Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 15 -
CHIẾC ÁO CHÙNG BỊ ẾM BÙA

“Cái gì! Hoàng hậu?”
Manfred lùi lại để né bãi nước miếng to tướng của lão Ezekiel đang bay tới. Tuy vậy, một nhúm nước miếng cũng rớt bụp xuống chiếc giày bóng lộn của hắn, Asa đang khúm núm bên cạnh, cố nín cười.
Bữa nay đâm ra lại là một trong những thứ Hai tồi tệ của Manfred. Kỳ cuối tuần đã đủ tệ hại rồi, với việc thằng ranh Billy Raven đó trốn thoát khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt và Usher de Grey bị tai nạn suýt chết. Đó là chưa kể đến vụ tiêu tùng bọn giấy ghi lời thề và việc mụ Florence phát rồ phát dại. Những tiếng rú của mụ, khi họ buộc phải nhốt mụ vô căn phòng lạnh lẽo, vẫn còn ong óng trong tai hắn. Hy vọng là lúc này mụ đã nguội bớt.
Nhưng nổi cộm trên tất cả những chuyện xúi quẩy đó, là Asa Pike vừa mới lẻn vào, mang theo tin tức rằng cuộc thí nghiệm vĩ đại đã không cho kết quả chính xác như bọn chúng nghĩ. Thay vì một con ngựa chiến với trái tim bạo tàn, thì bọn chúng đã làm sống lại một con ngựa trắng có trái tim của một người mẹ chan chứa tình yêu thương.
“Hãy nhìn vào mặt tốt của vụ việc, ông cố à,” Manfred nói, cẩn thận lấy mũi giày chân phải gạt bãi nước miếng ra khỏi chiếc giày bên trái. “Dẫu sao thì thí nghiệm đó cũng là một thành công.”
“Tao không muốn Hoàng hậu!” Lão Ezekiel rống to. “Tao muốn Borlath.”
“Ừm, nhưng ông được Hoàng hậu,” Manfred nói lạnh tanh. “Hay chính xác hơn, Charlie Bone đã có được bà ấy, và bây giờ nó và thằng Billy đang ung dung trên đường tới Lâu đài Gương.”
“Ung dung trên đường,” Asa đế theo, lộ vẻ mãn nguyện một cách không cần thiết.
“Đó là lỗi của mày,” lão Ezekiel điên tiết, chĩa một ngón tay cong queo vào Asa. “Chính mày đã tìm thấy cái bia mộ; mày mang trái tim đó đến cho tao.”
“Tôi không biết đó là tim của ai,” Asa tru tréo. “Chỉ có mỗi một chữ B ở trên bia mộ. Có ai nói cho tôi biết Hoàng hậu tên là Berrenice đâu.”
“Ôôô! Lão Ezekiel gầm vang.
Asa cảm thấy thêm phần can đảm:
“Tôi đã làm rất tốt,” nó khăng khăng. “Tôi đi theo Paton Yewbeam, và tôi đã phát hiện ra thằng cha Crowquill. Tôi đã phải tiêu tốn hàng nhiều giờ trong cái sân dơ dáy nhà Silk, và rồi phải chui rúc trong khu rừng ẩm ướt, giờ thì xương cốt tôi đau ê ẩm. Nếu không có tôi thì các người không thể biết thằng Billy đi đâu, đúng không nào?”
“Thôi được!” Lão Ezekiel rít lên. “Cho mày nghỉ một ngày.”
“Tôi không muốn một ngày nghỉ,” Asa càm ràm vẻ giận dỗi. “Tôi chỉ muốn được công nhận.”
“Thì mày được rồi đấy,” lão Ezekiel gầm gừ. “Tất cả bọn chúng nó: thằng châu Phi, thằng Torsson, thằng Gabriel Silk. Việc này phải chấm dứt. Mang thằng Joshua Tilpin tới đây cho tao!”
“Joshua?” Manfred nhướn một bên chân mày lên. “Nó thì làm được gì?”
“Mày sẽ ngạc nhiên cho coi, Manfred,” ông cố của hắn nói. “Rồi mày sẽ biết ngay thôi. Giờ thì xéo đi, cả hai đứa bay!”
Manfred nén nhịn chuyện bị đối xử như một thằng nhóc. Hắn xứng đáng được đối xử tốt hơn kìa. Mang bộ mặt quạu đeo, hắn bước hùng hổ qua bao nhiêu là hành lang và cầu thang từ phòng ông cố, trong khi Asa lẽo đẽo bám theo sát gót, vừa đi vừa tru tréo, than van.
“Lão muốn thằng Tilpin để làm gì?” Asa ca cẩm. “Thằng ấy chả làm được cái tích sự gì hết. Nó quá nhỏ và nó lại chẳng có kinh nghiệm.”
"Chúng ta biết nó có nam châm,” Manfred đớp lại. “Tao nghĩ chuyện này sẽ tùy thuộc vào việc nó làm gì với cái tài ấy. Thú vị đây.”
“Hừ!” Asa khịt mũi.
Manfred bắt được Joshua ngay khi thằng này vừa ra khỏi phòng để áo chùng xanh lá cây. Giờ tập họp đã hết và bọn trẻ đang trên đường tới lớp học đầu tiên của chúng.
“Ông Ezekiel muốn gặp em đấy,” Manfred nói, tóm lấy vai của thằng nhỏ quắt.
“Vậy hả?” Joshua nhá cho Manfred nụ cười mất răng quái dị của nó, và một lần nữa, Manfred cảm thấy một cảm giác tê tê quái lạ, khiến hắn phải đáp trả lại nụ cười của Joshua, cho dù một phút trước hắn không hề nghĩ đến chuyện mở miệng ra cười.
“Em đã biết cách kiểm tra phòng của ông Ezekiel chưa?” Manfred hỏi một cách tử tế.
"Thưa thầy, biết. Nó ở chái phía tây, lầu trên cùng.”
“Giỏi lắm. Thế thì đi đi. Lẹ lên.”
"Dạ, thưa thầy.”
Rốt cuộc thì mới hài lòng làm sao khi được gọi là “thầy”. Manfred đeo nụ cười mà đi hết tất cả các bậc thang băng qua tiền sảnh, nhưng nụ cười bất ngờ tắt nghúm khi hắn trượt lên một miếng vỏ táo và suýt nữa thì té.
“AAAAAARGH!” Manfred rống vang.
Tiền sảnh lúc này vắng tanh, ngoại trừ giáo sư Saltweather – đang bước thơ thẩn xuống dãy cầu thang chính, với một tờ báo kẹp dưới nách và một vẻ ngơ ngác trên mặt.
“Lại cái con vertigo ấy,” Manfred quát vào mặt giáo sư Saltweather. ”Nó làm rớt vỏ táo tùm lum. Phải làm gì đó chớ.”
“Không phải khoa của tôi,” giáo sư Saltweather lẩm bẩm. “Tôi là trưởng khoa Nhạc.”
Ông lững thửng đi khỏi, thậm chí trông còn bối rối hơn lúc nãy.
Manfred phun ra một tiếng rền giận dữ và đi về phía thư phòng của hắn.
Giáo sư Saltweather thả bước trên hành lang treo đầy các bức chân dung. Ông lo lắng đến nỗi quên mất mình đang định đi đâu. Tờ báo ông cầm đăng một bìa đáng lo. Có hai người biến mất khỏi một thị trấn nhỏ phía Đông Bắc. Bình thường, những tin tức loại này sẽ chỉ khiến cho giáo sư Saltweather hơi xao động lo âu – ông có trái tim nhân từ, và ngay cả nỗi bất hạnh của những người hoàn toàn xa lạ cũng khiến ông chạnh lòng. Nhưng tin tức ngày hôm nay nói chung đang lo hơn nhiều.
Hai người đàn ông nói trên, một người là vị hiệu trưởng có tên là Tantalus Wright, và một là người đưa thư có tên là Vincent Ebony. Đây rất có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hẳn thế, nhưng chính những thói quen kỳ lạ của hai người đàn ông đó lại khiến giáo sư Saltweather nhận thấy rằng sự biến mất của họ quá hung hiểm, khó có thể coi chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Chuyên ngành của vị hiệu trưởng kia là lịch sử trung cổ và ông ta bị chứng rối loạn thần kinh do dược phẩm. Nói cách khác, ông ta hay ngủ gật bất thình lình, tại những nơi bất thường nhất – điều này khiến cho bọn học trò được nhiều phen cười rũ.
Giáo sư Saltweather giở tờ báo ra và đọc lại bài báo nhỏ xíu ở trang cuối. “Vincent Ebony là một người vui tính, có óc khôi hài tuyệt vời. Ông sẵn sàng cười trước những câu bông lơn ngó ngẩn nhất, người ta thường nghe ông hát ngâm nga bài ‘Bess, em là người trong một của anh’ của Gershwin. Vợ của ông Ebony, bà Bess, hiện đang quá đau buồn nên không thể đưa ra lời bình luận nào.”
Cả hai người đàn ông đều biến mất vào cuối thàng Tám gần thị trấn Yorwynde nhỏ bé. Ông Tantalus Wright, một người đam mê đi bộ, đã không thấy quay về nhà sau cuốc đi bộ ngày chủ nhật, và chiếc xe tải nhỏ của Vincent Ebony được tìm thấy bị bỏ lại ở rìa một khu rừng nhỏ. Không có dấu hiệu của người đưa thư. Hai người đàn ông biến mất đến nay đã ba tuần rồi.
“Không thể thế được! Làm sao lại thế được? Hai trong một? Hai trong một!” Giáo sư Saltweather đi lững thững, lắc đầu. Ông không thể thảo luận vấn đề này với ông hiệu trưởng, bởi vì chính giáo sư Bloor là người đã cương quyết mời ông Tantalus Ebony giảng dạy. Thật khó biết chính xác ai là ai trong cái Học viện Bloor này, hoặc đó là ai, mỗi khi có chuyện xảy ra.
“Xin chào!” Bà bếp trưởng lướt qua giáo sư Saltweather trong hành lang tối. “Trông ngài có vẻ lo lắng, thưa giáo sư.”
“Phải,” giáo sư Saltweather quay phắt lại và nhìn thấy bà bếp trưởng đang vội vã đi khỏi hành lang. Ông chợt nhận ra đây chính là người ông có thể thổ lộ tâm tình. Thâm tâm ông không một chút nghi ngờ, rằng bà bếp trưởng đứng về phe chính nghĩa, mặc dù ông hầu như cũng không biết cái gì khiến mình nghĩ như thế.
“Bà bếp trưởng!” Giáo sư Saltweather gọi nhà. “Tôi có thể nói chuyện một chút được không?”
Bà bếp trưởng quay lưng lại, ngạc nhiên trước giọng nói có vẻ bí mật của giáo sư. Bà bước ngược trở lại phía ông.
Giáo sư Saltweather vuốt thẳng trang báo cuối cùng của tờ báo ông đang cầm và đưa cho bà bếp trưởng, chỉ cột nhỏ xíu ở gần cuối.
“Bà nghĩ gì về chuyện này?”
Bà bếp trưởng lướt thiệt nhanh khắp bài báo và há hốc miệng.
“Tôi nghĩ gì hả?” Bà run run nói. “Tôi nghĩ việc đó đáng lo, thưa giáo sư Saltweather. Cực kỳ đáng lo; nhất là đối với vai người cụ thể trong thành phố này.”
“Như ai?” Vị giáo sư tò mò.
"Như Charlie Bone và Ông cậu của nó,” bà bếp trưởng nói.
“À,” giáo sư Saltweather chống cằm. “Hôm nay Charlie không có mặt trong giờ tập họp, cả thằng nhỏ Billy Raven cũng không,”
“Rồi tôi sẽ nói chuyện về nó sau,” bà bếp trưởng nói.
“Nhưng việc này,” bà vỗ vỗ tờ báo, “việc này cực kỳ nghiêm trọng. Tôi cần phải gọi điện ngay lập tức.”
“Nhưng, bà bếp trưởng, làm sao được thế nhỉ?” Giáo sư Saltweather nói, giờ giọng ông hoang mang hơn bao giờ hết. “Hai người trong một. Làm sao việc này xảy ra được?”
“Xin giáo sư tin tôi, nó có thể làm được việc đó,” bà bếp trưởng nói, quầy quả trở lại hướng lúc nãy bà đang đi.
“NÓ?” Giáo sư Saltweather nói với theo.
“Phải, NÓ,” bà bếp trưởng đáp, tất tả đi lẹ hơn. “Tôi sẽ giải thích vào lúc khác. Nhưng ngay bây giờ tôi phải đi gọi điện thoại đã. Cảm ơn, giáo sư, cảm ơn. Chúng ta có lý do để mà biết ơn, vô cùng biết ơn mẩu thông tin này.”
Giọng nói trượt đi khi bà biến mất ở khúc quanh.
Giáo sư Saltweather sực nhớ ra đáng lẽ ra ông phải tham dự cuộc họp trong phòng Kèn Sáo với thầy Paltry và ông Tantalus Ebony. Vị trưởng khoa Nhạc đã trễ họp, nhưng khi ông tới phòng Kèn Sáo, ông Tantalus Ebony không có ở đó.
“Ông ấy không có mặt ở trường,” thầy Paltry già vừa nói vừa xỉa răng bằng một que diêm. “Giáo sư không nhận thấy à? Ông ấy không có trong hội trường.”
“Không. Không, tôi không nhận thấy,” giáo sư Saltweather cùng lúc cảm thấy vừa ngớ ngẩn, vừa lo âu vừa bối rối lẫn lộn.
“Tôi mong ông đừng hút thuốc nữa,” ông nói với nghệ sĩ thổi sáo già. “Làm thế thành ra nêu gương xấu.”
“Tôi không hút thuốc,” thầy Paltry nhét que diêm vào túi quần.
“Tôi ngửi thấy mà, Reginals,” giáo sư Saltweather nói. “Chả trách dạo này ông hay bị thiếu hơi.”
Rồi ông buông một tiếng thở dài giận dữ:
“Chúng ta cứ họp mà không có ông Ebony thì hơn.”
Bà bếp trưởng thở không ra hơi hối hả chạy vào nhà bếp và nhấc ống điện thoại gắn ở trên tường, bên cạnh cánh cửa tự động lên. Trên cái nền là tiếng chuyện trò tíu tít của những nhân viên nhà bếp, bà bếp trưởng không sợ bị nghe lén. Bà lẹ làng quay số và lắng nghe tiếng chuông của nhà số Chín, đường Filbert, reng.
“A lô?” Một giọn cáu kỉnh vang lên.
Bà bếp trưởng gằn giọng và giả giọng một ông già:
“Tôi muốn nói chuyện với ông Paton Yewbeam.”
“Nó không có ở nhà,” giọng nội Bone nói.
“Vậy thì vui lòng cho gặp bà Jones,” bà bếp trưởng nói. “Bà ấy cũng được.”
"Về chuyện gì?” Nội Bone hỏi sẵng.
“È… Về việc giật ủi…”
“Không phải cái áo khoác đẹp nhất của tôi đấy chứ? Cái màu đen cổ nhung ấy?” Câu này được quát thiệt to, khiến bà bếp trưởng phải dang ông nghe ra xa tai.
“Không, không phải. Cái này màu đỏ và…”
“Maisie, điện thoại! Quần áo của bà gặp lôi thôi rồi.”
Ống nghe bị thả xuống bàn và bà bếp trưởng nghe tiếng bước chân lùi xa dần trên sàn gạch. Một thoáng sau, giọng lo âu của bà Maisie cất lên:
“A lô? Chuyện gì thế?”
“Maisie, tôi đây mà, bà bếp trưởng đây. Nhưng đừng nói ra,” bà bếp trưởng nói bằng giọng bình thường của mình. “Tôi muốn nói chuyện với ông Yewbeam nhưng rõ ràng ông ấy đi vắng.”
“Không chỉ đi vắng,” bà Maisie hạ thấp giọng. “Mà là đi luôn. Amy và tôi đangr ất lo lắng. Ông ấy nghe tin về Charlie và rồi ông ấy và… và, bà biết đấy, ông Crowquill ấy, hai người đi rồi, vào sáng sớm nay.”
“Ố trời đất.” Bà bếp trưởng không biết phải làm gì với chuyện này. “Bà có biết ông ấy đi đâu không?”
Bà Maisie ghé sát miệng vào ống nghe và thì thào:
“Lâu đài Gương.”
“Thế thì khốn rồi. Tôi sợ là có người khác nữa cũng đang trên đường tới đó. Bà có cách nào để liên lạc được với ông Yewbeam không?”
“Không,” bà Maisie nói. “Ông ấy để điện thoại di động ở nhà.”
Một giọng bên cạnh bà Maisie nói:
“Tại sao bà phải thầm thì với người giặt ủi.”
“Không phải. Tôi bị mất giọng. Tiêu tan cái áo đỏ đó rồi.”
Giọng bà Maisie nhỏ đến nỗi bà bà bếp trưởng không nghe được, nhưng rồi bà lại nghe thấy tiếp:
“Cảm ơn rất nhiều vì đã báo tin cho tôi,” bà Maisie nói với bà bếp trưởng. “Tôi sẽ tới lấy ngay. Tạm biệt.”
Bà bếp trưởng gác ống nghe vào chỗ cũ.
“Chẳng làm được gì,” bà lẩm bẩm.
“Tôi đã bảo là nhiều quá mà,” một trong những phụ tá nhà bếp bổ nhào tới bà bếp trưởng với một khay bánh nhân táo cháy thui. “Chúng ta sẽ phải nướng thêm một ít.”
“Thì bà nướng đi,” bà bếp trưởng gắt. “Không phải tôi làm cháy.”
Nỗi lo lắng thấp thỏm của Fidelio Gunn trở nên tăng theo từng phút. Gabriel nói đã thầm với nó cái gì đó trong giờ tập trung nhưng nó không thể nghe ra là cái gì. Tất cả những gì nó bập bõm nghe được là “Charlie… một lâu đài… và Billy Raven.” Fidelio không thể tưởng tượng ra chuyện gì đã xảy đến với Charlie. Thường thì đâu có chuyện thằng bạn nó vội đi đâu mà lại không báo cho nó biết.
“Fidelio, em không tập trung,” cô Crystal nói, cô đang đệm đàn piano cho nó.
Fidelio hạ cây vĩ cầm xuống và nghiên cứu bản nhạc dựng trên giá nhạc trước mặt.
“Xin lỗi, cô Crystal. Em quên phần nhạc của em rồi.”
“Sao vậy?” Cô Crystal xoay chiếc ghế lại. “Em đã chơi đoạn này rất hoàn hảo hồi tuần trước kia mà.”
Cô Crystal là một giáo viên rất trẻ. Mái tóc vàng và những nét thanh tú trên gương mặt như mời gọi bọn trẻ đến tâm sự với cô. Cô giữ kín những bí mật của chúng và chưa bao giờ bị nghe nói là phản bội bất cứ đứa học trò nào.
“Em lo cho đứa bạn thân em,” Fidelio buột miệng nói.
“Charlie Bone?”
“Dạ phải. Bạn ấy không đi học và em không biết chuyện gì đã xảy ra với bạn ấy.”
“Giáo sư Saltweather chắc là đã nghe được tin gì đó. Cô sẽ nói cho em những gì cô biết được trong giờ nghỉ ăn trưa, được chứ?” Cô Crystal mỉm cười khích lệ.
“Cảm ơn, cô Crystal,” Fidelio đặt cây vĩ cầm xuống dưới cằm và chuẩn bị chơi tiếp.
Bài học không được thành công cho lắm, và ngay khi chuông reng, Fidelio ùa ra liền, có hơi hung hăng, phóng vù tới phòng để áo khoác để cất cái áo chùng. Nó vừa ló ra ngoài thì gặp ngay Dorcas Loom vừa bước tới sát cánh cửa dẫn lên tháp nhạc. Con nhỏ cắp một chiếc áo chùng vo nùi dưới nách.
Fidelio nghi ngờ:
“Áo của ai đó, Dorcas?” Nó hỏi.
Đứa con gái hơi giật mình.
“Ơ, của thầy Pilgrim,” nó nói, đã lấy lại bình tĩnh. “Tìm thấy trong thư viện, nên tôi đem nó lên phòng nhạc.”
“Nhưng thầy Pilgrim đi rồi mà.”
Dorcas nhún vai:
"Thì sao?”
“Thì…” Fidelio ngần ngừ.
Vẻ thâm độc của Dorcas khiến nó ngại ngùng. Con nhỏ này nổi tiếng với trò ếm bùa quần áo. Liệu nó đã yểm bùa chiếc áo chùng xanh da trời đó chưa?
“Không có gì,” Fidelio bước luôn ra ngoài vườn.
Chẳng thấy Gabriel đâu cả, nhưng Fidelio bắt gặp Tancred đang nói chuyện với thằng học trò mới, Joshua Tilpin. Fidelio rượt theo kịp chúng.
“Tancred, em có chuyện muốn nói; nói riêng được không?” Nó liếc Joshua.
Tancred vỗ nhẹ vai Joshua nói: “Chạy đi, Josh. Cảm ơn em đã tìm giùm anh cuốn sách.”
Joshua Tilpin cười rạng rỡ với Tancred.
“Luôn sẵn sàng, anh Tancred. Hẹn gặp lại anh,” thằng bé tí xíu đi thong dong trên một đôi cẳng trông như thể không đỡ nổi đến một con chim chứ đừng nói là một thằng bé.
“Nó quái thiệt,” Fidelio nhận xét một cách vô tư.
“Không đâu,” Tancred nói. “Nó tốt bụng lắm. Rất hay giúp đỡ.”
Fidelio đổi đề tài:
"Em thắc mắc không biết anh có biết chuyện gì xảy ra với Charlie không.”
“Thiệt ra thì anh biết. Tụi mình đi dạo đi.”
Fidelio theo chân Tancred tới những bức tường của Lâu đài hoang, ở đó nó gặp Emma và Olivia, đang ngồi chóc ngóc trên đống gỗ. Olivia đường như là nguồn cung cấp vỏ táo vô tận, bởi vì nó, một lần nữa, lại đang gọt táo bằng con dao bạc nhỏ mà nó tha đi khắp nơi. Emma đang nhìn cô bạn của mình với cái nhíu mày gần đây đã trở thành thường trực.
“Hai đứa nó biết chuyện rồi,” Tancred nói, phóng lên một trong những súc gỗ thấp hơn.
“Dạo này em luôn luôn là đứa cuối cùng biết mọi chuyện,” Fidelio ngồi lên một cây gỗ ở chính giựa đống gỗ.
“Đó là vì đằng ấy không có phép thuật,” Olivia nói. “Tớ cũng không nốt. Và tớ cũng chả muốn có.”
Fidelio thây kệ con bé.
"Tancred, làm ơn cho em biết đi, Charlie đi đâu vậy?” Nó nói.
Tancred hít một hơi:
“Mọi chuyện bắt đầu vào sáng Chủ nhật, lúc Billy Raven tẩu thoát khỏi cha mẹ mói…” Nó kể tiếp cho Fidelio tất cả mọi việc.
“Phùù!” Fidelio liếc nhìn những bức tường đỏ lói sừng sững. “Thì ra đó là tiếng náo động hồi hôm. Làm em thức giấc. Chó sủa inh ỏi, còi xe hơi, còi xe cảnh sát, rồi sấm nữa – đó là anh, em nghĩ vậy.” nó nói với Tancred.
“Còn ai nữa!” Tancred giơ tay lên cười xởi lởi “Nhưng Sander đã cứu nguy hôm ấy. Nếu không có nó thì anh nghĩ anh đã không còn ngồi đây.”
Cả bọn đều thấy Lysander đang tranh cãi với Asa Pike ở đầu đằng kia sân chơi, và Tancred nói:
“Hôm nay Asa quần thảo Sander phải biết. Trước tiên nó hoạnh họe là cà vật của Sander không thẳng, rồi nó lại bảo là Sander quá ồn ào, trong khi bạn mình có ồn gì đâu, và giờ thì nhìn nó kìa.”
“Em cảm giác hôm nay sẽ xấu,” Emma lẳng lặng nói.
Fidelio biết ý Emma muốn nói về cái gì. Có lẽ có liên quan gì đó tới sự vắng mặt của Charlie.
“Tất cả những việc này có dính tới một Lâu đài Gương, phải không?” Nó hỏi.
“Dì của em đã đọc một quyển sách về lâu đài này,” Emma nói. “Cách đây hàng mấy trăm năm, một người con của Vua Đỏ đã đốt cháy tòa lâu đài ấy, trong khi gia đình người em của ông ta vẫn còn ở trong đó. Nhưng một người trong số họ thoát ra được, và đó là tổ tiên của Billy. Những bức tường của tòa lâu đài biến thành thủy tinh. Tưởng tượng coi!”
“Và Charlie nghĩ nó sẽ tìm thấy ba nó ở đó,” Tancred thêm vào.
Olivia bất ngờ vụt đứng lên và liệng trái táo của nó vào bụi rậm.
“Tớ ước gì có Charlie ở đây,” nó nói, rồi sải bước đi khỏi đám bạn.
Fidelio cũng cảm thấy như thế.
Tối hôm đó, bầu không khí trong phòng Nhà Vua ớn lạnh không thể tả. Đó là thứ lạnh thấu tới xương và Emma không tài nào ngừng run được. Nó run đến nỗi cây viết cứ tuột khỏi tay. Lần thứ ba nó làm rớt viết, cây viết lăn tròn qua bàn, và Emma tin chắc là Inez hoặc Idith đã đẩy cây viết. Hai chị em sinh đôi cứ dòm trừng trừng Emma bằng đôi mắt búp bê sứ xanh da trời, và Emma thấy mình gần như không thể tập trung được.
Joshua Tilpin ngồi vào cái ghế trống của Charlie kế bên Emma, và nó bò toài người lên bàn, lượm cây viết, trao trở lại cho Emma. Thằng bé nhoẻn một nụ cười nhẹ với Emma, nụ cười đó cứ nhằng nhẵng bám theo con bé, cho đến khi ép được con bé phải nhếch miệng ra cười lại. Nhưng Joshua muốn nhiều hơn là một nụ cười. Emma đột nhiên cảm thấy muốn bay. Nó tưởng tượng ra một con diều hâu thiệt lớn, nhào xuống lũ bạn nó, tấn công đầu chúng, tay chúng… Nhưng tại sao lại có chuyện kinh khủng như vậy? Nó dứt mắt khỏi Joshua. Thằng đó làm cho nó ớn sườn.
Ngồi đối diện Emma, Gabriel thì thào:
“Em không sao chứ, Emma?”
Emma gật đầu.
“Im!” Manfred gừ. “Không thì thầm.”
Inez và Idith quay ánh mắt lạnh băng của chúng về phía Gabriel, đôi mắt vàng của Asa trơ ra và Dorcas Loom cười một nụ cười bí hiểm.
Emma liếc dọc qua hàng ghế cạnh nó. Gabriel, Tancred và Lysander cùi gằm xuống sách của chúng. Cái nhíu mày ảm đạm của mấy đứa này thậm chí còn khiến nó cảm thấy bất an hơn.
Khi giờ làm bài tập về nhà chấm dứt, những đứa trẻ được ban phép thuật bắt đầu tràn ra khỏi phòng Nhà Vua với Manfred dẫn đầu. Emma chờ Gabriel, cậu này đang phải mất nhiều thời gian hơn thường lệ để thu dọn sách vở. Tancred và Lysander cũng gặp phải chuyện tương tự. Sách cứ rớt xuống, các thứ khác không chịu đóng lại. Viết lăn đi và tập vuột khỏi tay.
“Có gì đó không xong rồi,” Emma nói.
“Đúng vậy,” Lysander rên rỉ.
“Tụi mình ít người hơn,” Gabriel nói. “Bốn chống năm, sáu, nếu kể cả Manfred.”
Ba thằng bé mãi rồi cũng thu dọn được tất cả các thứ, và Emma đi cùng với chúng về khu phòng ngủ chung. Khi đang băng qua chiếu nghỉ, Gabriel quay khỏi đám bạn và bắt đầu chạy xuống tiền sảnh.
“Bồ đi đâu vậy, Gabe?” Lysander gọi. “Bà giám thị bắt bồ bây giờ!”
"Mình được phép tập đàn nửa giờ trong Tháp Nhạc,” Gabriel nói. “Thấy Ebony cho mình một đặc ân đặc biệt vào ngày thứ Sáu.” Nó lôi một tờ giấy ra khỏi túi. “Và bà giám thị phải biến thôi.”
Câu này mang lại một nụ cười cho gương mặt lũ bạn nó, nhưng cả ba đứa vẫn cảm thấy bồn chồn không sao giải thích được khi nhìn theo Gabriel băng qua tiền sảnh tới cánh cửa dẫn vào Tháp Nhạc.
Chính Gabriel cũng có linh tính về một điềm chẳng lành, nhưng vì quá mê tập đàn bên chiếc dương cầm lớn, và chính xác là do đã cảm thấy quá bức bối, nên nó gần như không sao chờ nổi việc được đắm chìm vào âm nhạc.
Phải làm một cuộc leo thang thật dài mới lên tới được đỉnh tháp. Và khi Gabriel vào tới phòng nhạc, nó phải ngồi trên ghế đàn một lúc để lấy lại hơi. Trong lúc mở nắp đàn piano ra, nó nhận thấy có một chiếc áo chùng xanh da trời vắt trên chiếc ghế bên cạnh cửa sổ. Chắc chắn đó là áo chùng của thầy Pilgrim. Gabriel luôn luôn gắn bó với thầy Pilgrim. Ông thầy dị kỳ này là một người chơi dương cầm tài năng, và mặc dầu thầy rất kiệm lời nhận xét, Gabriel luôn cảm nhận được sự ủng hộ ấm áp của thầy.
Bây giờ ông thầy dạy dương cầm ấy ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra với thầy? Gabriel rất hiếm khi sử dụng tài phép của nó. Tài phép đó có thể ảnh hưởng tệ hại tới nó nếu nó mặc trúng quần áo của ai đó đã phải chịu khổ sở hay đau đớn. Nhưng lần này, tính tò mò của Gabriel đã chiến thắng, và nó cảm thấy thôi thúc muốn mặc chiếc áo chùng kia.
Ngay khi nó kéo cái mũ cho trùm qua đầu, thực tế trước mắt bỗng như bị trượt đi, và Gabriel bị giam hãm trong một bóng tối quá đen đặc và quá hãi hùng, đến nỗi nó không sao thoát ra được. Nó cố rứt xé cái mũ trùm, nhưng cánh tay nó bất lực, và nó buộc phải chịu đựng nỗi kinh hãi, cho đến khi nó ngã vật xuống, bất tỉnh, trên sàn nhà.