Vào thứ Hai, Charlie chớp ngay lấy cơ hội đầu tiên để nói chuyện với bà bếp trưởng. Giữa bữa trưa, nó lẻn vô nhà bếp, viện cớ là lấy một miếng nùi giẻ để lau ly nước đổ. Bà bếp trưởng trông thấy Charlie đứng ở cửa, liền ra chỗ nó ngay. Bất cứ ai quan sát họ chắc hẳn đều sẽ tự hỏi tại sao họ lại bàn tán về giẻ lau nhà kỹ tới thế. Nhưng mấy bà mấy cô phục vụ bữa trưa quá tất bật nên chẳng nhận ra có gì bất thường. Hầu như Charlie nói từ đầu tới cuối và bà bếp trưởng chỉ thỉnh thoảng lại gật đầu. Cuối cùng, bà vỗ vai Charlie kèm với một nụ cười trấn an. “Cám ơn bà bếp trưởng!” Charlie nói và rời khỏi nhà bếp… không có giẻ lau. Billy Raven đang ngồi kẹp giữa Gabriel và Fidelio ở bên bàn, và khi Charlie xà vô nhập bọn, nó nhận thấy Billy có vẻ rất u uẩn. Nhưng thằng bé vốn chẳng vui gì kể từ khi con Rembrandt đi mất. Chính Gabriel là đứa mào đầu về đề tài con chuột đen. “Em có muốn gặp lại Rembrandt không?” Nó hỏi Billy. Billy gật đầu buồn rười rượi: “Nó là bạn thân nhất của em. Em có thể nói với nó gần như về bất cứ chuyện gì. Nó thiệt là thông minh. Nhưng làm sao em gặp nó được? Họ không cho em ra khỏi đây.” Đôi mắt màu ngọc ruby của Billy đầm đìa nước. “Dàn xếp được vụ đó rồi.” Charlie nói. “Bà bếp trưởng nói sẽ giữ nó giùm cho em, và em có thể gặp nó mỗi cuối tuần. Nhưng em phải hứa là không bao giờ, không bao giờ được nói cho bất kỳ ai biết là nó ở đâu đấy nhé.” “Em không nói đâu!” Billy nói, và thề. “Xin thề!” “Nếu bọn anh dàn xếp được việc này cho em thì em phải làm cho bọn anh một việc,” Fidelio nói. “Em sẽ phải làm gì?” Billy lập tức tỏ vẻ lo lắng. Charlie đề nghị bọn chúng nên thảo luận vụ việc ở bên ngoài. Olivia và Emma đang ngồi dưới một gốc cây thì thấy Charlie và lũ bạn đi qua cửa vườn. Mấy đứa con gái tính chạy lại nhập bọn, nhưng rồi nhận thấy có cả Billy đi cùng, chúng quyết định ngồi tại chỗ hơn là can thiệp vô một tình huống có vẻ cang thẳng. Mặt Billy tái mét. Nó lắc đầu liên tục và hồi hộp cắn cắn móng tay. Sau đó Gabriel nói cái gì đó và Billy bình tĩnh trở lại. Nó cười một cái, vẻ cam chịu, gật đầu xuống và cứ thế giữ yên cái đầu. Khi tiếng còi đi săn rúc lên, hai đứa con gái chạy bổ về phía Charlie trước khi nó bước vô tiền sảnh. “Có chuyện gì với Billy vậy?” Olivia hỏi liền. “Nó chịu làm rồi,” Charlie thì thào. “Tối nay sẽ tiến hành. Đừng có rời phòng ngủ chung và nhớ để mắt tới Belle.” Emma lẹ làng đưa cho Charlie con nhện. “Bồ sẽ cần tới cái này,” nó nói. Suốt thời gian còn lại trong ngày hôm đó, Charlie thấy khó mà tập trung vô cái gì khác ngoài buổi tối sắp tới. Nó biết nó sẽ phải chờ ít nhất là tới nửa đêm thì nó và Billy mới có thể lên đường đi tìm con trăn xanh da trời. Rủi Billy không liên lạc được với con trăn thì sao? Rủi con trăn quấn cả hai đứa thành vô hình thì sao? Và sau đó rồi sao? Sau giờ làm bài tập về nhà, Charlie đuổi kịp Lysander và Tancred trước khi hai anh lớn này đi vô phòng ngủ chung. “Đêm nay các anh sẽ ra tay chứ?” Nó hỏi. “Billy đồng ý rồi.” “Tụi anh sẽ lo phần việc của mình,” Tancred bảo. “Mấy giờ?” “Nửa đêm.” “Anh hy vọng là chúng ta không làm cho thằng bé sợ,” Lysander bảo. “Tổ tiên anh trông có thể dữ tợn lắm.” “Em sẽ nói với Billy là anh đang kiểm soát mọi việc,” Charlie nói. “Tùy ý em,” Lysander bật cười lớn. Zelda Dobinski tình cờ băng sượt qua bọn chúng đúng lúc đó. Nó ném cho bộ ba kia một cái nhìn quỷ quyệt, và “hất” một trong những tập bìa đựng giấy vẽ của Tancred bay tuốt lên trần nhà. Một đám mây giấy rời bung ra, bay lả tả khi chiếc cặp giấy rớt bịch xuống sàn. “Con nhỏ cứ nghĩ là nó tài giỏi ghê lắm,” Tancred vừa lẩm bẩm vừa thu lượm giấy tờ lại. “Cứ chờ tới đêm đi,” Lysander bảo khẽ. “Nó sẽ trố mắt lên sửng sốt cho mà coi.” “Mấy người đang làm gì đấy?” Lần này chính là Belle đang tiến tới chỗ chúng. Bọn con trai đứng dạt ra một bên, và Belle đạp hẳn lên đống giấy, cố ý dẫm lên từng tờ giấy mà nó trông thấy. “Coi chừng!” Tancred hét lên. “Mấy bức vẽ của tôi đấy.” “Cái gì?” Belle liếc nhìn lại Tancred với con mắt đỏ bầm màu trái anh đào. “Coi chừng chứ sao,” Tancred quát lại, mái tóc vàng của nó nổ lốp bốp. “Có vụ gì hả?” Một giọng cất lên, và Asa xuất hiện, bước dài dọc theo hành lang tối. “Không có gì mà tôi không dàn xếp được,” Belle nhoẻn với Asa một nụ cười cực kỳ mê hồn. Asa khoái chí nhếch mép cười. “Lượm cái đống đó lên rồi về phòng ngủ chung của tụi bây, lẹ lên,” nó quát mất thằng nhỏ. Belle hất những lọn tóc vàng ra sau và bước đi, có Asa chạy lon ton theo cái bóng của nó. “Em nghĩ bịn chúng đã đoán ra được là sẽ có việc xảy ra đêm nay,” Charlie thì thầm trong khi giúp hai anh lớn thu dọn giấy. “Nhưng chúng không biết đó là cái gì.” Lysander trấn an nó. “Chúc may mắn, Charlie!” “Cám ơn!” Charlie bước tiếp về phòng ngủ chung. Nó thấy Billy Raven đang ngồi thu lu trên giường, trông lo lắng kinh khủng. “Em không sao chứ, Billy?” Charlie hỏi. Billy lắc đầu. “Em sợ,” nó thì thào. “Đừng sợ. Phe tụi mình ngon mà. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới giờ.” Nói rồi Charlie trở lại giường của nó và thay bộ đồ ngủ vô. Ở giường kế bên, Fidelio đang nằm nghiêng, đọc một bản nhạc giống như là cách người ta đọc một cuồn sách. “Tối nay có cần anh đi cùng với em không?” Nó hỏi Charlie. “Không cần,” Charlie đáp. “Tốt hơn anh ở lại đây và trông chừng các thứ.” “Ừ,” Fidelio quay lại với bản nhạc của mình, vừa ngâm nga nho nhỏ khi đọc những nốt nhạc. Gabriel xộc vô ngay trước khi đèn tắt vài phút. Nó thở phì phò và mặt đỏ gay, hoặc là vì chạy hay là có cái gì đó làm nó sửng sốt. Nó đang cầm một chiếc áo chùng xanh lá cây cuộn tròn lại. “Bộ anh chuyển sang khoe hội họa rồi à?” Charlie hỏi, có vẻ bông đùa hơn là nghiêm túc. Gabriel lại lấy đó làm nghiêm túc. Nó ngồi cái phích xuống đầu đằng kia chiếc giường của Charlie. “Tôi tìm thấy chiếc áo chùng của thầy Boldova,” nó hạ thấp giọng. “Nằm ngay phía sau tủ âm tường của khoa hội họa. Từ bữa đó tới nay tôi luôn cố tìm cái gì đó có thể cho chúng ta biết manh mối về vụ biến mất của thầy.” “Cái áo chùng này… anh biết?” “Biết chứ,” Gabriel bảo. Fidelio ngước nhìn lên. “Chuyện gì vậy?” Nó hỏi. Gabriel nhìn quanh phòng ngủ chung. Bọn con trai trong phòng đang tấp nập ra vô nhà tắm, vài đứa đang đọc sách trên giường, những đứa khác đang đấu láo hoặc cãi lộn chí chóe. Xem ra chẳng có đứa nào chú ý tới Gabriel và chiếc áo chùng xanh lá cây. “Thầy Boldova đang ở rất gần đây thôi,” nó thì thào. “Thầy không về nhà. Mà thầy… kiểu như là… mất tích vậy. Nó cho tôi cảm giác giống hệt như hồi tôi có cảm giác về ba của cậu vậy, Charlie, nhưng tình trạng của thầy Boldova không tới nỗi xấu như vậy. Có lẽ vì thầy có phép thuật. Thầy vẫn có thể chống lại được.” Nghe nhắc tới ba khiến Charlie ngẩn cả ra. Tìm ba là điều cuối cùng nó nghĩ tới. Bây giờ, đột nhiên, nó chợt thắc mắc liệu gia đình nhỏ của nó có bao giờ được đoàn tụ hay không. Ba Lyell Bone của nó hiện đang ở đâu? Ở xa thật xa đây, hay là ở gần thật gần, tới nỗi không ai tưởng tượng ra? Gần, nhưng mất tích. Lo lắng vì thấy Charlie cau mày, Gabriel bảo: “Đêm nay tôi đi cùng cậu nhé, Charlie.” “Không cần đâu,” Charlie nói chậm rãi. “Tôi sẽ đi,” Gabriel nói dứt khoát. “Và tôi sẽ mặc cái này.” Nó nhét chiếc áo chùng xanh lá cây xuống dưới gối. “Thầy Boldova là một người can đảm. Tôi nghĩ chiếc áo chùng này sẽ tiếp cho tôi thêm một chút lòng dũng cảm.” Trong những tình thế nguy nan, cái cậu Gabriel hơi đãng trí, hay mơ màng này lại thường biến thành đứa điềm tĩnh và mạnh mẽ tới không ngờ. Charlie rất vui vì Gabriel sẽ đi cùng với nó trong cuộc săn lùng con trăn xanh da trời đầy rủi ro này. Bọn trẻ ở Học viện Bloor sẽ còn bàn tán mãi về cái đêm của gió và những linh hồn ấy. Cái đêm sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đúng lúc chuông đồng hồ điểm nửa đêm, cái giờ yêu thuật mà Charlie luôn cảm thấy sống động và đầy quyết tâm nhất, ba thằng nhỏ rời phòng ngủ chung và bắt đầu cuộc hành trình đi về chái phía tây. Billy đi chính giữa Charlie và Gabriel (cậu này bận chiếc áo chùng xanh lá cây của thầy Boldova). Một làn gió nhẹ vi vu thổi theo bước chân chúng. Dần dần, làn gió nhẹ biến thành một cơn gió mạnh, thổi vi vút xuống những hành lang tối om, làm runglach5 cạch những cửa cái và cửa sổ, nhấc những tấm thảm lên và thổi phồng những tấm rèm. Trong những phòng ngủ chung, bọn trẻ kéo tấm trải giường lên trùm kín đầu, cố làm bộ như không nghe thấy tiếng hú, tiếng rít và tiếng lạch cạch bí hiểm đang hoành hành ở bên ngoài những cánh cửa phòng chúng. Bà Lucretia Yewbeam đã được bà em tiên tri Eustacia cảnh báo trước rằng sẽ có một chuyện rất kỳ quặc xảy ra trong Học viện Bloor vào đêm hôm đó. Ngay khi nghe thấy tiếng gió hú trái với tự nhiên ấy, bà Lucretia liền bật ra khỏi giường, định sẽ ngăn chặn bất cứ “hành vi ngớ ngẩn” nào. Nhưng khi bà ta vừa mở cửa ra, cơn gió đẩy ngược bà trở vô giường, với một sức mạnh mà bà chỉ còn cách nằm ẹp ra đó, khiếp hãi và không thở được. Những kẻ khác cũng đang cố gắng rời khỏi phòng mình. Nhưng vô ích! Manfred Bloor đu người rị vô cái nắm cửa, thét gào tức tối, trong khi ở phía bên kia cánh cửa, có hai bàn tay nâu ghìm chắc cánh cửa lại. Lão Ezekiel già khọm thậm chí còn không thể lăn bánh xe lăn ra được tới cửa. Một đoàn quân thương giáo đã đột nhập vô căn phòng của lão. Những ngọn thương vây kín xung quanh lão, xắt vô không khí bằng những tiếng rít hung bạo bất cứ khi nào lão cố nhúc nhích. Ở tầng lầu bên dưới, giáo sư Bloor đang hằm hằm bước đi trên hành lang trải thảm dày, thắp đèn sáng trưng bên ngoài phòng ông ta. Vừa lao đi được một nửa đường, ông ta chợt húc phải cơn gió, thế nhưng điều này chưa đủ kìm được bước một người đàn ông cỡ như giáo sư Bloor. Ông ta chống trả quyết liệt, gầm gừ giận dữ, cho tới khi vấp phải một thế lực quá hùng mạnh để mà vượt qua. Trước tiên, đèn phụt tắt, và rồi ba hình thù như hồn ma lù lù hiện ra trước mặt. Gương mặt của những bóng ma bị che khuất trong một làn sương mù, nhưng những bàn tay sậm màu đang giữ những ngọn thương của họ lại hiện ra rõ mồn một. Những cái bóng ấy phát ra một âm thanh lạ, nghe như tiếng trống đổ dồn từ đằng xa. Ở tầng chót vót của chái phía tây, một người đàn ông hiếm khi ngủ rời tay khỏi phím đàn dương cầm và đặt hai bàn tay lên đùi. Thầy Pilgrim lắng nghe những tiếng chuông lúc nửa đêm. Còn có những âm thanh khác trong không gian: tiếng trống xa xa, một cơn gió hú và hát. Thầy dạy nhạc nhíu mày, cố nhớ xem cuộc đời mình trước kia đã từng như thế nào. Emma và Olivia vẫn chưa chợp mắt chút nào suốt đêm. Chúng nằm im thin thít trên giường từ tối tới giờ, lắng nghe và chong mắt nhìn. Vào đúng lúc tiếng chuông nửa đem điểm, Olivia nhìn thấy một bóng hình nhợt nhạt lướt về phía cửa. Trong tích tắc, Olivia chồm dậy khỏi giường và phóng theo cái bóng đó. Cái bóng đột ngột quay lại, nhìn thẳng vô mặt nó, và trong ánh sáng lờ mờ của cánh cửa mở giữa chừng, Olivia trông thấy một mụ già quái đản và xấu xí. “Cút ra xa tao,” mụ già quát. “Không,” Olivia túm lấy cái cổ tay xương xẩu. “Cút đi!” Mụ phù thủy tru lên. “Tôi biết bà là ai, bà phủ thủy già kia,” Olivia thét lại. “Tên bà là Yolanda Yewbeam, và tôi không sợ bà đâu, không sợ chút xíu nào.” “Thế hả?” Mụ phù thủy bật một tiếng cười khục khục trong cổ họng, và tất cả những nữ sinh trong phòng ngủ chung, trừ hai đứa, đều rụt cổ chui lọt xuống tấm mền của mình. Olivia, vẫn bám chặt mụ phù thủy, bị lôi xềnh xệch ra ngoài hành lang. Nó đạp đá túi bụi, và một cẳng chân nó bỗng bị ngoạm giữa hai quai hàm thép. Olivia thét lên đau đớn khi những cái răng sắc nhọn cắm phập tới xương, và rồi con bé nhìn thấy cái mặt của một con thú, gớm ghiếc và kinh khủng tới nỗi nó phải nhắm tịt cả mắt lại. Cái cổ tay ngẳng của mụ phù thủy tuột khỏi tay Olivia, và qua đôi mắt mở hí ra, Olivia trông thấy mụ phù thủy choàng áo trắng cùng con thú biến mất vô bóng đêm. Khi Olivia lết trở vô phòng ngủ chung, nó suýt nữa thì té lên một thân hình ằm chắn ngay bên trong cánh cửa. Đó là Emma, bị quấn từ đầu tới chân trong một sợi dây dày chắc. “Emma!” Olivia nín thở. “Chuyện gì xảy ra vậy?” “Mình tính ra giúp bồ,” Emma thở hắt một cái đau đớn. “Mình nghĩ là biến thành chim thì có thể sẽ…” Olivia thấy những sợi lông chim lú ra ở đầu những ngón tay của Emma đã bị dây nhợ cột chặt lại, đau đớn. “Ối, Emma. Ai làm thế này với đằng ấy vậy?” Olivia hấp tấp giằng kéo sợi dây ra. “Mình không chắc. Nhưng mình nghĩ là Dorcas.” Olivia quay nhìn hai dãy giường. Tất cả bọn nữ sinh đều đã hcui kín vô trong mền. “Để tớ giải thoát cho đằng ấy ra khỏi cái này,” Olivia nói gằn giọng và tìm thấy một đầu gút, thế là nó bắt đầu dùng răng tấn công mói gút ấy. Emma thở ra một tiếng nhẹ nhõm, những sợi lông đen mền mại trên đầu ngón tay nó bắt đầu nhạt đi. Charlie, Gabriel và Billy đã tới khu vựa bụi bặm, thắp đèn khí, nơi lão Ezekiel già sống suốt một trăm năm nay. Billy giờ đang run lẩy bẩy vì sợ hãi. Gabriel và Charlie mỗi đứa cầm một bàn tay Billy và dắt nó về phía chiếc cầu thang mà Charlie đã trông thấy con trăn xanh da trời. Con trăn vẫn còn ở đó, cuộn một cuộn như đống dây thừng xanh da trời, óng ánh bạc, ngay trên đầu cầu thang, thoáng lấp lánh trong ánh sáng lù mù. Khi ba thằng bé leo lên cầu thang, sinh vật nọ liền ngóc đầu lên, khiến bọn trẻ cứng cả người. Cặp giò của Charlie bỗng nhiên nặng như đeo chì. Nó chẳng thể nhúc nhích nổi. Phía đằng sau, nó nghe tiếng Billy hít thở hì hụi. “Nói chuyện với nó đi, Billy,” Charlie thì thào. Im lặng. “Billy?” Gabriel gọi. “Em… không… không lam được,” Billy lắp bắp. “Em không biết nói gì.” “Gì cũng được,” Charlie tuyệt vọng hối thúc. “Nói bất cứ chuyện gì đi.” Bất thình lình, con trăn rít lên một tiếng thật lớn. Nó vung thân thật dễ sợ và cái đầu nó thòng xuống phía Charlie. Charlie vội lùi lại, suýt nữa thì tông Billy ngã. Và rồi, trước sự sửng sốt của Charlie, Billy dội vọng lên tiếng rít của trăn, và con vật rồ lên một âm thanh lọc khọc. Và cứ như không thể kìm được, Billy tiến vượt qua Charlie và bắt đầu leo lên chỗ con trăn. Charlie bước lùi xuống cho tới khi đứng trong hành lang cùng với Gabriel. Nín thở, chúng dòm thằng bé xíu bò lên gần hơn, gần hơn nữa cái cuộn thừng xanh da trời thoáng ẩn hiện. Tiếng rồ rồ của con trăn nhẹ đi và căng ra, và Billy, xem ra đã nắm bắt được ngôn ngữ của con vật ấy, liền ngâm nga và huýt gió đáp lại. Khi tiến tới bậc thang trên cùng, Billy ngồi xuống khoan chân xếp bằng, nhìn chằm chằm vô con trăn lạ lùng, có những diềm lông chim trên mình. Và, mặc dù không thể hiểu được lời nói của con vật, nhưng Charlie có cảm giác là con trăn cảm thấy ấm áp với Billy và đang cố kể cho thằng bé nghe một câu chuyện. Bằng một giọng lặng lẽ, đứt quãng, Billy dịch lại những lời của con trăn. “Nó nói… nó được sinh ra cách đây một ngàn năm. Trước kia… nó đã từng sống với một vị vua… Ngài đối xử rất tốt với nó. Nhưng một ngày nọ khi nhà vua đi vằng… và con trai ngài… tra tấn nó, cho tới khi nó thù ghét… thù ghét… thù ghét… và giết chóc. Con gái của nhà vua đã tìm thấy nó… đang chìm trong giận dữ… và…bà… gần như chữa khỏi cho nó… bằng sự tử tế. Nhưnno1con trăn không thể nào quên được… cú xiết hết lực của nó… vòng ôm đầy đói khát của nó… nên bà công chúa… cho nó sức mạnh… chỉ biến mất… mà không chết…” Billy ngó xuống Charlie và Gabriel. “Nó là một con trăn tốt, thật đấy,” Billy bảo chúng. “Kể từ khi bà công chúa qua đời, nó không nói chuyện với bất kỳ ai… cho tới tận bây giờ… Em nghĩ em đã làm cho nó cảm thấy hạnh phúc.” “Cẩn thận đấy, Billy,” Charlie nói. Con rắn đang trườn qua Billy, và thằng bé tóc trắng quay lại đúng lúc con trăn trườn lên đùi nó. Billy há hốc miệng khi con trăn quấn quanh eo nó. Từ từ, nguyên phần thân thể phía dưới của Billy bắt đầu biến mất. “Ôi, không!” Charlie thét lên. “Tụi mình đã làm gì vậy này?” “Suuỵtt!” Gabriel suỵt. “Im nghe.” Billy đã lại bắt đầu ư ử và ngâm nga. Nó phụt ra một tràng những tiếng thở ồng ộc ngắn khi con trăn quấn tới cổ nó. Con vật treo lơ lửng ở đó, rõ ràng là đang lắng nghe thằng bé nói, và chầm chậm, cơ thể của Billy lại hiện ra. “Trời! Nó làm được chuyện ấy,” Charlie thốt lên. “Nó làm được thiệt.” “Hỏi con trăn coi nó có thể làm được tương tự với một thằng bé khác hay không,” Gabriel nhắc. “Thằng bé mà nó đã quấn thành vô hình đó.” Billy tiếp tục ngâm nga và con trăn đáp lại bằng tiếng rít và tiếng rồ rồ dồn dập hơn. “Nó nói… nó sẽ làm…,” Billy bảo với chúng, “nếu chúng ta hứa… không nhốt nó vô một cái hũ… Suốt mấy trăm năm nó bị giữ trong chất lỏng xanh da trời… cùng với xương cốt của một con chim… cho tới khi lão Ezekiel làm cho nó tỉnh lại. Chính vì thế mà nó mới có lông chim. Em đã bảo với nó rằng chúng ta sẽ không bao giờ bỏ nó vô trong hũ đâu. Rằng chúng ta sẽ đem nó tới một nơi an toàn.” Billy liếc nhìn Charlie. “Em hy vọng đó là sự thật.” “Đúng thật mà,” Charlie bảo. “Anh hứa là sẽ không ai làm hại nó.” “OK,” Billy nói. “Giờ thì sao?” “Tụi mình đem nó tới khu nhà bếp,” Charlie bảo. Billy đứng lên và thận trọng đi xuống những bậc thang ọp ẹp, cùng với con trăn vẫn vui vẻ quấn quanh cổ nó. “Hy vọng tụi mình có thết gạt nó ra khỏi thằng nhỏ,” Gabriel thì thào với Charlie khi chúng đi dọc theo hành lang. “Tôi thắc mắc không biết nó ăn cái gì.” “Ai mà biết?” Charlie đột nhiên nhớ ra một công việc khác. Nó lôi hũ Mứt Dâu Ngon Nhất ra khỏi túi áo ngủ của nó và gọi khẽ: “Ollie Sparks, bạn có ở đó không? Tôi mang cho bạn một ít mứt nè.” Nhưng tòa nhà vẫn đang chìm trong bùa chú của cơn gió và những linh hồn. Những lời của Charlie bị chìm lỉm và không có tiếng đáp lại. Khi bọn chúng đi tới tiền sảnh, tiếng vi vu và tiếng rú rít của cơn gió đang tới hồi dữ dội. Thỉnh thoảng, một bóng hình nhạt nhòa trôi đi bên cạnh chúng, và một ngọn thương sáng quắc, hay một mũi tên có cắm lông chim bay vèo qua đầu chúng. Billy, chẳng bị ảnh hưởng gì bởi hoạt động của tất cả các thế lực siêu nhiên đó, dẫn đầu, trong khi con trăn vẫn xì xào bên tai nó. Chúng đi tới chỗ chiếu nghỉ, vừa đi vừa ngó xuống cái tiền sảnh dài, lát những viên đá lớn, nơi nắm giữ nguồn cơn của cái đêm đầy ma thuật này. Có hai hình bóng đang xoáy tít và quay mòng mòng khắp sàn nhà. Chúng di chuyển lẹ tới nỗi những chiếc áo chùng xanh lá cây bay tung cả lên, trông như những đôi cánh chấp chới của một con ruồi. Chắc hẳn sẽ không thể nào phân biệt được đứa nào với đứa nào nếu không nhìn vô cái đầu chúng – một đứa tóc đen và đứa kia tóc vàng, tóe sáng và kêu lắc rắc. Billy vừa định thò chân đi xuống dãy cầu thang chính thì nó bỗng thét lên kinh khiếp. Một con nhện không lồ vừa rớt từ trên trần nhà xuống, và bây giờ đang bò lổm ngổm trên những bậc thang phía trước thằng bé. “Bình tĩnh,” Gabriel trấn an. “Coi vậy mà nó không ghe gớm đâu.” Gabriel tiến vượt lên trước cả bọn và bắt đầu bước xuống phía con nhện. Sinh vật khổng lồ đó thình lình búng lên đậu trên thanh giống cầu thang, và rồi quăng mình xuống tiền sảnh trên một sợi tơ bạc, dày cỡ một ngón tay. Nó đáp xuống ngay trước mặt Tancred, cơ thể quay tít của Tancred bổng ngập ngừng và rồi dừng phắt lại. Chiếc áo chúng của nó cụp lại và vai nó thõng xuống. Nó nhìn trân trối vô con nhện, gương mặt trắng bạch ra vì sợ hãi, và cơn gió điên cuồng đang thét gào khắp tòa nhà bỗng im bặt. “Đừng ngưng lại, Tancred,” Gabriel gọi lớn. “Đó là mụ ta… mụ Yolanda, đó. Đừng sợ. Mụ không làm hại được cậu đâu.” Nhưng Tancred không hề động đậy. Mụ Yolanda đã chọn hình dạng cho mụ thật là ranh mãnh và xảo quyệt. Tancred tê liệt luôn vì sợ. Vì vậy Gabriel buộc phải tự mình đối phó với con nhện. Quấn chặt chiếc áo chùng của thầy Boldova dũng cảm quanh mình, nó chạy ùa vô tiền sảnh, thét to: “Này, mụ Yolanda. Đây này mụ già xấu xí! Mụ làm gì được ta nào, hứ?” Con nhện quành những chân trước của nó về phía Gabriel, đôi mắt của nó bừng chói lên. Gabriel nhảy tránh ra, nhưng chỉ một thoáng liếc trúng ánh mắt thôi miên ấy đã khiến nó choáng váng. Và rồi Billy bước ngang qua Gabriel, thét lớn: “Bà không thể làm như thế với tôi đâu, bà Yolanda. Tôi không thể bị thôi miên, hay bị bất cứ điều gì.” Và con trăn – mà bây giờ cũng chính là Billy, cả thể xác lẫn linh hồn nó – đâm bổ vô con nhện, cùng với một tiếng khè vang khắp tiền sảnh, khiến cho sinh vật bự ấy rùng mình và teo rúm lại. Tancred mỉm cười và giơ hai tay lên. Với đôi cánh xanh lá cây, nó khuấy động không khí, và cơn gió quay trở lại, thổi con nhện trôi lốc thốc qua sàn nhà. Đoàn quân nho nhỏ, với vy đi đầu, tiếp tục cuộc hành trình của mình tới nhà bếp. Nhưng, ngay trước khi chúng rời khỏi tiền sảnh, một tiếng rú kinh hoàng khiến chúng quay đầu nhìn lại. Con thú mà Charlie đã từng chạm trán trong khu lâu đài hoang đang đứng sựng ở trên đầu cầu thang. Nó bị bao vây bởi những thân hình ma quái, cao lớn mặc áo thụng nhạt nhòa. Trên những cánh tay của họ đeo đầy những vòng xuyến sáng lấp lánh và những mũi giáo dài vươn cao quá đầu. “Đêm nay con thú đó không đi xa được đâu,” Charlie nói ngiêm trang. Ba thằng bé bước vội qua hành lang treo đầy những bức chân dung, và Gabriel rút cây đèn pin của nó ra để rọi sáng đường đi. Bà bếp trưởng đang chờ bọn chúng ở bên cánh cửa của căn-tin xanh da trời, với một cái giỏ mây đặt dưới chân. Ông cậu Paton đã giữ lời. Chiếc giỏ này thậm chí còn có cả bánh xe nữa. “Ô, ô, trời,” bà bếp trưởng mừng rỡ. “Con là một cậu bé thật dũng cảm, Billy. Con có nghĩ là con rắn của con sẽ chịu chui vô cái giỏ mây không?” Billy thì thầm với con trăn, nhưng con vật vẫn bám chắc vô nó. Thằng bé ngâm nga và rít lên một tiếng vỗ về nhẹ, và từ từ con trăn nới lỏng cú siết của mình. Billy nâng con trăn ra khỏi cổ nó và nhẹ nhàng đặt vô chiếc giỏ này. “Nó sẽ làm điều bà muốn ngay bây giờ,” Billy nói. “Cám ơn, Billy,” bà bếp trưởng đậy nắp giỏ lại và cột lại bằng một sợi dây da. “Em có thứ gì là bị lấy mất thứ ấy.” Billy buồn bã. “Tất cả mọi thứ.” Và nó đầm đìa nước mắt. “Không phải đâu,” bà bếp trưởng nói. “Con sẽ gặp lại một người bạn của con ngay đây. Rembrandt là tên nó thì phải, nếu ta nhớ không lầm.” “Thật à?” Billy quệt ngang mũi, sung sướng. “Thế, có tin gì về Ollie Sparks không? Ta rất hổ thẹn vì tới giờ vẫn chưa thể mang được chút đồ ăn nào cho chú nhóc đáng thương ấy. Cái gã Weedon luôn theo dõi mọi cử động của ta.” “Tạm thời lúc này tụi con đã để mất cậu ấy,” Charlie thú nhận. “Nhưng tụi con nhất định sẽ kiếm ra câu ấy. Tụi con sẽ không bỏ cuộc.” “Tốt nhất là phải kiếm lẹ lên, Charlie,” bà bếp trưởng thở dài. “Giờ thì về đi! Cả ba đứa. Cứ để ta lo liệu cái này.” Rồi bà xách chiếc giỏ mây lên và biến mất vô trong căn-tin. Với sự hộ tống của tiếng gió hát và một đoàn linh hồn bay vù vù, ba cậu bé chạy vội trở lên lầu. Chúng đi ngang qua Tancred và Lysander, vẫn đang thực hiện phép thuật của mình trong tiền sảnh, nhưng con nhện và con quái thú đã biệt dạng. Gabriel và Billy đi trước Charlie, và khi nó vừa mới quẹo vô hành lang dẫn lên phòng ngủ chung, thì một bàn tay túm lấy cổ tay nó. Charlie giật bắn cả người. “Tôi đây,” một giọng nói. “Ollie Sparks.” “Ollie?” Charlie thì thào. “Tôi có món này cho bạn đây.” “Mứt chứ gì,” Ollie bảo. “Tôi đã nghe bạn gọi.” “Loại Dâu Ngon Nhất,” Charlie nói. “Này.” Nó chìa hũ mứt ra. “Chao! Thứ tôi thích đây. Cám ơn Charlie.” Thật khó thấy được chuyện gì đang xảy ra, nhưng Charlie cảm thấy hũ mứt vuột khỏi tay nó… và biến mất. “Ollie, tôi có mấy tin tốt lảnh đây,” nó nói. “Tụi tôi đã tìm ra một cách để giúp bạn hiện hình trở lại. Nhưng, bạn sẽ cần phải làm sao đó để đi ra khỏi tòa nhà này. Emma đã làm ra cái này để bao ngón chân cái của bạn lại. Đây này… một con nhện.” Ollie cười khúc khích, và con nhện được nhón khỏi bàn tay Charlie. “Cái này được đây, nhưng tôi sẽ không ra ngoài trong khi còn vô hình đâu. Tôi biết đi đâu bây giờ?” Charlie trao cho nó địa chỉ của cô Ingledew. “Chỗ này gần nhà thờ lớn và cô ấy sẽ chăm sóc bạn cho tới khi… tới khi bạn được chữa khỏi.” “Tôi sẽ được chữa khỏi như thế nào?” Ollie hỏi, giọng nghi ngờ. Charlie nhận thấy nó sẽ phải nhắc tới con trăn. Nó bèn tả lại sự biến mất rồi lại hiện ra kỳ lạ của Billy. “Sẽ được mà, tin tôi đi,” Charlie bảo. “Con trăn ấy á?” Ollie kêu thảng thốt. “Không đời nào. Nó sẽ làm tiêu tôi mất.” “Nhưng mà bạn tiêu rồi còn gì,” Charlie nói. “Về mặt nào đó, ý tôi là, vô hình là một cách tồn tại khốn khổ, đúng không? Bạn không muốn về nhà với cha mẹ bạn sao? Hãy nghĩ tới điều đó đi. Bạn không muốn anh bạn thấy bạn là một cậu bé thật và đầy đù thân mình sao?” Im lặng kéo dài, tiếp theo là một tiếng thở dài, và giọng của Ollie man mác trong bóng đêm. “Ừ,” nó nói. “Được, tôi sẽ làm.” Charlie cảm thấy có lỗi khi nhắc tới thầy Boldova – hoặc Samuel Sparks. Trong thoáng chốc, nó nghĩ tới việc phải nói cho Ollie biết sự thật, rằng thật sự cả bọn không biết anh nó hiện đang ở đâu. Nhưng khi nó gọi tên Ollie thì không có tiếng trả lời nữa, và nó nhận ra rằng thằng bé vô hình đã đi rồi. Mình hy vọng nó sẽ ra ngoài, Charlie nghĩ, bằng không thì tất cả chẳng có nghĩa lý gì. Bà bếp trưởng xách chiếc giỏ mây trở lại căn phòng bí mật đằng sau nhà bếp. Khi về tới nơi, bà đứng lên một chiếc ghề đẩu và mở ô cửa trời ở trên trần nhà thấp. “Ừm. Thật là vừa vặn,” bà tự nói với mình. Từ khoảng tối bên trên, ba cặp mắt sáng ngời đang ngó xuống. “A, tới rồi,” bà nói. “Lũ mèo ngoan. Ta có một gói hàng cho bọn mi. Nó đây này,” và bà nâng chiếc giỏ mây lên, đút qua ô cửa trời. Bất cứ công dân không ngủ nào, liếc nhìn qua cửa sổ nhà mình vào buổi sáng đầy sao ấy, chắc hẳn đã chứng kiến được cảnh tượng vô cùng lạ lùng. Ba con mèo lớn chạy qua những đường phố vắng tanh: một con màu vàng, một con màu cam và một con màu đồng đỏ. Bộ lông của chúng nháng lên những tia sáng chói lói và ria của chúng óng ánh như bạc. Mỗi con mèo ngoạm trong miệng một đầu sợi dây da, và kéo phía sau một chiếc giỏ mây có bánh xe. Cái giỏ có thể chứa gì ở trong đó? Một đứa trẻ bị đánh cắp? Một món trang sức vô giá? Hay đồ ăn cho một bữa đại tiệc? Chắc chắn không ai đoán ra được sự thật. “Giỏi lắm, các chú mèo đẹp đẽ của ta,” ông Onimous tán thưởng. “Nào bây giờ chúng ta hãy cùng xem báu vật của bọn mi nào!”