Tập 2-B

Ông huyện Q.
Ông huyện Q. là bà con xa với cậu tôi. Làm tri huyện ở huyện Phong Điền hay là Hương Thuỷ, tôi không nhớ rõ. Thỉnh thoảng ông có việc đái qua ghé thăm cậu mợ tôi. Ông đậu cử nhân Hán học, bận quần áo ta, áo lương đen, đội khăn xếp và đi giày Gáia Định.
Ông ăn nói nhẹ nhàng, nho nhã, giọng rất thân tình nghe ông cứ thấy tình bà con ruột thịt trong mối quan hệ giữa ông với người trò chuyện với ông. Tôi cứ tưởng tượng ông là một ông quan liêm khiết, hiền từ, xứng đáng là bậc “dân chi phụ mẫu”. Thế nhưng, qua câu chuyện của cậu mợ tôi nói lại, bọn tôi mới biết ông là một tay bóp hầu, bóp cổ những người dân dưới quyền cai trị của ông. Một vụ làm tiền của ông đã suýt làm ông bay mất chức tri huyện nếu không có Chúa cứu. Số là ông tra khảo một bà bị kiện trước cửa quan, vì một vụ tranh chấp gia tài thế nào đó. Tra khảo mấy lần người đàn bà kia khăng khăng không chịu khai theo lời mớm cung của nha lại nơi huyện đường. Thế là quan huyện nhà ta có một sáng kiến: cho lấy kim châm vào hai núm vú của người đàn bà, lấy chỉ xâu kim và mỗi kim buộc một chiếc lông gà, và quan cho lính lệ thay phiên nhau “quạt mát” người đàn bà xấu số. Gió làm xoay hai chiếc kim và người đàn bà đau buốt kêu thét lên, có lúc ngất đi. Quan cho nghỉ một lúc, rồi lại trực tiếp hỏi cung người phụ nữ, cố rứt cho ra lời khai mà quan đòi hỏi. Người đàn bà xấu số van lạy xin quan tha cho, nhưng không thể nào khai như lời mớm cung được.
Lại quạt. Lại đau buốt. Lại kêu thét. Lại ngất đi. Và lại tiếp tục khảo cung với giọng ngọt ngào của quan huyện nhưng với nét mặt nham hiểm và như muốn vồ vào người ta như hổ đói vồ mồi. Cuộc tra khảo ghê rợn này tiến hành trong một phòng kín của huyện đường, nhưng tiếng kêu thét của người phụ nữ cũng lọt ra ngoài phố huyện, và gia đình người nạn nhân đã phát đơn kiện lên thừa phủ (cơ quan hành chính đầu tỉnh của Nam triều). Câu chuyện vỡ lở ra, khó lòng mà tỉnh dẹp yên đi được mặc dù vợ chồng quan huyện cũng đã long tóc gáy chạy chọt các cửa sau, cửa trước. Không những quan huyện có thể bị cách chức (điều ấy gần như chắc chắn), mà còn có thể bị ngồi tù nữa... Bà huyện bèn bàn với quan huyện một phương cứu chữa: Bà huyện và con gái sẽ cấp tốc đến nhà thờ xứ ở địa phận gần huyện và xin cha xứ rủ lòng thương, lấy phép Chúa cứu vớt gia đình. Bà huyện và con gái xin nguyện làm con chiên của Chúa ngay tức khắc, và xin cha làm phép rửa tội cho hai mẹ con được sớm trở về với Chúa. “Phép lạ” của bà huyện có hiệu quả gần như tức khắc. Cha xứ rủ lòng thương quan ông, quan bà, và quan cô, chạy lên gặp bề trên, và xin bề trên lấy lượng hải hà mà cứu vớt quan trong cơn nguy khốn. Thế rồi vụ án được dẹp ỉm đi; bà huyện, cô huyện, và quan huyện nữa đều đặn mỗi chủ nhật đi nhà thờ ăn bánh thánh, và riêng bà huyện thì gần như ngày nào cũng đi xưng tội với cha và được rửa tội. Còn người đàn bà xấu số kia mà hai vú đã sưng cứng lại thì được trả về gia đình, và được trám miệng bằng một số tiền... Tôi nghe nói về sau bà huyện đã chết, hay là nói cho đúng nghĩa, đã “có một cái chết rất đạo”... Bọn tôi nghe câu chuyện mà rùng mình.
Trong tâm hồn trẻ con của tôi, thấy hiện lên những ma quỉ những quỉ sứ mà tôi đã thấy trong địa ngục ở chùa Bổn trên rú Trùa. Cảm giác ghê lạnh về cái ác ở đời qua câu chuyện ông huyện Q. cứ làm tôi bàng hoàng mãi. Mãi về sau, tôi lại thấy ông huyện đến thăm cậu tôi ở Huế, ông vẫn giọng ngọt ngào ấy, vẫn dáng nho nhã ấy, nhưng tôi nhìn vào mắt ông thấy sâu hoắm và đen như mắt cú vọ, và tự nhiên tôi thấy hoảng sợ, tôi bỏ chạy không dám nhìn ông nữa. Có lẽ ông đã biến thành quỉ sa tăng. Câu chuyện “quan huyện quạt vú” được người ta kể lại mãi ở vùng Thừa Thiên, và cho mãi gần đây, khi tôi trở lại thăm Quảng Điền vẫn còn có người nhắc đến như một câu chuyện ma quỉ. Bà huyện chết “rất đạo”, không có con trai, lúc chết người gầy guộc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, như “đã bị quỉ sứ róc thịt”.
Nuôi dế
Lúc ở nhà cậu tôi ở Quảng Điền, ngoài việc say mê đọc sách, tôi còn một cái mê say khác là nuôi dế. Anh Hùng, cháu họ cậu tôi lúc đó học lớp nhì, thỉnh thoảng về Huế xin được của mẹ và của chị những hộp phấn (đã hết phấn) hình chữ nhật có một mặt kính, rất đẹp.
Anh Hùng bày cho tôi nuôi dế trong các hộp ấy, mỗi hộp vừa nuôi một con bằng lá rau muống hoặc lá khoai lang. Rồi chiều chiều, sau buổi học anh Hùng và tôi cho những con dế vào một hộp giấy to và xem chúng đá nhau, chọi nhau. Mỗi con dế trước khi xông ra trận đều phát ra một tiếng kêu the thé và chân run rẩy, chúng tôi gọi tiếng kêu thé ấy là hồi còi, hoặc là hồi kèn ra trận của hai địch thủ. Tôi chăm sóc cho dế ăn no không quên để một ít nước trong cái nắp chai để trong hộp dế. Dế đực đánh nhau với dế đực, dế cái đánh nhau với dế cái, và có khi đực cái đánh nhau. Tôi lấy làm lạ là thường dế cái thắng trận, chứ không phải dế đực. Cùng ở với tôi có cậu Cục, cháu gọi mợ Vân bằng cô học kém, mà cũng kém sáng kiến trong các trò chơi. Thấy anh Hùng và tôi thích thú trong việc nuôi dế và chọi dế cậu có vẻ ghen, rồi một hôm tôi đi học về không thấy các hộp dế của tôi đâu nữa... Tôi tiếc mãi, nhưng cũng không dám mách với cậu mợ, còn anh Hùng thì an ủi tôi: “Anh sẽ xin cho em những hộp phấn to hơn, để nuôi những con dế to hơn, cho nó đánh những trận to hơn.... Nói vậy, chứ về sau tôi cũng không có hộp phấn nào to hơn, không thấy con dế nào to hơn. Năm 1975, vào Sài Gòn giải phóng, nghe tin anh Hùng ở lại chứ không di tản mặc dù anh đã giữ một chức quan trọng trong ngân hàng của chính quyền nguỵ. Tôi có ý muốn tìm thăm anh, trước là để thăm một người bà con, sau là để nhắc lại câu chuyện nuôi dế và chọi dế, và để hỏi anh đã thấy con dế nào to hơn những con dế hồi nhỏ của chúng tôi ch!!!7898_2.htm!!! Đã xem 63307 lần.

Đánh máy: Nguyễn Học
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 7 năm 2006