Sáng thứ bảy, Benjamin Brown băng qua đường Filbert tới nhà số 9. Từ bao lâu nay, nó luôn làm thế này vào mỗi sáng thứ Bảy. Con Hạt Đậu, như thường lệ, phóng qua đường, phía trước Benjamin. Khi Benjamin nhấn chuông, nó phải chờ ít nhất là một phút Charlie mới ra mở cửa. “Ôi!” Charlie thốt lên khi nó trông thấy Benjamin. “Là bồ!” “Tất nhiên là mình,” Benjamin đáp. “Sao bồ lại ngạc hiên vậy?’ Charlie cảm thấy có lỗi. Quả là nó đã quên Benjamin hoàn toàn. “Lên lầu đi,” nó thì thầm. “Mình có nhiều chuyện để kể bồ nghe lắm.” Benjamin bước vô trong nhà. “Bà nội bồ đâu rồi? Bà sẽ la con Hạt Đậu cho coi.” “Không sao. Bà đi rồi. Mặt coi bộ nhiều âm mưu lắm. Nghĩ tới bà sắp làm gì mà mình ớn luôn.” Charlie phải mất nhiều thời gian để kể tất cả mọi việc cho Benjamin. Benjamin ngồi bất động trên giường, miệng trễ xệ xuống, mắt càng lúc càng mở lớn. “Phùù!” Benjamin nói khi Charlie kể xong. “Bồ sẽ cho mình cùng đi tới quán Cà Phê Thú Kiểng chứ hả?” Charlie thấy không cách nào mà gạt Benjamin ra được. “Dĩ nhiên rồi. Con Hạt Đậu có thể được việc.” “Má muốn bồ sang nhà ăn trưa. Sau đó tụi mình sẽ lẻn đi ra bằng cửa sau. Bà nội bồ sẽ không biết bồ đi đâu.” Charlie nghĩ ý đó thật tuyệt vời. Mẹ nó đã đi làm, vì vậy nó chạy xuống báo cho ngoại Maisie biết nó định sẽ đi đâu, và rồi hai thằng bé bước qua nhà số 12. Chiều hôm đó, tất cả mọi việc đều theo đúng như kế hoạch, cho đến khi chúng tới hẻm Con Ếch. Hạt Đậu bỗng gừ một tiềng trông họng, và Benjamin trông thấy một phụ nữ mang ủng đỏ biến vụt nơi góc đường. Đướng Chính đầy những người đi mua sắm nên nó nhìn không rõ được, nhưng dáng người đó trông rất quen. “Mình thấy bà cô bồ đang bám theo tụi mình,” Benjamin thì thầm. “Cái bà hay đi ủng đỏ.” “Bà Venetia!” Charlie nói. Trước khi vô hẻm Con Ếch, Charlie nhìn kỹ đám đông coi có thấy bóng dáng mấy bà cô nhà Yewbeam không. Một cơn gió buốt thổi qua, và rất nhiều người mang nón và trùm khăn kín đầu. Nó không thấy tăm hơi mấy bà cô hay bà nội nó đâu cả. “Liều vậy,” nó bảo Benjamin. Chúng lao vù dọc theo hẻm Con Ếch, với con Hạt Đậu phóng vọt vọt phía trước. “Chào Charlie Bone,” Norton, người bảo kê quán lên tiếng khi hai thằng bé bước vô quán cà phê. “Được rồi, anh bạn cậu ở đằng kia đang coi chừng con thú cho cậu kìa.” Charlie đã quên bẵng mất chuyện phải mang thú theo. Nó mừng quýnh khi thấy Gabriel vẫy vẫy nó từ một góc tối. Khi đi về phía Gabriel, nó thấy tất cả bọn bạn nó đều đã tới quán cà phê trước đó rồi. Chúng đang ngồi xung quanh một trong những cái bàn lớn nhất. Olivia có một con thỏ trắng để trên đùi, bạn của con thỏ này đang ngồi trong lòng Tancred. Gabriel mang theo đủ các loại chuột của nó như thường lệ - một con trong số đó đang thượng trên vai Emma. Lysander xách theo một con vẹt trong lồng, và Fidelio đang bồng một con mèo trông hốt ha hốt hoảng. “Cô nàng bị điếc,” Fidelio giải thích. “Tại nhà mình ồn quá, nhưng mắt nó tinh phát kinh.” Con mèo xù lông lên khi dòm thấy Hạt Đậu, nhưng con chó bự xự này chẳng màng đến cô nàng mà xộc thẳng ra chỗ đàn chó bên cửa sổ. Mái tóc vàng của Tancred bỗng nhiên nổ lép bép. “Ai đây?” Nó hỏi, nhíu mày nhìn Benjamin. “Benjamin,” Charlie nói. “Sống cùng phố với em, em chơi từ nhỏ.” “Ờ,” tóc của Tancred hạ xuống. “Xin lỗi, tại anh hơi nôn nóng.” “Ai mà chẳng thế!” Gabriel phụ họa. “Tụi mình thì không, nhỉ?” Olivia cười toe toét với Emma. “Ừ, không hề,” Emma nói, lôi một con chuột vàng từ dưới cổ áo nó lên. “Chào, Benjamin,” Lysander vừa nói vừa cười ngoác tận mang tai. “Đừng để ý gì tới bọn anh nhé. Bọn anh là bạn học cùng trường với Charlie. Anh là Lysander. Anh này là Tancred. Em ngồi xuống và ăn chút gì đi.” “Cám ơn anh,” Benjamin nhìn dĩa thức ăn trên bàn và ngồi xuống bên cạnh Charlie. Cả hai tự lấy cho mình một phần bánh sô-cô-la thật to. “Hôm nay tụi mình không phải trả tiền gì hết,” Gabriel nói với hai đứa nó. “Ông Onimous bảo đây là một dịp đặc biệt, cho nên ăn bao nhiêu tùy thích.” “Em nghĩ sẽ là dịp đặc biệt… nếu tất cả mọi thứ đều tốt đẹp,” Charlie nói, nhớ ra tại sao nó lại ở đây. “Sẽ tốt đẹp!” Ông Onimous thình lình hiện ra bên cạnh Charlie. “Chúng ta nên bắt đầu thì hơn, Charlie, bạn của ta,” ông nói. “Cậu sẽ đi một mình hay cậu muốn đi cùng với một người bạn?” Charlie nhìn khắp lượt những gương mặt háo hức. Nó không muốn làm đứa bạn nào thất vọng cả. “Mình không muốn đó là mình, nếu bồ không buồn,” Benjamin nói với vẻ được việc. “Nó sẽ đi vô khu bỏ hoang, phải không ạ?” Gabriel hỏi, hạ thấp giọng. “Phải,” ông Onimous đáp. “Vậy thì chúng ta ở đây sẽ có ích hơn,” Gabriel nhìn Lysander và Tancred. “Fidelio, anh đi chứ?” Charlie hỏi. Fidelio đứng phắt dậy. “Còn phải nói!” Olivia buông một tiếng thở dài thượt. “Vậy là mình xong phần việc của mình rồi.” “Chưa kết thúc mà,” Emma nhắc Olivia. Kín đáo đảo mắt khắp quán cà phê, Lysander nhẹ nhàng đẩy cây gậy phép ra khỏi ống tay áo và trao cho Charlie. “Chúc may mắn,” nó thì thầm. “Cám ơn anh,” Charlie nhét cây gậy phép vô dưới áo khoác. Fidelio trao con mèo của mình cho Gabriel, và rồi, nó cùng Charlie đi theo ông Onimous ra phía sau quầy hàng. Họ bước qua một tấm màn kết bằng chuỗi hạt kêu lách cách và vô nhà bếp. Ông Onimous dẫn chúng tới một cánh cửa nhỏ ở phía sau nhà bếp, và sau đó, họ ở trong một lối đi dài, hai bên xếp đầy những kệ thức ăn cho thú kiểng trông gớm chết. “Tới luôn,” ông Onimous thúc giục khi hai thằng bé dòm dáo dác xung quanh. Hàng kệ dần kết thúc và lối đi hẹp rí lại. Bây giờ họ đang đi trên một sàn lát đá gồ ghề, và rồi nền đá nhanh chóng trở thành một con đường đất cứng. Có vẻ như lúc ông Onimous đi thoăn thoắt thì ông càng lúc càng mang diện mạo của một con chuột chũi hay một sinh vật đào hang nào đó. Charlie nhận thấy trần nhà chỗ này thấp tới độ nó có thể áp lòng bàn tay vô bề mặt ẩm ướt của cái trần. Đường mỗi lúc mỗi tối hơn. Tới lúc ánh sáng hầu như mất hẳn thì họ bước vô một cái hang tròn nhỏ. Nó chỉ được thắp sáng bằng độc một chiếc đèn lồng thòng từ trên trần hang xuống, và quanh các vách tường tròn là những thùng đựng trà to lớn xếp san sát với những bao nhựa và những sọt gỗ. Xem ra không còn lối nào thoát khỏi nơi đây, ngoại trừ lối họ vừa đi vô. “Giờ thì sao?” Fidelio thì thầm với Charlie. Ông Onimous có đôi tai thính như tai thỏ. “Ha!” Ông cất tiếng, khiến cả hai thằng bé hết hồn, giật thót mình. “Các cậu đang thắc mắc đây là đâu chứ gì? Các cậu nghĩ ông Onimous đưa các cậu tới một cái bẫy kinh khủng, phải không?” Charlie nuốt nước miếng. “Không ạ!” Fidelio hỏi: “Đây là đâu?” Ông Onimous cười sáng rỡ, và rồi, với tốc độ đáng ngạc nhiên, ông xoay tròn một cái sọt gỗ ra khỏi tường. Và nó kìa! Một cánh cửa cổ lỗ, rất, rất nhỏ lộ ra. Nụ cười của người đàn ông nhỏ nhắn biến mất. Lời tiếp theo của ông được thốt ra bằng một giọng trang nghiêm mà Charlie sẽ không bao giờ quên: “Trước khi các cậu đi vô, ta muốn các cậu thề là không bao giờ nói cho bất kỳ linh hồn nào biết về cánh cửa này.” “Tôi thề,” Charlie nói. “Tôi thề,” Fidelio lặp lại rõ ràng. Ông Onimous gật đầu: “Tốt!” Ông thò tay vô trong áo nỉ của mình và lôi ra một chiếc chìa khóa nhỏ xâu vô một sợi dây bằng vàng. Đặt một bàn tay có móng dài như vuốt thú lên cánh cửa, ông tra chìa khóa vô ổ và nhẹ nhàng xoay. Một tiếng “tách” nhẹ, và cánh cửa bung ra. “Lũ mèo ở trong đó đó,” ông Onimous nói. “Chúng sẽ dẫn đường cho các cậu. Giờ, chỉ có các cậu đi thôi. Ta sẽ khóa cánh cửa này lại sau lưng các cậu. Chúng ta không thể ẩu được.” Charlie ngó vô khoảng tranh tối tranh sáng đằng sau cánh cửa. Nó liền nhận ra những viên đá to bản, hình thành nên các bức tường của một đường hầm. Một đốm sáng lung linh từ xa bắt đầu nhích lại gần hơn, Charlie nín thở. “Thấy chúng rồi.” Nó bước vô đường hầm. Fidelio bám sát theo sau. Chúng bước đi thành hàng một, nhẹ dẫm lạo xạo lên nền nhà rải sỏi trơn láng. Charlie đã tưởng là sẽ gặp một cái hang gồ ghề, nền đất, nhưng hóa ra đường hầm này lại được xây dựng rất cẩn thận. Những phiến đá to màu đỏ xếp thẳng thớm sít vô nhau nhau, ngay cả ở chỗ mái trần thấp. “Cái này xưa lắm rồi,” giọng khàn đặc của Fidelio âm vang khắp đường hầm. “Anh thắc mắc không biết ai đã sử dụng nó.” “Có lẽ là những chiến binh,” Charlie đoan. “Rất có thể đây là một lối thoát bí mật nếu lâu đài bị chiếm giữ.” “Và con nít nữa,” Fidelio bổ sung. “Giờ là lối ra của Henry.” Chúng đã có thể thấy rõ lũ mèo, nhưng hai thằng bé chưa kịp tiến lại gần, thì ba con mèo đã quay ngoắt lại và vội vã đi dọc theo đường hầm, phía trước chúng. Charlie và Fidelio bắt đầu chạy. Đường hầm không hề thẳng chút nào, và chúng phải quẹo ngoằn ngoèo mấy lần mới có thể trông thấy một mảng ánh sáng ban ngày mời gọi ở đằng xa. Nhưng, thay vì đi về hướng ánh sáng ấy, lũ mèo lại thình lình ngoặt khỏi lộ trình chính và biến mất vô một khe nứt dài. Hai thằng bé lưỡng lự một thoáng, và rồi cũng ép mình chui vô một đường hầm hẹp tới nỗi mà chúng phải nghiêng người bước đi. Tới cuối đoạn đường bất tiện đó, chúng chật vật lách từng phân qua một cây cột và bước vô một căn phòng kỳ lạ. Mặt sàn được lát bằng những viên đá màu hình vuông, nhỏ tí xíu. Trên một khoảnh nền màu trắng, những tia sáng đỏ, cam và vàng tỏa ra từ một vòng tròn rộng màu đỏ. Các bức tường được phủ bằng những bức bích họa, vẽ những mái vòm dát vàng chói lóa dưới những khoảng trời trong xanh; những hình dáng cao lớn, mặc áo thụng đi len lỏi giữa những tán cây rậm rạp. Mái trần khum khum lặp lại đúng khuôn mẫu trang trí như ở dưới sàn, nhưng ở đây vòng tròn trung tậm mở thẳng ra bầu trời. “Đó là mặt trời,” Charlie thì thầm. “Coi kìa, cái hình đó trông hệt như những tia nắng mặt trời.” “Sáng quá.” Fidelio nhìn chong chong lên vòng tròn nhỏ xíu ở trên mái. “Chắc chắn đó phải là kỹ xảo… hoặc phép thuật.” “Nó ở trên tấm khiên của ông ấy,” Charlie nói. “Tấm khiên của Vua Đỏ giống như mặt trời đang chiếu sáng. Đó là phòng của ông. Một chỗ đặc biệt của riêng ông. Em không nghĩ là có ai khác ở đây kể từ hồi ông đi khỏi.” “Từ đó rới giờ?” Fidelio hỏi lại. Charlie lắc đầu. “Em nghĩ vậy.” Vào khoảnh khắc đó, không thằng bé nào có thể giải thích được cảm giác của mình. Nơi này tác động lên chúng theo những cách khác nhau. Trong khi Fidelio nhấp nhỏm và muốn đi khỏi thật màu, thì Charlie lại cảm thấy dễ chịu như ở nhà và khoan khoái vô cùng. “Lũ mèo đi rồi,” Fidelio quan sát. “Giờ thì sao?” Charlie chợt trông thấy một chiếc lá vàng đỏ dưới chân. Làm sao cái lá tới đây được? Xuyên qua mái nhà? Nó săm soi mười cây cột chống xung quanh sàn nhà. Chúng được dựng từ cùng một loại đá đỏ rực như toàn bộ tòa lâu đài, và chỉ có một khoảng hở, cách độ chừng một ngón tay giữa từng cây cột với bức tường; ngoại trừ hai cây cột đứng đối diện nhau. Bọn chúng đã đi vô sàn đá này qua cái ngách hẹp phía sau một trong hai cây cột đó. Charlie liền bước qua để xem xét cây cột kia. Che khuất đằng sau cây cột ấy là một cửa sổ tròn nhỏ nhìn ra một khu rừng tối hun hút. Nheo mắt dõi nhình qua cửa sổ, Charlie thấy một khoảng trống màu xanh lá ở phía bên kia những hàng cây. Giữa khoảng trống có một tảng đá đen. Ba con mèo lửa đang ngồi trên nóc tảng đá. “Đây rồi!” Charlie reo lên. “Fidelio, nó ở đây này.” Fidelio chạy lại chỗ Charlie. “Cái gì?” “Hầm ngục. Có một tảng đá, đúng như Olivia nói. Thấy chưa? Chỗ lũ mèo đang ngồi đó.” Fidelio khẽ buột một tiếng huýt sáo. “Đi trước đi, Charlie. Anh sẽ theo sát em.” Chúng khó nhọc chui qua cái lỗ tròn nhỏ và rớt bịch xuống đất. Khi quay nhìn trở lại, tất cả những gì chúng thấy chỉ còn là một bức tường đầy dây leo. Chắc chắn không ai đoán được cái gì nằm đằng sau nó. Charlie đi trước. Ba con mèo rừ lên đầy khích lệ khi nó quỳ gối xuống cỏ và gọi: “Henry? Henry, anh ở dưới đó phải không? Em, Charlie đây!” “Charlie hả?” Từ một cái lỗ hẹp bên cạnh tảng đá, có tiếng những bước chân nặng nhọc vọng lên. Và rồi, Charlie đang nhìn vô một đôi mắt xám mở lớn. “Rất vui được gặp cậu, Charlie!” Henry nói. “Gặp anh mừng quá, Henry. Xin lỗi anh, phải mất lâu quá. Nhưng em sẽ mang anh ra khỏi đó, ngay bây giờ.” “Bằng cách nào?” Đôi mắt xám lộ vẻ lo lắng. “Ờ, em có một thứ rất nhiều quyền năng đây,” Charlie rút cây gậy phép ra khỏi áo khoác và giờ ra phía trên cặp mắt. “Anh có thấy không?” “Nhưng đó chỉ là cây gậy thôi mà,” Henry có vẻ thất vọng. “Không làm được gì đâu, Charlie.” Fidelio dòm qua vai Charlie, lên tiếng: “Thật ra thì, Henry à, nó là cây gậy phép. Mà gậy phép thì có thể làm bất cứ việc gì.” “Ối! Ai vậy?” Henry giật mình. “Bạn em, Fidelio,” Charlie nói. “Trong cơn khủng hoảng mà có anh ấy thì tuyệt. Không bao giờ hoảng sợ. Em nghĩ anh nên tránh ra thì hơnm Henry. Phòng trường hợp tảng đá chuyển động sai đường.” “Nó mà sai thì tôi sẽ không thở được đâu đấy,” Henry hoảng hốt. “Đừng lo, sẽ được mà,” Fidelio nói chắc. “Đành vậy.” Đôi mắt vụt biến mất và chúng nghe thấy tiếng Henry lê bước xuống hầm ngục. Charlie bước lùi khỏi tảng đá. Nó giơ cây gậy phép ra. “Nhỡ không có tác dụng thì sao?” nó lầm bầm. “Có chứ sao lại không,” Fidelio bảo. “Nghĩ coi Charlie, nó xuất xứ từ đâu nào. Tự tin lên coi.” Được khích lệ, Charlie vung cây gậy phép lên không, và rồi chĩa gậy vô tảng đá, nó hét: Sumidar gareg umma! Ba con mèo phóng ra khỏi tảng đá, nhưng không có gì khác nữa xảy ra. “Mấy thứ đại loại như vầy không bao giờ thành công ngay từ lần đầu tiên,” Fidelio nói. “Kiểu như xe hơi vậy. Luôn luôn cần tới hai lần khởi động.” Charlie lặp lại những từ xứ Wales, cố phát âm thật chính xác như Ông cậu Paton đã dạy nó. Tảng đá vẫn không nhúc nhích. Một cảm giác hãi hùng, lạnh toát nhộn lên trong bụng Charlie. Có lẽ Skarpo đã lừa nó. Lẽ ra nó không nên chọn cây gậy phép. Cây gậy vô dụng. “Vô dụng, vô dụng.” Charlie lảm nhảm. “Tụi mình sẽ làm gì đây, Fido?” “Làm lại coi,” Fidelio thúc. “Lần này hãy dùng giọng nói khác đi. Giọng em nghe cứ như giọng một kẻ vờ làm thầy pháp vậy. Hơi giả dối. Lại quá trịch thượng. Anh cá là thầy pháp thật sẽ đối xử với cây gậy phép của mình như với một người bạn. Thử tỏ ra thân thiện hơn và lịch sự hơn coi.” “OK.” Charlie hắng cho thông giọng. Một lần nữa, nó chỉ cây gậy phép vô tảng đá đen, và khi đọc lời ra lệnh, nó cố tưởng tượng là mình đang nói chuyện với Ông cậu Paton, lễ phép nhưng thân thiện. Sumidar gareg umma! Lần này, ngay khi Charlie vừa dứt lời, cây gậy phép bỗng ấm lên trong bàn tay nó. Có cảm giác như cây gậy xoáy cuộn qua những ngón tay. Một quầng ánh đỏ lan xuyên khắp thân gậy, và phía đầu bịt bạc thấp nhấp nháy như một thanh pháo bông. Rồi, với một tia sáng đột ngột bùng ra, cây gậy phép bay vuột khỏi bàn tay Charlie và đáp xuống tảng đá. Khắp chung quanh trảng trống, chim chóc bay vút lên trời, xao xác kêu la. Fidelio và lũ mèo lao ngay tới bên Charlie khi tảng đá gầm lên một tiếng như sấm. Một tiếng “bùm” dội âm vô lòng đất, rồi tới một tiếng nghiến rần rần, và tảng đá từ từ lăn ngược về sau. Mấy thằng bé kinh ngạc tới độ chúng đứng yên như trời trồng, và rồi cái đầu của Henry nhứ lên khỏi cái lỗ đen ngòm bên cạnh tảng đá. “Hoan hô!” Cậu hét toáng lên. “Tôi ra được rồi! Giỏi lắm, Charlie!” Bọn Charlie còn sốc hơn nữa trước bộ dạng Henry. Chưa bao giờ trong đời chúng thấy một đứa trẻ nào tiều tụy như thế. Gương mặt trắng bợt và phờ phạc, cùng những quầng thâm quanh mắt khiến Henry trông như một con cú vọ hết sức sống. Fidelio và Charlie lật đật mỗi đứa một bên xốc nách Henry, giúp cậu leo hẳn ra khỏi cái hố. Cậu hơi loạng choạng nhưng vô cùng vui mừng vì mình còn sống và được tự do, tới nỗi không thể kềm được, cậu lấy đà nhảy tưng lên một cái ngay khi vừa ra ngoài. Charlie nhìn xuống cái hố. Thật khó mà tưởng tượng nổi cảm giác bị nhốt kín dưới cái nơi kinh khủng đó suốt hai tuần thì như thế nào. Cây gậy phép đã mất đi quầng sáng lạ lùng, và một lần nữa lại trở về là cây gậy nhợt nhạt, có một đầu bịt bạc. Henry kinh hãi nhìn lom lom vô cây gậy, trong khi Charlie nhét nó vô dưới áo khoác. “Em sẽ kể cho anh nghe làm sao mà em có nó,” Charlie nói. “Nhưng không phải ở đây. Tụi mình đi thôi, trước khi ai đó tới do thám.” Mấy thằng bé hấp tấp rời khỏi trảng trống và băng qua khu rừng, nhưng khi chúng tới bức tường dây leo thì ô cửa sổ tròn hình như biến mất. Mãi cuối cùng Fidelio mới tìm ra, sau khi dứt bỏ những chùm dây leo và vén một vạt lá dài qua bên. Từng đứa một, chúng lụi hụi chui qua cửa sổ, rồi rớt vô căn phòng mái vòm. Henry kinh ngạc nhìn dán vô những bức bích họa trên tường. “Giống như thế giới trong Quả Cầu Xoắn Thời Gian,” cậu thì thầm. “Thế giới của Vua Đỏ.” Chắc chắn là cậu rất muốn nán lại lâu hơn nữa, nhưng hai đứa kia cứ hối thúc phải rời khỏi căn phòng. Chúng ép mình qua cây cột và lọt vô đường hầm. Lũ mèo vẫn đi theo chúng từng bước, và bây giờ đang thắp sáng bóng tối bằng bộ lông sáng rực. Trong khi cả bọn len lỏi đi trong đường hầm, Charlie kể cho Henry nghe về Skarpo, thầy phù thủy, và về cây gậy phép xứ Wales bị đánh cắp. Henry thấy thật khó mà thu nhận cho hết, nhất là ngay sau khi cậu vừa mới được cứu thoát. Nhưng tới phần mô tả của Fidelio về quán Cà Phê Thú Kiểng thì cậu thấy dễ hiểu hơn nhiều. Sau hai tuần chỉ có chút bánh mì với nước lã, cậu bắt đầu mong ngóng tới những chiếc bánh nướng mê ly mà cậu có thể sẽ được thưởng thức ở đó. Chúng gần đi tới cuối đường hầm, thì một cánh cửa nhỏ thông với quán cà phê vụt mở ra, và một bóng người cao thật cao xuất hiện. Các cậu bé ngừng phắt lại. Thật khó nhìn rõ gương mặt của người lạ kia. Và tiếp sau, bà Onimous chạy về phía chúng, rối rít hươ hươ tay. “Ô, trời,” bà la lên. “Tiêu rồi. Có chuyện hãi hùng vừa xảy ra. Có mai phục!” “Gì cơ?” Charlie hỏi. “Chuyện gì xảy ra ạ?” “Giáo sư Bloor và một trong những bà cô của cháu đang ở trong quán cà phê. Họ đang theo dõi từng cử động của bọn ta.” Quả là một tin rất xấu. “Có lẽ tụi cháu sẽ lén đem Henry ra trong khi họ đang ăn,” Charlie đề nghị. “Đừng có liều, cháu,” bà nhìn xuống Henry. “À, thì ra cháu là nhà du hành trẻ tuổi. Vô cùng sung sướng được gặp cháu. Bác là bà Onimous.” “Rất hân hạnh được gặp bác,” Henry bắt tay bà. “Cháu đang mong được chén một chiếc bánh nướng của bác,” cậu nói. Bà Onimous cười vui vẻ. “Rồi cháu sẽ có ngay một chiếc thôi, cậu bé đang yêu. Nhưng cháu phải ở đây một lát, im lặng và ngoan ngoãn nhé, trong khi các bạn cháu trở lại với bác.” “Bác không thể để Henry ở đây được!” Charlie rên lên. “Đành phải vậy thôi, cháu. Họ thấy hai đứa cháu vô quán cà phê. Bà cô của cháu cứ vặn mãi xem cháu ở đâu. Bác trả lời bà ấy là cháu đang phụ việc ở trong bép, nhưng ai mà biết bà ta có tin hay không. Bà ta sẽ ở sau quầy và thò mũi vô nhà bếp trước khi chúng ta kịp biết mình đang ở đâu cho coi.” Bà Onimous nắm cánh tay Fidelio và Charlie rồi lôi chúng ra khỏi đường hầm, vô trong nhà kho. Thứ cuối cùng Charlie thấy trước khi bà đóng sập cửa lại là gương mặt tái mét, đau khổ của Henry. “Em xin lỗi, Henry,” Charlie nói khẽ. “Anh sẽ không phải ở đó lâu đâu. Sẽ có một cơn bão, nhưng anh đừng sợ gì hết. Nó là để bảo vệ anh đấy. Cứ chờ ông Onimous. Ông sẽ cho anh biết khi nào thì an toàn để có thể ra ngoài.” “Tạm biệt, Charlie,” Henry âu sầu. Charlie rùng mình khi bà Onimous khóa cửa lại. Những lời của Henry nghe não nề và thê thảm như lời vĩnh biệt vậy. “Cháu không nghĩ là mình sẽ lại phải để anh ấy ở trong bóng tối lần nữa,” nó than van khi bà Onimous dẫn đường trở lại nhà bếp. “Sẽ không lâu đâu mà,” Fidelio an ủi nó. Charlie không chắc. Mấy bà cô của nó sẽ rình rập quán cà phê này trong bao lâu? Ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong vòng mấy tiếng đồng hồ nữa. Khi bóng tối phủ xuống, con thú dữ có thể sẽ xuất hiện. Khi hai thằng bé bước trở lại quán, chúng thấy bà cô Lucretia Yewbeam đang nhìn chúng chòng chọc từ một cái bàn ở giữa phòng. Giáo sư Bloor ngồi đối diện với bà ta. Bà Lucretia gật đầu, và ông hiệu trưởng liền quay đầu về hướng bọn chúng. Khi tụi nó đi ra chỗ đám bạn, chúng cảm thấy hai cặp mắt soi mói dõi theo chúng. “Tụi này đang lo sốt vó,” Olivia nói liền. “Có phải bồ…?” “Phải,” Charlie chặn ngay. “Suỵt!” Gabriel nhắc. “Tụi mình ra khỏi đây đi. Tôi có cảm giác như có mật thám đang rình khắp nơi nơi.” Tám đứa trẻ đi dồn cục ngang qua bàn giáo sư Bloor đang ngồi. Ông hiệu trưởng thảy cho chúng một cái gật đầu cục cằn, và Lysander lên tiếng: “Dạ chào giáo sư Bloor!” Bà Lucretia trố mắt nhìn Charlie và bảo: “Kiếm tiền tiêu vặt hả Charlie? Ta hy vọng là mày sẽ để dành nó để đóng học phí.” “Cái gì ạ?” Quai hàm Charlie xệ xuống. Nó không tài nào nghĩ được bà cô nó đang nói về cái gì. Fidelio lao tới giải cứu: “Họ trả tiền tụi con rất hậu hĩnh, thưa bà giám thị,” nó nói, “tụi con rửa chén và thỉnh thoáng họ để cho tụi con làm bánh mì kẹp.” “Thế à?” Bà giám thị dài giọng. “Tiếc là ở nhà mày chẳng chịu mó máy chân tay gì cả,Charlie. Xem ra ngày nay nếu không trả công thì bọn trẻ chẳng chịu làm gì hết.” Giáo sư Bloor đang định đồng ý với bà giám thị, thì một tiếng rú thàm thương từ dưới sàn nhà vang lên. Charlie vừa mới dẫm phải một cái đuôi trụi lủi bên cạnh chân giáo sư Bloor. “Mắt với mũi mày để đâu đấy hả, nhóc!” Giáo sư Bloor nạt. “Xin lỗi, ngài!” Charlie nhận ra rằng chắc chắn May Phúc đã bị lôi tới quán cà phê như một con thú kiểng cùng đi với giáo sư Bloor. Bà cô Lucretia mang theo cái gì đó ở trong lồng, tuy vậy, chúng không thể nào đoán được nó là con gì. Cái lồng đan bằng lưới kẽm dày và tất cả những gì thấy được là một nùi xanh da trời lớn. “Con rắn đó!” Fidelio thì thầm. Charlie lùi đi lẹ. Khi chúng bước ra tới ngoài hẻm Con Ếch, thì một bóng người mang ủng đỏ vụt khuất sau một góc đường. “Lại là bà cô Venetia,” Charlie nhắn nhó lầm bầm. Lysander và Tancred liền phóng vù theo tới tận Đường Chính, nhưng đôi ủng đỏ đã biến vô đám đông đi mua sắm nhộn nhịp. Tuy vậy, khi Charlie đuổi kịp các bạn, nó thấy một người khác nữa. Kia kìa, đang ngồi trên một chiếc ghế băng, là nội Bone. Charlie tiến lại gần bà nội: “Nội đang làm gì ở đây vậy, nội?” Nó hỏi. “Tại sao người ta hay ngồi bên trạm xe buýt?” Bà lạnh lùng. “Vì người ta chờ xe buýt, dĩ nhiên. Dạo này mày được ái mộ ghê đấy, Charlie. Bao nhiêu là bạn nhỉ.” “Phải,” Charlie nói, rồi nó bước đi tiếp. Khi chúng đi cách xa nội Bone một quãng, Olivia không thể nén nổi tò mò nữa: “Việc cứu Henry ra sao rồi?” Nhỏ thầm thì. “Cây gậy phép có tác dụng không?” Charlie kể cho chúng nghe tất cả mọi việc đã xảy ra trong tòa lâu đài. “Vậy là anh ấy còn kẹt lại trong đường hầm,” Olivia rên rỉ. “Giờ thì làm sao đây?” “Việc còn lại tùy thuộc vô Ông cậu Paton,”Charlie nói. Chúng đã tới chỗ đèn giao thông, và Gabriel nhìn thấy mẹ nó đang chờ trong chiếc xe Land Rover ở phía bên kia đường. Mẹ đã hứa cho Lysander và Tancred quá giang về lại Khu Đồi Cao. Trước khi chúng băng qua đường, Tancred quay qua Charlie và bảo: “Anh nghĩ tụi mình xứng đáng được thưởng một cơn bão. Nó sẽ quét một vài trong số những người bận bịu kia ra khỏi đường phố.” Charlie mới vừa thoáng thấy bà cô Eustacia, đang canh chừng bọn chúng từ cửa một tiệm thuốc tây. “Bão thì quá tuyệt,” nó lẩm bẩm. “Đi nào,” Tancred bảo Lysander và Gabriel. Khi ba thằng lớn băng qua đường, tóc Tancred dựng đứng lên và một cơn gió lạnh thốc vô mặt Charlie. Mưa bắt đầu rơi lộp độp trên vỉa hè. “Anh Tancred tuyệt chiêu,” Fidelio khoái chí. “Tụi mình về nhà trước khi bão ập tới đi.” Charlie đồng ý sẽ báo cho tất cả bọn biết khi nào Henry an toàn, và sau đó, khi sấm nổ đì đùng phía xa, Emma và Olivia phóng về hướng tiệm sách của cô Ingledew. Fidelio luồn lách thật nhanh qua biển ô dù di động, con Charlie, Benjamin và con Hạt Đậu chạy trở về đường Filbert. “Mình sẽ qua sau bữa trà,” Benjamin bảo khi Charlie leo lên những bậc cấp nhà số 9. “Hẹn gặp lại!” Charlie chạy tọt vô nhà lao thẳng lên phòng Ông cậu. Ông cậu Paton đang đợi nó. “Tất cả đều theo đúng kế hoạch chớ?” Ông nôn nóng. “Gần như vậy,” Charlie đáp. “nhưng con bắt buộc phải để anh Henry ở lại trong đường hầm rồi. Giáo sư Bloor ở trong quán Cà Phê Thú Kiểng, còn các bà cô nhà mình thì mai phục khắp mọi nơi. Ngay cả nội Bone cũng đang canh chừng tụi con.” “Đừng lo, Charlie,” Ông cậu vỗ về. “Họ sẽ bỏ cuộc ngay thôi. Có cơn bão nảy giờ gầm rú ngoài kia, mấy bà chị của ta ghét bị ướt lắm. Ông Onimous sẽ chăm sóc Henry. Tụi mình chỉ cần chờ đợi.” “Nhưng chờ bao lâu?” “Chúng ta có thể an toàn cho tới 10 giờ,” Ông cậu Paton nói. “Ta sẽ gọi điện cho quán Cà Phê Thú Kiểng để biết chắc là mọi thứ tốt đẹp, và rồi chúng ta sẽ ghé qua đó và đón Henry của chúng ta. Sẽ chỉ mất chừng một đêm thôi, Charlie.” Đôi mắt đen của Ông cậu Paton sáng quắc lên tự tin, vậy thì cớ gì Charlie phải phập phồng, bất an? “Lẽ ra chúng ta không nên để anh ấy ở trong đường hầm,” nó vẫn rên rỉ.