Dịch giả: HƯƠNG LAN
Chương 10
CON CHUỘT XƯA THẬT LÀ XƯA

Cuối cùng, khi tiếng chít dứt hẳn, Billy hỏi.
“Tụi mình để nó đi hay giữ nó lại?”
Charlie tiến một bước về phía con chuột, và điều đó đã quyết định vấn đề: sinh vật nhỏ liền phóng xuống dưới bồn tắm. Khi Charlie hụp xuống, cố bò theo nó, thì con chuột đã chui tọt vô một cái lỗ dưới sàn.
“Thế đấy,” Charlie đứng lên và phủi bụi khắp người.
“Còn vụ ông phù thủy đó, tụi mình sẽ làm sao đây?” Billy hỏi.
“Chẳng làm được gì. Chỉ chờ thôi.”
Charlie hầu như phải thức trọn đêm đó. Billy cứ khụt khịt và nói líu nhíu trong giấc ngủ, trong khi con chuột cứ kêu chít chít rất lạ, như bị kích động. Thỉnh thoảng, Charlie cáu tiết la:
“Im đi, cả hai đứa bây!”
Và những vị khách của nó ngủ tiếp.
Sớm tinh mơ hôm sau, Charlie rón rén xuống lầu để ăn một tô cốm bắp ngâm sữa. Căn nhà và đường phố im lặng tới rợn người. Rembrandt “nói” đúng, có một mùi rất lạ quanh đây. Phải chăng mùi ma thuật hắc ám thì như vậy? Charlie thắc mắc hay là con chuột nâu kia đã mang vận xui cũng như yêu thuật xấu tới căn nhà này.
Khi ăn xong tô cốm bắp, Charlie mang một tách trà và một chiếc bánh quy lên phòng Ông cậu. Ông cậu Paton đang ngồi dựa vô một đống gối và đệm cao nghệu. Trông ông vẫn trắng bợt bạt như người chết, nhưng hình như đã có một chút sức sống le lói xuất hiện trở lại trên mái tóc xám của ông.
“Chào, nhóc,” giọng Ông cậu Paton yếu ớt.
“Trông Ông cậu khá hơn rồi,” Charlie nói. “Hôm qua tóc Ông cậu… xám xịt tất cả.”
“Tro đấy,” Ông cậu Paton nói ồm ồm.
Ông sờ lên cổ họng:
“Không nói được nhiều.”
Charlie nhận thấy bóng đèn vẫn sáng. Thỉnh thoảng cái bóng chớp nháy, nhưng không có tiếng nổ nào như Ông cậu Paton vẫn thường gây ra.
“Có khi Ông cậu mất… mất phép của ông lại tốt,” Charlie ngần ngừ. “Ừm, ý con là bởi vì bây giờ bóng đèn không nổ quanh Ông cậu nữa.”
“Nó xóa sạch tâm trí ta,” Ông cậu Paton thều thào. “Không phải chỉ trong một thoáng thôi. Ta nhận ra rằng bị mất phép thuật chẳng bao giờ là điều tốt cả. Một ít con người của ta cũng mất đi cùng với nó.”
“Con cũng nghĩ vậy,” Charlie nghiêm trang. “Ông cậu Paton, việc gì đã xảy ra với Ông cậu vậy?”
Ông cậu Paton nhắm mắt lại.
“Không thể nói được bây giờ, Charlie. Nếu mày gặp cô Ingledew, bảo cô ấy… cô ấy…”
“Dạ,” Charlie sốt sắng. “Bảo cô ấy cái gì?”
“Bảo cô ấy là ta ước gì…” Ông cậu Paton lắc đầu. “Không, ta e là quá trễ rồi.”
“Quá trễ!”
Charlie hốt hoảng. Điệu bộ của Ông cậu Paton khiến nó sợ hãi.
“Ý Ông cậu quá trễ là sao?”
“Không sao. Giờ ta muốn ở một mình, Charlie.”
Bất cứ việc gì đã xảy ra với Ông cậu, Charlie cũng sợ là có thể sẽ ảnh hưởng vĩnh viễn, hoặc làm chết người. Charlie lẳng lặng đóng cửa lại và trở về phòng nó. Billy đang ngồi trên mép giường của Charlie, với Rembrandt ở trên đùi.
“Em tưởng tất cả chỉ là một cơn ác mộng chứ,” thằng bé nói, dụi mắt. “Nhưng đúng là có xảy ra thật phải không? Con chuột và thầy phù thủy ấy?”
“Anh sợ vậy,” Charlie rầu rầu.
“Anh nghĩ Skarpo sẽ làm gì nếu ông ta ở đây… hay ở nơi nào đó?”
“Mình chỉ còn cách đợi xem sao. Billy, em sẽ không nói với bất cứ ai về chuyện này chứ?”
Billy lắc đầu.
“Em sẽ không nói về Skarpo, nhưng em nghĩ họ đã biết chuyện anh đi vô bức tranh rồi. Có lần em đã nghe họ, lão Ezekiel và bà giám thị, nói chuyện về bức tranh đó. Họ nói, ‘Ông nghĩ Charlie sẽ vô chứ?’ Lúc đó em không hiểu họ nói về cái gì.”
Charlie nhảy lên giường ngồi cạnh thằng bé bạch tạng.
“Anh biết em bị ép buộc phải làm do thám,” Charlie nói. “Nhưng đã tới lúc em phải chọn phe rõ ràng. Billy, anh muốn biết bây giờ anh đã tin em được chưa?”
Billy ngẩng đầu lên.
“Lão Ezekiel nói lão đã kiếm ra những người rất tử tế muốn làm cha mẹ nuôi của em, nhưng đó là nói dối. Em sẽ không bao giờ tin lão ấy nữa.”
“Gia đình Bloor nói dối đủ mọi thứ,” Charlie nói. “Nhưng khi mọi chuyện kết thúc, anh chắc chắn sẽ có người muốn làm cha mẹ nuôi cho em.”
“Bà bếp trưởng bảo bà sẽ kiếm, nhưng khi nào thì mọi chuyện sẽ kết thúc đây?”
Charlie không chắc. Có lẽ nó muốn nói đó là khi Ollie Sparks được cứu thaot1, và Belle (hay mụ Yolanda) biến mất; khi Ông cậu Paton trở lại là chính mình, và Lyell, ba của Charlie, được kiếm thấy. Cũng có thể, nó muốn nói tới cuộc đấu tranh giữa những kẻ quyết hủy hoại cuộc sống một khi không có được điều chúng muốn, với những người không nhịn được, phải ra tay ngăn chặn chúng.
“Những người con của Vua Đỏ,” Charlie lẩm bẩm. “Đó là cuộc chiến tranh giữa tất cả chúng mình. Ý anh là khi cuộc chiến đó kết thúc.”
Billy có vẻ nghi ngờ.
“Có lẽ sẽ chẳng bao giờ kết thúc đâu. Hoặc là lâu, rất lâu. Em nghĩ mình có thể đợi lâu được, chừng một năm. Em không muốn lớn lên trước khi em có ba mẹ. Ước gì em nhớ được ba mẹ ruột của mình. Phải chi em biết họ chết như thế nào. Không ai giải thích điều đó với em.”
Charlie nghĩ về ba nó. Tất cả mọi người đều đinh ninh là ông đã chết. Nhưng Charlie biết đó là nói dối. Ít ra Billy còn có một tấm hình cha mẹ nó, Charlie thậm chí còn không có tấm nào.
“Có lần em đã cho anh coi hình của ba mẹ em,” Charlie nói. “Trông họ dễ mến lắm.”
“Phải,” Billy sầu não.
“Thôi, thay đồ đi,” Charlie bảo, với giọng tươi sáng hơn.
Chúng gặp cô Bone trong nhà bếp, đang nấu hai phần điểm tâm đầy ụ.
“Tiếc là mẹ phải đi để các con ở nhà một mình,” cô nói. “Nhưng có rất nhiều đồ ăn trong tủ lạnh, mẹ sẽ trở về trước giờ ăn trưa. Ơn trời, Ông cậu Paton khá hơn rồi.”
Charlie không chắc như vậy về Ông cậu Paton.
“Không hoàn toàn là tụi con ở nhà một mình đâu.”
Charlie nói khi một cánh cửa trên lầu sập cái rầm. Nội Bone đang đi tới đi lui.
Mẹ Charlie liếc nhìn lên trần nhà và nói:
“Con hiểu ý mẹ đấy. Ăn sáng ngon miệng nha. Tạm biệt.”
Và rồi cô đi khỏi.
Lúc nội Bone xồng xộc lao vô nhà bếp thì Charlie và Billy vừa an9 sáng xong. Billy đã lén giấu được một ít bánh mì nướng và thịt xông khói vô túi quần.
“Bỏ đói mày một chút thì mày cũng đâu có tổn hại gì đâu,” bà nói, trừng mắt nhìn Charlie, “thấy món gì trước mắt là chén sạch món đấy mà.”
Suýt nữa thì Charlie bảo với bà là Hạt Đậu đã ăn món patê chứ không phải nó, nhưng nó nghĩ tốt hơn là thôi. Nó muốn có một kỳ cuối tuần yên bình.
“Xin lỗi,” nó lầm bầm. “Con lỡ mà. Tụi con ra công viên đây, nội.”
Charlie mang dĩa ra bồn rửa chén để, nhưng khi quay lại thì thấy bà nội đang ban cho nó một nự cười hiếm hoi.
“Không được,” bà nói. “Có người quan trọng sắp tới thăm chúng ta.”
“Ai vậy?” Charlie hỏi.
“Ai thì để mình tao biết,” bà nạt. “Rửa ráy sạch sẽ đi và cư xử cho tử tế, nửa giờ nữa họ sẽ tới.”
Billy sợ sệt, len lén đem dĩa của nó ra bồn rửa.
“Rửa đi, nhóc,” nội Bone quát.
Charlie chờ trong khi Billy ngoan ngoãn rửa dĩa của nó và xếp vô giá.
Trở lại phòng ngủ, Billy cho con chuột đói ăn, và bắt đầu ầm ừ với nó. Rembrandt kêu chít chít tiếp chuyện.
“Nó nói con chuột kia nên quay về nhà,” Billy bảo Charlie. “Ở đây không tốt cho nó.”
“Cũng không tốt cho cả tụi mình,” Charlie nói. “Nhưng cho là có kiếm được con chuột đó, thì anh cũng không biết phải đưa nó trở về bức tranh như thế nào. Chỉ có cách là anh phải tự đưa nó về, mà anh không muốn vô đó nữa. Anh không tin Skarpo. Có thể ông ấy sẽ làm cho anh không bao giờ ra được nữa.”
“Nếu ông ta vẫn còn ở đó,” Billy bảo.
“Còn mà,” Charlie tuyệt vọng nói. “Ý anh là, nếu ông ấy đã thoát ra thì bây giờ tụi mình phải biết rồi chứ. Ông ấy rất nguy hiểm. Toàn nhắm tới chuyện phá hoại thôi. Có lần ông ấy bảo với anh là ông ấy thích ám sát, gây thương tật, hạ độc, đốt cháy, làm teo rút, và làm người ta phát điên lên.”
Miệng Billy há hoác ra, bật nhẹ lên một tiếng “ôôôôô” khiếp đảm.
Hai thằng bé thấp thỏm chờ đợi vị khách quan trọng của chúng tới. Thỉnh thoảng, chúng nhóng xuống đường, nhưng chẳng có ai cao to hay kỳ quái bước lên bậc cấp cả. Cũng chẳng có chiếc xe hơi sang trọng hay lòe loẹt nào dừng lại.
Và rồi, Billy thình lình run bần bật và kêu lên:
“Kìa. Là lão ta.”
Charlie nhìn thấy một chiếc xe hơi đen trùi trũi, với những cửa kình màu khói lao tới, dừng phắt lại trước nhà. Nó nhận ra chiếc xe này ngay lập tức: Chiếc xe đã từng tới đây vào lần trước, khi Billy tới nhà nó. Charlie chưa bao giờ thấy người khách trong xe, bởi kỳ trước, lúc nó hé mắt nhìn vô, một cây ba toong dài đã thò ra cánh cửa mở và vụt vô đầu gối nó… Đó là điều mà nó sẽ không bao giờ quên.
Một người đàn ông hung hãn, mặc comlê đen chui ra khỏi ghế tài xế, đi vòng sang của xe bên kia. Một chiếc mũ đen che giấu cái đầu rụng sạch tóc của người tài xế, nhưng Charlie biết cái mũi bự, gương mặt đỏ gay và đôi mắt hí xếch này. Đó là gã Weedon, người làm vườn, hay người lo việc lặt vặt.
Gã Weedon mở cửa xe rộng ra hết cỡ và rồi chui vô trong xe. Sau một hồi loay hoay xốc vác, gã đứng lên với một đống gớm guốc trên cánh tay. Phần lớn cái đống ấy bị một cái mền len che hết, nhưng Charlie vẫn còn trông thấy một khuôn mặt khô xác bên dưới chiếc mũ chỏm đen, cùng hai cái giò khẳng khiu trong đôi vớ trắng và dép lê nhưng đỏ xỏ ở bàn chân.
“Đúng cái người mà anh nghĩ không?” Charlie hỏi.
Billy gật đầu khổ sở.
“Lão Ezekiel đấy, Lão tới kiếm em.”
“Có thể không phải. Để chờ coi.”
Charlie nói vừa dứt lời thì một người thứ ba từ trong xe tòi ra, đóng tất cả các cửa lại rầm rầm, rồi đi theo sau gạ Weedon cùng cái đống của gã.
“Lẽ ra anh phải biết là bà ta cũng tới,” Charlie lẩm bẩm khi thấy bà cô Lucretia bước lên những bậc cấp.
“Charlie! Billy! Chúng bây ra đây,” nội Bone hét.
Billy vội đặt Rembrandt vô trong hộp và theo Charlie xuống lầu. Nội Bone đang chờ chúng bên ngoài cửa phòng khách.
“Vô đi bọn nhóc. Vô đi,” bà nói, mỉm cười, như thể chúng vừa đoạt được vé đi xem một trận đá banh vậy.
Charlie đi vô trước và thấy mình chạm mặt một ông lão giá nhất mà nó từng thấy. Lão ta ngồi trong chiếc ghế bành lớn nhất, vẫn bị bọc trong tấm mền len. Gương mặt lão khô đét tới nỗi trông như cái đầu lâu, và mái tóc trắng lưa thưa rủ xuống vai như mấy dãi sáp. Miệng lão biến hẳn vô cái lỗ mũi dày, đầy mụn cóc, nhưng đôi mắt đen thùi lùi của lão lại ánh lên những tia ác độc, đáng sợ.
“Charlie Bone… rốt cuộc rồi thì…”
Lão già chìa bàn tay gân guốc, đầy những nốt với bột ra.
Charlie nhìn, tự hỏi liệu bàn tay này có ăn thịt sống không. Nó quyết định tốt hơn nên bắt bàn tay đó, nhưng nó chưa kịp làm gì, thì những ngón tay của nó đã bị nghiền chặt bởi thứ gì đó giống như cái kềm ê-tô. Charlie vội rụt tay lại, thở hắt ra đau đớn. Gã Weedon, ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh lão già, toét miệng cười lên một tiếng hiểm ác.
“Bọn ta biết Billy rồi,” lão Ezekiel khọt khẹt. “Thật ra, bọn ta biết nhau rất rõ là đằng khác, phải không Billy?”
Lão nhặt cây ba toong dựa vô ghế của lão lên và vụt xuống sàn nhà, ngay sát bàn chân Billy.
Billy lặng thinh gật đầu.
“Ngồi xuống, bọn nhóc!” Giọng lão Ezekiel hệt như tiếng cưa gỉ.
Charlie và Billy mò tới chiếc ghế gần nhất và ngồi chung, cả hai chỉ ghé mông vô cạnh ghế. Nội Bone ngồi bên bà cô Lucretia trên trường kỷ, và bà này nói:
“Thế, thế mới ngoan nhỉ?”
Charlie nghĩ, còn lâu.
“Nào,” lão Ezekiel xoa hay tay vô nhau. “Để bắt đầu, ta rất vui mừng thấy hai đứa bọn bay kết thân với nhau. Tất cả chúng ta sẽ cùng làm việc với nhau chứ nhỉ? Càng nhiều người chúng ta càng tốt. Đúng không?”
Charlie cộc lốc:
“Còn tùy.”
Lão Ezekiel nhăn mày. Nội Bone và bà em cùng thét lên:
“Láo xược! Cư xử đàng hoàng coi!”
“Mày sẽ không giống như cha mày chứ?” Lão Ezekiel cao giọng và nhìn Charlie chằm chằm.
“Tao tin rằng mày đã nhận thấy là tao không thể đi được. Mày có biết là do ai không? Do thằng cha mày đấy, mẹ kiếp hắn. Hắn đã khiến tao thế này. Cho nên hắng đáng chết.”
Charlie nghiến răng lại, điên tiết tới mức nó sợ mình sẽ làm gì đó bạo động. Nhưng thay vô đó, nó chỉ lẩm bẩm:
“Ông ấy không chết.”
“Cái gì?” Lão già tru lên. “Nó nói cái gì?”
“Tôi nói là ba tôi không chết,” Charlie gào tướng lên.
Đôi mắt đen thùi của lão già lóe lên. Lão dòm Charlie trừng trừng vài giây rồi rít lên khô khốc.
“Chứng minh coi,” lão cười khành khạch.
Charlie chẳng nói gì.
“Hừ, không chứng minh được chứ gì?”
Lão già đột nhiên bị một tràng ho tùm chặt lấy. Nội Bone vội bật lên, bay đi lấy cho lão một tách trà. Trong lúc bà chạy đi, bà cô Lucretia mắng nhiếc Charlie.
“Mày ngu lắm, Charlie Bone. Tại sao mày không thấy điều phải quấy? Tại sao mày không làm điều đúng đắn?”
Charlie vẫn im re, còn Billy ngồi nhích sâu vô ghế hơn.
Nội Bone quay lại với ba tách trà và một dĩa bánh quy. Bà phân phát trà và bánh cho lão Ezekiel, cho bà cô Lucretia và cho gã Weedon, nhưng khi Charlie giơ tay về phía chiếc dĩa, bà cô Lucretia liền đập cho nó một cái thật mạnh.
“Úi!” Charlie rụt bàn tay nhức nhối của mình lại.
Lão Ezekiel lè nhè:
“À, chúng ta tuyệt đối không được đánh Charlie. Chúng ta muốn nó về phe chúng ta, đúng không nào?”
“Đôi lúc tôi tự hỏi liệu nó có xứng đáng để chúng ta phải mất công như thế không,” nội Bone khịt mũi.
Charlie không thể nhịn được, nó noi:
“Nếu các người muốn tôi về phe các người, thì các người nghĩ tức cười thiệt đó.”
Nội Bone nhướn cặp lông mày lên. Lão Ezekiel húp tách trà của lão, bà cô Lucretia khuấy tách trà của mình. Cuối cùng, lão già thủng thỉnh:
“Chúng ta không bao giờ có ý định làm hại mày, Charlie. Không làm hại mãi mãi. Chúng ta chỉ cần phải dạy mày một bài học, lúc này hay lúc khác. Mày cần phải được chỉ đường chỉ lối.”
“Đường lối gì?” Charlie hỏi.
Lão Ezekiel lắc đầu.
“Ta muốn tất cả chúng ta cùng về một phe, Charlie. Nghĩ coi, chúng ta hùng mạnh như thế nào. Tất cả bọn trẻ có phép thuật tụi bây – những người con của Vua Đỏ. Nghĩ coi mày có thể làm gì. Billy nó hiểu đó, ok Billy?”
Thằng bé ngọ ngoạy trên ghế.
“Billy là một thằng bé ngoan,” nội Bone phụ họa. “Billy làm những gì nó được bảo. Nó không phá luật.”
“Luật với lệ,” Charlie nói. “Ba tôi đã phá luật và các người làm điều tồi tệ với ông ấy. Ông cậu Paton đi tới chỗ mà các người không muốn ông tới, và giờ thì ông bị… hủy hoại. Như vậy là không công bằng!”
Gã Weedon bỗng chồm thân mình ra trước.
“Tất cả đều công bằng trong tình yêu và trong chiến tranh,” gã tuyên bố bằng giọng trịch thượng.
Ba người lớn kia nhìn gã ngạc nhiên, Charlie bỗng có cảm giác khó chịu rằng, trong tất cả những người lớn ở trong phòng này, Weedon là kẻ mà nó cần phải sợ nhất.
Lão Ezekiel buông một hơi thở dài, giận sôi sùng sục.
“Ta mệt mỏi với điều đó lắm rồi, ta không thích tranh cãi với bọn con nít ranh. Cư xử cho đàng hoàng coi, Charlie Bone. Mày biết tao có thể làm gì với kẻ chống đối mà.”
Charlie đang vắt óc nghĩ ra một lời đáp thông minh, thì một con chuột thình lình xuất hiện trên bệ lò sưởi. Tất cả mọi người nhìn con chuột quýnh quáng chạy quanh giá đỡ đèn cầy và những đồ trang trí bằng gốm sứ. Và rồi, nó đứng nhổng lên trên hai chân sau, kế cái đồng hồ treo tường và bắt đầu kêu chít chít.
Nội Bone và bà cô Lucretia vừa hét toáng lên, thì lão Ezekiel gào:
“Nó nói cái gì đó, Billy? Nói cho chúng tao biết.”
“Nó nói nó bị lạc đường.”
Billy dịch, mặc dù thật ra con chuột nói rằng. “Tôi lú cả vì lo lắng. Tôi đang ở đâu thế này? Tôi không hiểu tại sao tôi lại ở đây?”
Billy định nói gì đó để trấn ăn con vật bé nhỏ, thì gã Weedon chợt vuột nón ra và phang bụp xuống con chuột.
“Bắt được đồ chui nhủi rồi,” gã nói.
Billy và Charlie kinh hoàng nhìn người đàn ông to lớn giở nón lên, và thò tay chụp lấy đầu con chuột, nhưng thình lình, gã rống lên rồi thảy cả nón lẫn chuột.
“Nó cắn tôi!” Gã rền rĩ.
Charlie thì thào với Billy.
“Thế nào cũng bị dịch hạch!”
Con chuột nhảy ra khỏi cái nón và chạy xuống gầm ghế trường kỷ.
“Đưa ta ra khỏi đây,” lão Ezekiel rống inh tai. “Weedon, dẹp con chuột quái quỷ đó đi. Billy, lấy túi xách rồi về cùng với ta!”
“Nhưng cháu đang nghỉ cuối tuần với Charlie,” Billy thất kinh. “Cháu không muốn về lại Học viện Bloor.”
“Cấm cãi lại,” lão Ezekiel thét. “Thằng đó gây ảnh hưởng rất xấu. Đi lấy giỏ xách mau.”
Billy vặn vẹo ra khỏi ghế và rời khỏi phòng, vẻ mặt đau khổ.
“Vậy là bất công!” Charlie phản đối. “Cuối tuần nào Billy cũng phải ở một mình rồi mà.”
“Bất công! Bất công!” Nội Bone nhại lại. “Không có gì công bằng với mày sao?”
“Không.”
Charlie kinh tởm tất cả những người này tới nỗi nó đùng đùng ra khỏi phòng, và gầm gừ trong họng:
“Và không công bằng khi nhốt giữ một thằng bé vô hình.”
“Mày nói gì thế, cái thằng hỗn láo kia?” Bà nội nó hét lên.
Billy đi xuống lầu, xách theo cái túi và Rembrandt ở trong hộp. Charlie đang định khuyên nó giấu cái hộp đi, thì gã Weedon xông ra khỏi phòng khách, ẵm theo lão già.
“Cái gì trong đó đó?” Lão Ezekiel the thé, gõ gõ cái hộp bằng cây ba toong.
“Ừ… Một… Một con chuột!” Billy hoảng vía, quá sợ tới nỗi không dám nói xạo.
“Hả? Vứt nó đi.”
“Nhưng nó là một người bạn,” Billy nói yếu ớt.
“Nó không được vô nhà tao,” lão Ezekiel tuyên bố.
“Nhưng nó là con chuột của thầy Boldova,” Billy nói, càng làm tình thế tồi tệ hơn cho chính mình. “Bây giờ vì thầy đi rồi, không còn ai chăm sóc nó.”
Nội Bone và bà cô Lucretia cũng vừa ra tới hành lang, cả hai cùng la bai bải:
“Trong nhà?”
“Con chuột?”
“Giết nó đi!”
Nước mắt Billy bắt đầu tuôn trào.
“Các n gi không… không thể…” Nó khóc nấc lên.
“Để anh chăm sóc nó cho,” Charlie thét lên, chụp lấy cái hộp. “Đừng lo Billy.”
“Mày đừng hòng!” Nội Bone gầm vang. “Tao sẽ không cho phép nó ở trong nhà. Weedon, đập bẹp đầu nó đi!”
Nhưng hai tay gã Weedon đang đầy một đống Ezekiel, và trước khi bất cứ ai kịp động đậy gì, Charlie đã mở cửa trước.
‘Tạm biệt, Billy,” nó thét lớn khi lao xuống những bậc cấp. “Anh mang Rembrandt tới một nơi mà nó sẽ an toàn.”
“Quay lại!” Nội Bone réo gọi.
“Thằng bé đó mất dạy quá,” bà cô Lucretia la oang oác.
“Không lâu đâu,” lão Ezekiel nói.
Charlie không nghe thấy câu này của lão. Nó chạy hết đường Filbert, ào vô nội ô thành phố, và chỉ dừng lại một lần để nhìn vô cái hộp. Rembrandt trố mắt nhìn ra, hãi hùng, mũi nó giần giật liên hồi, ít nhất một trăm lần một giây.
“Xin lỗi, Rembrandt,” Charlie thở hồng hộc. “Tao ghét phải làm như vậy với mày, nhưng ở lại thì mày còn lâu mới có cơ may sống sót.”
Nó chạy qua hẻm Con Ếch và phóng thục mạng vô đường hẻm dẫn tới quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Chào cậu. Trông cậu hụt hơi rồi,” Norton, người bảo kê, nói khi Charlie ào qua cửa.
“Cháu cần phải gặp ông Onimous,” Charlie thở dốc. “Có ông ấy ở đây không ạ?”
Nó giơ cái hộp lên:
“Chuột… Đang gặp nguy hiểm.”
“Orvil ở trong nhà bếp,” ông Norton đáp. “Cứ ra sau quầy.”
Nhảy phóc qua một cái lồng chim và hai con chó chồn, Charlie hấp tấp quành qua quầy và xuyên qua cửa sau. Ông và bà Onimous đang uống trà bên cái bàn bếp dài. Vài cái nồi to đang sôi sùng sục trên bếp lò, cả hai đều đỏ phừng phừng.
“Ủa, chẳng phải Charlie sao?”
Ông Onimous vừa nói, vừa chậm rãi mặt bằng một chiếc khăn tay đỏ.
“Ngồi xuống đây bạn của ta, và làm một tách trà nhé.”
“Cám ơn, nhưng cháu đang vội,” Charlie nói.
Một tiếng sủa reo mừng, và con Hạt Đậu từ dưới gầm bàn phụt lên. Charlie đặt cái hộp lên bàn, để kệ cho con chó liếm mặt mình, trong khi hay tay nó vò vò cái đầu lờm xờm của con chó bự. Lúc nó nhìn quanh thì đã thấy Rembrandt đang ngồi bên cạnh tách trả của bà Onimous.
“Ôi, ngạc nhiên thú vị làm sao,” bà nói. “Con chuột đẹp quá.”
Hạt Đậu gừ gừ, Charlie yêu cầu nó làm ơn yên lặng được không, bởi vì con chuột đang hoảng hồn kia kìa.
“Cháu mang nó tới đây chứ không nội Bone đã giết nó rồi,” Charlie giải thích. “Cháu nghĩ nó sẽ an toàn khi ở với ông bà. Bà vui lòng chăm sóc nó được không, thưa bà Onimous?”
“Tốt hơn cậu nên kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi sự việc đi, cậu Charlie,” ông Onimous nói.
“Và ăn chút bánh trong khi kể,” bà Onimous thêm. “Ngồi xuống đi, Charlie. Và cứ tự nhiên như ở nhà nhé.”
Charlie tính không ở lại. Nó lo là mẹ nó đi làm về sẽ thấy nội Bone đang nổi xung thiên. Nhưng mùi bánh mới nướng và ạu cười đón mời của ông bà Onimous thật khó mà từ chối được. Vì vậy nó ngồi vô bàn, giữa hai người và liên tục nhai nhóp nhép một khoanh bánh sô-cô-la thật to, trong lúc kể lại cho hai người bạn lớn nghe tất cả về Ollie Sparks, về con trăn xanh da trời, và vẻ tình trạng vô hình cô đơn của Ollie; rồi cuối cùng là cảnh tượng khủng khiếp với lão Ezekiel và Billy tội nghiệp.
“Billy muốn giữ con chuột này,” Charlie nói, nhón một mẩu bánh cho Rembrandt ăn. “Nó là một người bạn, ông bà thấy đấy. Nó có thể hiểu Billy nói gì. Nhưng lão già ác độc đó nhất định không cho. Nội Bone bảo gã Weedon đập đầu nó.”
“Tội nghiệp con vật,” bà Onimous ôm lấy ngực. “Lại đây với ta nào, cưng!”
Rembrandt phòng khỏi dĩa và đáp lên đùi bà Onimous. Rõ ràng, Billy không phải là người duy nất con chuột này có thể hiểu được.
“Cậu bảo là Ông cậu của cậu bị một căn bệnh bí hiểm…” Ông Yewbeam nói. Ông vốn rất kính trọng Ông cậu Paton Yewbeam.
“Và cậu không biết điều gì gây nên căn bệnh lạ lùng này?”
“Cháu chỉ biết là Ông cậu đã gặp ai đó ở trong lâu đàu Yewbeam,” Charlie nói. “Và người này đã làm gì đó với Ông cậu.”
Ông bà Onimous nhìn Charlie đăm đăm, cả hai cùng kinh ngạc.
“Đó là một nơi kinh khủng,” cuối cùng ông Onimous nói.
“Ông bà đã tới đó bao giờ chưa?” Charlie hỏi.
“Không bao giờ.” Ông Onimous lắc đầu. “Ngựa điên, ngựa hoang cũng không kéo được ta tới đó. Đó là một nơi quái quỷ, Charlie. Ông cậu của cậu may mắn lắm mới sống sót.”
“Nhưng có lẽ ông ấy không còn sức sống nữa,” Charlie nói, đầy sợ hãi.
“Chúng ta phải sống trong hy vọng, cháu à.” Bà Onimous nói, trông bà tràn trề hy vọng.