trình của Bộ Canh nông là phải tăng gia sán xuất cứu đói bằng cách sán xuất những thứ ăn ngay, ăn nhanh như ngô 3 tháng, lúa 3 tháng, trồng rau, rau muống trồng khắp nơi, rồi nuôi gà, nuôi vịt,... Thế nhưng lấy vốn đâu, lấy gì ra để đầu tư. Thì đây có một nguồn đầu tư rất lớn là sức lao động đông đảo của bà con nông dân. Và những biện pháp mà Bộ Canh nông đưa ra đã có kết quả ngay: trên đường đi chỗ nào cũng thấy trồng rau. Thế là công tác cứu đói có kết quả ngay, cái thành tích lớn là như thế. Đồng thời, thành tích thứ hai là xây dựng cơ sở cho bộ máy canh nông, từ Bộ, rồi Cục, Viện nghiên cứu, Sở Canh nông ở các tỉnh... Việc tổ chức bộ máy rất nhanh và anh em làm việc tích cực lắm. Tôi xin nói với các anh một câu mà thường thường người ta hay quên, đó là “thần thiêng nhờ bộ hạ”. Tôi là Bộ trưởng, tất nhiên tôi cũng là một kỹ sư canh nông, nhưng nhờ có anh em đoàn kết chung sức với mình, Hoàng Văn Đức rất có công, Bùi Huy Đáp rất có công. Phải biết là trong Cách mạng Tháng Tám, Nông hội có uy tín rất lớn. Nhân đây, tôi cũng xin nói với các anh rằng, Cách mạng Tháng Tám là do nông dân làm nên là chủ yếu. Nông hội hồi đó có uy tín lắm, gần như là chính quyền thứ hai rồi...
Phóng viên: Khi ông còn rất trẻ, ông làm Bộ trưởng thì nói chung là rất khó khăn rồi, vì khi ta trẻ ta đã có kinh nghiệm gì đâu...
Huy Cận: Cứ làm thì nó ra kinh nghiệm. Các anh không biết cái câu nổi tiếng à: “Làm thì ra kinh nghiệm”!
Phóng viên: Thế việc ông làm Bộ trưởng so với sau này khi ông đã lớn tuổi làm Thứ trưởng thì...
Huy Cận: Khoan, khoan!... Nhà nước, cụ thể là Đáng và Bác Hồ giao gì thì tôi làm nấy, không có băn khoăn thắc mắc là tại sao lại hạ chức...
Phóng viên: Không, ý chúng tôi muốn hói là, khi nào ông cảm thấy khó khăn hơn?
Huy Cận: Tôi nói cho các ông nghe nhé, khi ấy tôi mới 26 tuổi, cũng mới ra trường được vài năm thôi, đã làm Bộ trưởng, mà tôi làm được. Cái ấy là nhờ anh em, nhưng mà trên hết là được sự dìu dắt của Bác Hồ, của Đảng... Hai nữa, không biết là tôi khoe hay cái gì nữa, nhưng có một cái mẫn cán như thế nào đó công việc nặng mình cảm thấy mình cũng nắm được, và bởi vì mình có ý thức về chính trị, mình có ý thức về văn hoá, thành thử mình dễ nắm. Và, quan trọng nhất là dựa vào anh em, “thần thiêng nhờ bộ hạ” mà (cười).
Tình thơ sóng đôi
Phóng viên: Ông với nhà thơ Xuân Diệu gặp nhau như thế nào?
Huy Cận: Tôi với Xuân Diệu gặp nhau lần đầu tiên ở Trường Quốc học Huế tháng 9-1936. Lúc bấy giờ, đấy mới chỉ là trường tú tài ở Huế, gọi là Trường Khải Định. Những người học sinh quê ở Trung Kỳ thường về học năm thứ 3 ở Huế. Anh Diệu đậu phần tú tài thứ nhất ở Hà Nội, ở Trường Bưởi, nhưng đến năm thứ ba, không chi mình anh Diệu mà còn một số người nữa cũng về học ở Trường Khải Định. Lúc bấy giờ, tôi mới vào năm thứ nhất của trường tú tài, còn anh Diệu đã năm thứ 3. Gặp nhau thì có một người giới thiệu, bảo: Ồ hai ông Hà Tĩnh mà đều làm thơ cả! Đọc thơ thì thích, nên có thể nói là kết nghĩa ngay lập tức, từ đó trở đi thành đôi bạn suốt đời 50 năm, kết bạn từ năm 193e, cho đến lúc anh Diệu qua đời tình bạn chúng tôi đã có với nhau hơn 49 năm, 49 năm mấy tháng, có thể nói là nửa thế kỷ tình bạn.
Phóng viên: Trong tập Thơ thơ Xuân Diệu có viết là “Tôi thích Rimbaud và Verlaine. Hai chàng thi sĩ choáng hơi men. Say thơ xa lạ, mê tình bạn, Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen....
Huy Cận: Viết trước khi gặp tôi. Đó là ông nghĩ đến cái tình giữa Verlaine và Rimbaud thôi, chứ không phải viết là do tôi và Xuân Diệu gặp nhau.
Phóng viên: Cả ông và nhà thơ Xuân Diệu hồi trẻ đều uống rượu chứ!
Huy Cận: Anh Diệu có uống rượu nhưng không uống nhiều, chỉ thưởng thức rượu. Còn tôi thì tuyệt đối từ trước đến nay không bao giờ uống rượu. Từ hồi đi học, rồi tới tuổi thanh niên và cho đến mãi sau này, ngay cả khi đi hoạt động quốc tế, hễ ai mời uống rượu thì tôi cũng nói rất thăng thắn là tôi không biết uống rượu. Tôi không uống rượu, không hút thuốc lá, nhờ thế mà khóe đấy Một số nhà thơ bị ung thư, mất sớm là do uống rượu nhiều quá đấy...
Ký ức tình yêu
Phóng viên: Hồi trẻ ông đẹp trai như thế này, thì nhiều cô mê lắm...
Huy Cận: Cũng có đẹp trai. Tôi nói thế này, tình yêu của tôi cũng như tình yêu của nhiều người, không có cái gì đặc biệt. Có những tình yêu lâu dài, dai dẳng cho đến tận sau này, cũng có những tình yêu ngắn ngủi và cũng có cả những tình yêu không thành, chứ không có gì đặc biệt. Anh cũng thế, ai cũng thế thôi, có những tình yêu không thành, mình muốn mà không thành, có những tình yêu thì thành nhưng mà ngắn ngủi, có những tình yêu dai dăng suốt đời... Tôi cũng may là có được nhiều tình yêu, cho nên...
Phóng viên:... Làm được thơ?
Huy Cận: Tất nhiên, nhưng nó cũng chi là một nguồn thôi chứ không phải là nguồn đuy nhất. Tình yêu đôi lứa không phải là nguồn thơ duy nhất. Còn có tình yêu đất nước, tình yêu thiên nhiên... Nhưng tôi cũng có những cái tình yêu hấp dẫn. Năm 1940, chưa ra tập “Lửa thiêng”, nhưng báo Ngày nay liên tục đăng thơ tôi. Thế là tôi liên tiếp nhận được thư của một người không ký tên, nhưng trời ơi! Thư viết hay lắm, mê lắm, xúc động lắm! Mà tôi tiếc là tập thư ấy cháy mất trong kháng chiến, tôi để nó trong một cái hòm ở Hương Khê, nhà bị cháy nên cháy luôn, tôi tiếc ngơ tiếc ngẩn. Cô này có trình độ văn hoá, có cả trình độ văn học nữa, mà không ký tên. Có cái lạ là, tôi đi đến đâu thì thư đi đến đấy Tôi đi nghi ở Đồ Sơn với Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, không biết lần mò địa chỉ thế nào mà thư đến kịp gặp tôi ở Đồ Sơn. Tôi học Trường Canh nông chủ yếu là ở Hà Nội, nhưng cũng có mấy tháng học ở Sài Gòn, thư cũng đến Sài Gòn. Lạ quá! Cái cô này, cô theo dõi mình một cách kinh khủng. Thư viết xúc động lắm!
Phóng viên: Chả lẽ sau này lại không gặp được nhau nữa?
Huy Cận: Cứ để tôi nói cho các anh nghe. Cái người viết ấy chữ không khác gì như chữ con trai, nhưng lời lại như lời con gái. Có một hôm, mùa đông năm 1940, tôi sắp sửa xách xe đạp đi học (Trường Canh nông hồi ấy ở Bách thảo, gần Lăng Bác Hồ bây giờ) thì có một cái bưu phẩm đến. Mình mở ra. Trời ơi! Một cái áo trắng rất đẹp. Đằng sau cổ thêu một câu thơ của tôi: “Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh”; câu ở trong bài Tình tự. Nhưng mà mình mở ra thì mặc không vừa, dù mình chưa béo như bây giờ... Thì mình cũng chả trách vì đã bao giờ người ta ôm mình đâu, mà mình cũng đã ôm người ta đâu mà biết vừa hay không (cười). Thành ra áo thì rất đẹp nhưng phải gói lại cho vào hòm rồi lại xách xe đạp đi. Hôm ấy trời rét nhưng mình cảm thấy ấm vô cùng. Sau đó mấy tuần, bấy giờ tôi ở ngõ Tân Hưng, nay là ngõ Tức Mạc, anh em ở chung khoảng 10 người, thì có một cô tự nhiên đến, mặc cái áo trắng rất đẹp, các ông ạ. Cái áo trắng bằng lụa Hà Đông. Cô ấy nói chuyện với tất cả mọi người nhưng mà phân biệt đối xử đối với tôi Thế thì mình cũng đủ thông minh và đủ linh tính, thôi, chắc người này viết thư cho mình rồi. Cô ấy là sinh viên Đại học Y học sau tôi một lớp, thua tôi một tuổi. Hết buổi nói chuyện, cô dắt xe đạp ra về, thì tự nhiên cái chân tôi đi theo. Tôi xin nói là cái chân tôi đi theo chứ không phải là tôi đi theo (cười). Ra đến cửa ngõ, tự nhiên cô ấy dừng lại. Lúc bấy giờ, cô nói như thế này: “Anh có nhận đủ thư em không?”. Tôi bảo: “Có!”. Thế là cô lên xe cô ấy đi không kịp nói câu gì nữa. Cách đó mấy hôm, tôi nhận được một cái thư viết như một chỉ thị: “Chủ nhật tới, anh đến gặp em”. Thế là mình ngoan ngoãn nghe thôi. Hẹn 9 giờ, 9 giờ kém 10', mình đến đã thấy cô ấy cũng đứng ở trước Trường Thú y trên đường Bạch Mai. Bây giờ gọi nhau thế nào? Tiếng Việt Nam tài lắm, mình định gọi em nhưng mà chưa đủ tình cảm để gọi em, gọi nàng thì “Tự lực Văn đoàn” quá (cười) gọi cô thì lại khách sáo. Không cô, không nàng, không em thì phải làm thế nào? Thế là hỏi một câu không có chủ từ: “Đi đâu bây giờ?”. Nhưng cô rất chủ động: “Anh đi theo em”. Thế là cô ấy lên xe đạp. Chỗ nào đường đông thì cô đi trước, mình lẽo đẽo theo sau; chỗ nào đường hơi rộng thì đi song song. Từ đó đi vào Thanh Xuân, trên đường vào Hà Đông thì dắt qua bờ ruộng đi vào một cái khóm cây, một cái rừng nhỏ, có một cái nhà thờ họ đạo nhỏ. Nói chuyện với nhau trên trời dưới đất, không đả động đến tình yêu. Gặp nhau lúc 9 giờ, đi đến nơi 10 giờ, từ 10 giờ đến 12 giờ không nói đến tình yêu. Trước khi đi, cô ấy có chuẩn bị bánh mỳ xúc xích đi theo. Đến 12 giờ, thì chuông nhà thờ đổ. Tôi nghe chuông nhà thờ đổ, tôi cũng xúc động đấy nhé, mà chuông chùa cũng thế! Lúc ấy cô ấy hỏi: “Anh có thuộc bài hát Cinema không?”. Tôi bảo tôi có thuộc, để tôi hát cho cô nghe, cô ấy bảo để em hát trước. Một bài hát rất hợp cánh với chúng ta, một cái bài hát trong đó có một thôn nhỏ, một cái nhà thờ nhỏ, một buổi sớm mùa xuân. Cô ấy hát xong thì khóc nức nở... (Huy Cận hát: “Tình yêu ơi, ta thấy mặt em trong một sáng mùa xuân... Tình yêu ơi, ta được thấy mặt em và cá lòng phản bội của ta...). Lúc bấy giờ thì tôi nói thật là chưa đủ tình cảm, thế nhưng người ta hát vì mình, người ta xúc động vì mình! Tôi ôm cô ấy, xúc động, một hồi lâu. Rồi khi cô ấy hết khóc thì lại nói chuyện trên trời dưới đất, không đả động đến tình yêu, rất lạ! Trong một hoàn cảnh như thế, tôi nói anh em thanh niên bây giờ các cậu không trong sáng bằng bọn tôi đâu. Chúng tôi lãng mạn nhưng rất trong sáng. Bây giờ chỉ 5 phút các cậu giải quyết hết! (Cười). Bọn tôi ngồi cả buổi sáng, đến 6 giờ chiều về mà vẫn chỉ êm ru thế thôi!
Phóng viên: Nhưng lớp trẻ bây giờ không có được khu rừng nhỏ với tiếng chuông nhà thờ như của ông. Bây giờ rừng nhỏ hết rồi toàn là đường sá với nhà nghỉ thôi. Còn đâu được sự trong sáng lãng mạn nữa!
Huy Cận: Không đi ra giữa thiên nhiên, các cậu không hiểu hết được sự kỳ vĩ của tình yêu đâu. Đã yêu nhau bao giờ cũng phải đi ra giữa thiên nhiên, bởi vì chỉ có kích thước của vũ trụ mới đo nổi nỗi xúc động của tình yêu. Đó là quy luật mà tôi khám phá ra. Chi có kích thước của vũ trụ mới đo nổi cái bề rộng, bề dài của rung động tình yêu. Các anh cũng đi ra giữa thiên nhiên thôi, các anh giấu tôi làm gì! (Cười). Tình yêu mà chỉ ngồi trong phòng thì không đủ, có đúng không? Buổi chiều về, về theo đường Tàu Bay, hồi ấy không có đèn đường mà chi có đèn dinamo. Cô ấy mua hai thẻ hương, cô ấy cầm một, tôi cầm một trên tay để người ta đỡ đâm vào mình. Về đến chỗ Trường Thú y thì dừng lại, cô ấy gục vào vai tôi giục: “Thôi anh về!”. Tôi khóc. Buổi trưa cô ấy khóc, buổi chiều mình khóc. Tôi khóc thật, khóc nức nở...
Phóng viên: “Chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm...
Huy Cận: Không, không... Tại sao tôi khóc? Tại vì tôi thấy mối tình đẹp quá, cái tâm hồn đẹp quá, vậy nên tôi khóc. Cô ấy bảo: “Thôi, anh về!”. Anh thấy cái tình lạ không. Sau này, tôi đi hoạt động ở Paris nhiều lần, người ta cho tôi biết địa chi, telephone của một phòng mạch ở miền Nam nước Pháp, đông khách mà cô ấy làm chủ. Tôi không lại. Tại sao? Tại vì tình ngày xưa nó đẹp như thế, bây giờ thì hai ông bà già hết rồi, con đàn cháu đống (cười) Thôi cứ để êm đi cái quá khứ. Nhưng cô ấy thỉnh thoảng có viết thư về cho một người bà con ở Hà Nội, bác sĩ Đặng Hiếu Chương. Anh Đặng Hiếu Chương bác tôi, chị ấy vẫn hòi thăm anh đấy. Bây giờ thì tôi tiết lộ được rồi. Cô ấy là người Bình Định...
Phóng viên: Cô ấy có đẹp không?
Huy Cận: Tôi nói rất công bằng. Cô ấy không xấu, không đẹp, nhưng mà xinh, có một cái duyên. Đẹp khác, xinh khác, nhưng cô ấy có một tâm hồn làm cho mình mê...
Phóng viên: Lâu hơn, dai dẳng hơn, sâu sắc hơn?
Huy Cận: Sâu sắc à? Nhưng đó chỉ là một trong những cái tình. Kháng chiến rồi thành ra dở dang. Về sau gặp nhau lại chỉ khóc thôi...
Phóng viên: Ông có phải là một người đa tình không?
Huy Cận: Anh đánh giá như thế nào thì đánh giá, nhưng qua cuộc đời thì tôi cảm thấy tôi đa tình. Đam mê...
Thích mọi giai đoạn
Phóng viên: Bây giờ nhìn lại cả đời thơ dằng dặc của mình, ông thích nhất giai đoạn nào?
Huy Cận (cười): Nói thế này thì hơi ham, tôi thích tất cả các giai đoạn. Giai đoạn trước Cách mạng, thơ của tôi thành công rất rõ nhé. Không phải thành công ở Lửa thiêng mà Vũ trụ ca cũng rất thành công. Như bài Xuân hành nổi tiếng. Anh Hoài Thanh hết lời ca ngợi cái bài này. Chế Lan Viên cũng ca ngợi... Nguyễn Đình Thi thấy bài Xuân hành ra đời, mừng quá, coi đấy là một bước tiến mới của Huy Cận và đã có một sức mạnh gì đó mới ở trong thơ. Sau này thì có hàng loạt bài các anh biết rồi đấy. Thơ của tôi, cả ở hai giai đoạn đều phát triển ở độ cao. Giai đoạn trước Cách mạng cũng cao và giai đoạn sau Cách mạng cũng cao. Bây giờ, người ta vẫn hay nhắc đến bài Các vị La Hán chùa Tây Phương. Trong thơ Chế Lan Viên có một cái đoạn thơ ông ấy nhắc đến ý cái câu đấy: “Một câu hỏi lớn không lới đáp/ Cho đến bây giở mặt vẫn chau”.
Phóng viên: Một nhà thơ mà yêu tất cả các tác phẩm, các giai đoạn của mình, kể cũng lạ...
Huy Cận: Và sau này còn nhiều bài nữa chứ, bài Trò chuyện với Kim Tự tháp... Bao nhiêu người đi xem Kim Tự tháp rồi, cả thế giới có bao nhiêu người viết về Kim Tự tháp? Đặt vấn đề về Kim Tự tháp? (Cười). Hay là cái bài Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa có 4 câu:
“Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ mào đó thắp bình minh
Mênh mông đứng gáy cho mùa chín
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thuý Tinh”.
Phóng viên: Bây giờ ông còn viết thơ tình?
Huy Cận: Không bao giờ hết tình đâu...
Phóng viên: ông có một chút buồn nào không khi không một đứa con nào cua mình theo nghiệp thơ?
Huy Cận: Không, tôi không buồn. Bởi tôi làm thơ là khiếu trời sinh... Khóc thể khóc theo Cách mạng
Huy Cận: Hôm nay, ông phó mộc ngồi nói chuyện với các ông! Ông Nguyễn Xuân Thiều từng nói với ông Vũ Quần Phương thế này: ông Huy Cận trông giống một ông phó mộc, nhưng lại tinh tế... Bây giờ sức làm thơ của tôi vẫn tốt, mỗi ngày ba bài.
Phóng viên: Và “bài hay xen lẫn với bài vừa”?
Huy Cận (cười): Tôi nói với các ông, ông Trường Chinh với tôi có nhiều ái duyên lắm. Về văn chương, lúc tôi hứa đi theo Cách mạng, năm 1940, thế mà ông Trường Chinh đọc thơ tôi, ông có nói với ông Lê Quang Đạo: “Cái thằng cha này chắc chắn phải đi theo Cách mạng”. Ông ấy đọc và cảm thấy trong thơ tôi một tâm hồn đầy chất dân tộc. Ông Trường Chinh rất mê bài Tràng giang và bảo, sao mà trong bài thơ ấy, đất nước đẹp thế, sao mà tiếng Việt Nam tuyệt diệu đến thế! Khi tập Lửa thiêng ra đời, ông Trường Chinh nhờ ông Lê Quang Đạo mua ngay một quyển... Tình quê hương với ai cũng quan trọng!
Đổ khuôn toàn thân nhà thơ Huy Cận
27-02-2005
Giam mình trong phòng lạnh, nơi bảo quản thi hài nhà thơ Huy Cận suốt một ngày trời, làm việc cật lực trong mùi hoá chất nồng nặc, ''căn'' thời gian đến từng phút, 6 người trong nhóm Đinh Gia Lê chỉ ''hoàn hồn'' khi đổ xong tượng cố nhà thơ, chuyển thi hài trở về ngăn lạnh.
Họ bước ra thì trời bắt đầu tối, về đến nhà thì ''quy” luôn. Sáng hôm 24-2, khi mọi người chuẩn bị đưa nhà thơ Huy Cận về cõi vĩnh hằng, thì Đinh Gia Lê, giọng khàn đi vì cái lạnh bị nhiễm hôm trước, thong thả kể lại công việc thiêng liêng vừa mới hoàn thành, để cho vóc dáng nhà thơ lưu lại mãi mãi...
5 giờ sáng, Đinh Gia Lê và kíp thợ của anh đã có mặt tại nơi đặt thi hài nhà thơ Huy Cận, mang theo lỉnh kỉnh đồ nghề. Anh thú thật: Tôi rất bất ngờ và lo lắng khi nhận được lời mời. Tự đổ tượng bản thân mình thì tôi làm rồi. Tự mình “dày vò” cái thân mình thì có ảnh hưởng đến ai, có hỏng cũng không sao. Thi thoảng bạn bè cũng đổ cho nhau, nhưng là đổ cho người sống. Chứ tôi chưa từng đổ tượng cho người chết. Bảy năm học điêu khắc ở bên Đức, tôi cũng chưa thấy ai làm theo cách này. Cụ Huy Cận là danh nhân, di hài được bảo quản trong phòng lạnh, bây giờ chuyển cụ ra môi trường ngoài để đổ khuôn, nhanh cũng phải ngót một ngày trời, không biết có bảo đảm không? Huống chi khi chuyển từ phòng lạnh ra nhiệt độ bình thường, bao giờ cũng bị đổ mồ hôi, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chất chống dính, không khéo đổ khuôn xong lại không bóc khuôn ra nổi...
Từ khi nhận được lời mời, chỉ còn chưa đầy 1 ngày để chuẩn bị. Không còn thì giờ nữa, phải bắt tay vào thử nghiệm ngay. Anh đã triệu tập ê-kíp đến, phổ biến tình hình, “lột” ngay một cậu thợ ra để “đổ” thử, giả định các tình huống xấu nhất để bảo đảm rằng chất chống dính sẽ phát huy tác dụng. Thông thường, anh sử dụng chất chống dính là kem và bột đất sét mịn. Bột đất sét rất tốt, nhưng cho khuôn hình kém sắc nét. Mà yêu cầu của gia đình là phải đổ tượng chi tiết đến từng vân tay, từng nếp nhăn nhỏ nhất trên mặt cụ. Anh cũng rất lo lắng đến vấn đề tâm linh, làm sao để khi khuôn dỡ ra, không bị đứt theo các lông chân lông tay, vì chỉ làm suy chuyển đến một mảy may thân thể cụ anh cũng thấy là mình có tội... Suy đi nghĩ lại, anh thấy mấu chốt là phải “pha chế” được chất chống dính với liều lượng thích hợp nhất!
Tôi hỏi anh là tại sao không đổ khuôn bằng thạch cao như anh cũng đã làm, nhanh hơn và thông dụng hơn silicon. Anh cho biết, cũng đã cân nhắc đến chất liệu này. “Khi tự đổ khuôn mình bằng thạch cao, tôi nhận thấy nó rất nóng, khoảng 60 độ. Nhiệt độ đó tôi có thể chịu được, nhưng không ổn khi bọc quanh di hài vừa lấy ra từ phòng lạnh. Tôi lại sợ nữa là lúc dỡ khuôn. Thạch cao khi khô rất cứng, không có độ co giãn, khi tôi tự đổ nửa trên của mình, tôi phải hóp má, thu người lại mới dỡ được khuôn ra, nếu vướng có thể làm rách da....
Sáu người lặng lẽ bước vào phòng lạnh. Thi hài từ ngăn lạnh được chuyển sang một cái bàn inox, anh hiểu rằng thời gian làm việc lúc này phải được căn đến từng phút. Silicon được lấy ra, pha chế chung cùng chất đông cứng với hàm lượng tối đa. Bởi anh biết rằng để đổ khuôn tượng 100% như yêu cầu của gia đình, anh phải làm 4 lớp silicon mỗi khuôn. Phải đổ 2 nửa khuôn (mặt trước và mặt sau người) thì tổng cộng là 8 lớp, cùng 1 lớp thạch cao bọc cứng ở ngoài nữa. Nếu cứ với tốc độ đông cứng thông thường (vài giờ một lớp) thì không biết mấy ngày mới xong. Phải tăng nhanh độ đông cứng, nhưng nếu pha quá nhiều chất đông cứng thì khuôn giòn, dễ vỡ. Anh tăng đến khi đạt khoảng 30 phút cho một lần đông cứng thì dừng lại.
“Be” khuôn chia đôi người xong, 5 người chia ra phụ trách từng phần cơ thể để làm khuôn nửa trước. Trời lạnh nhưng vã hết mồ hôi ra vì rất nhiều thao tác phải dùng sức. Đúng như anh dự tính, silicon ăn vào từng khe nhỏ, từng kẽ vân tay, bảo đảm khuôn ra y như thật. Để cho chắc chắn, hết một lớp silicon, anh lại cho trải một lớp vải lên nhằm tăng độ dai... Thời gian tính từng 5 phút một. Buổi trưa mỗi người chỉ kịp tu một hộp sữa Vinamilk. Nửa khuôn trước làm xong, thì lật lên làm nốt nửa khuôn sau. Và anh chỉ thở phào nhẹ nhõm khi 2 mặt khuôn dỡ ra an toàn và từ lúc bấy giờ mới dám... trả lời điện thoại bạn bè! Nhìn lại, 50 kg silicon hết veo.
Đinh Gia Lê nói rằng, có may mắn là trong quãng thời gian học bên Đức, anh đã được đổ phóng tay tất cả các loại nguyên liệu, trong đó có silicon vì được bao cấp toàn bộ. Cả một thùng silicon 25 kg, pha ra rót từ đầu đến chân mẫu tượng theo ý thích của mình. Một thùng như thế có biết bao nhiêu tiền không - anh hỏi tôi? Rẻ nhất bây giờ là silicon Đài Loan 200.000 đồng/kg, đắt là loại của Pháp 360.000 đồng/kg. Cho nên không phải ai cũng “thạo” về silicon.
Khuôn silicon tượng toàn thân cố nhà thơ Huy Cận có thể nói là khuôn người thật đầu tiên ở Việåt Nam được làm sau khi vừa mất. Theo anh, từ khuôn này có thể đổ ra các tượng chân dung nhà thơ để đem trưng bày, bảo đảm 100% so với nguyên mẫu. Nếu đổ bằng chất liệu sáp thì hoàn toàn như người thật. Tôi tưởng tượng ra cảnh từ chiếc khuôn thiêng liêng kia, mai đây tác giả Lửa thiêng sẽ lại run rẩy bước ra cuộc đời. Vóc dáng ấy, thân xác ấy sẽ là bất tử!
Theo Đinh Gia Lê, đổ khuôn sllicon hoàn toàn có thể sẽ trở thành một giải pháp để làm tượng chân dung (trưng bày) hoặc lưu giữ hình tượng của người thân vì mục đích kỷ niệm. Có thể làm trên người lúc sống hoặc sau khi chết. Nếu làm lúc sống thì người mẫu phải có một sức khỏe nhất định mới chịu được lớp khuôn khá nặng, bó chặt người trong vòng vài tiếng (có trích lỗ trước mũi để thở)... Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là anh nghĩ đến chuyện hành nghề này...
Doãn Phương