Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 14 -
CÂU CHUYỆN CỦA NHÀ PHÁT MINH

Mẹ Charlie đang ngồi trên một chiếc ghế lớn chạm trổ, ngay gần cánh cổng chính. Mới đầu Charlie chưa nhìn thấy mẹ, vì mẹ nó bị thân hình vạm vỡ của giáo sư Bloor che khuất. Ông ta đang nói chuyện với mẹ Charlie một cách nghiêm trang, còn cô Amy trông cứ thấp thỏm như một nữ sinh vừa làm điều gì sai trái. Khi thấy Charlie, cô vẫy nhẹ nó một cái và mỉm cười một cách lo lắng.
Giáo sư Bloor quay người lại.
“A, cậu ấy đây rồi,” ông ta cố tỏ ra hồ hởi. “Ta đang thông báo cho mẹ con biết con đã học tốt như thế nào trong tuần lễ đầu tiên, ngoại trừ… ở… phạm một tội nhẹ trong vụ áo chùng.”
“Thưa ông, đúng thế ạ.”
Charlie không biết sẽ phải giải thích với mẹ như thế nào đây về cái áo chùng bị xé rách. Thôi thì cứ giấu nhẹm đi, nó quyết định như thế.
Mẹ Charlie đứng lên, hôn vội lên má nó một cái và dắt nó đi thật lẹ ra cửa, không để ông Bloor kịp nói thêm tiếng nào nữa.
“Cuối tuần vui vẻ nhé,” giáo sư Bloor nói với theo, giả đò như không biết là hơn phân nửa kỳ cuối tuần của nó thế là đã đi tong.
“Vâng, thưa ông.” Charlie đáp lời, cũng giả đò quên thêm vô tiếng cám ơn.
Mẹ Charlie không đả động gì đến cái tội nhẹ của nó.
“Mẹ hy vọng con không ngán đi bộ chứ, Charlie. Trời chưa đủ tối nên Ông cậu Paton chưa ra ngoài được, mà mẹ thì không kiếm đủ tiền để đi taxi. Và vì con đã lỡ mất chuyến xe buýt của trường, nên…”
“Không sao đâu, mẹ.”
“Họ thật không phải chút nào. Ai lại phạt cấm túc con ngay tuần đầu tiên,” cô bức bối nói. “Mà thôi, quên vụ này đi, đúng không? Ngoại Maisie đã nấu tất cả những món con thích.”
Charlie cảm thấy đói ngấu.
Họ băng qua quảng trường có vòi phun nước, rồi đi vô một con hẻm dẫn ra Phố Lớn. Đúng lúc đi được chừng nửa con phố, thì Charlie nhận ra bên kia đường có một lão già đang bám theo hai mẹ con nó.
Ngay lập tức, Charlie biết đó là ai. Màn cải trang thiệt là vô vọng. Quần áo trông chẳng hợp gì cả, bộ râu quai nón màu trắng trông biết ngay là râu giả, không “ăn” chút nào với mớ tóc đỏ rực lòi ra sau cái nón lưỡi trai cũ sờn.
“Mẹ, mình đi lẹ lẹ hơn được không, mẹ?” Charlie hỏi. “Có người bám theo mẹ con mình.”
“Bám theo?” Cô Amy đứng sựng lại và ngoái ra sau. “Ai đi theo chúng ta?”
“Có một thằng ấy mà,” Charlie nói với mẹ. “Nó ở bên kia đường. Lạ thật, vì nó biết nhà mình rồi mà. Hình như nó bám theo chỉ để hù cho mẹ con mình sợ thôi!”
“Lẹ lên, Charlie!”
Cô Amy túm lấy cánh tay Charlie và kéo tuột nó vô một ngõ hẻm khác.
“Đường này đi sẽ lâu hơn, nhưng mẹ không thể chịu nổi chuyện bị theo dõi.”
Charlie nhớ ra, trước đây việc này đã từng diễn ra với mẹ nó. Ngay sau đám cưới, ba nó đã bắt đầu phài nơm nớp ngoái nhìn lại sau. Mẹ nó kể với nó như thế. Nhưng lúc đó ai đã đi theo họ?
Lúc này, mẹ Charlie đang làm một lộ trình vòng vèo qua những con hẻm nhỏ rí, hoàn toàn lạ lẫm đối với Charlie.
“Lâu lắm rồi mẹ mới đi đường này, nhưng nó không thay đổi nhiều lắm. A, đây rồi!”
Khi cô thốt ra câu này thì hai mẹ con đa đâm ra quãng trường nhỏ trước mặt nhà thờ.
“Ôi!”
Cô sửng sốt, áp tay lên ngực, như thể cảnh tượng tòa nhà khổng lồ đã làm cô nghẹt thở.
“Ba con xưa vẫn hay chơi đàn organ ở đây,” cô thì thầm. “Nhưng mẹ đã không quay trở lại nới này từ khi… từ khi… ba con ngừng chơi.”
Cô Amy rảo bước mau hơn, như không thể chịu đựng thêm được nữa, và tất nhiên, hai mẹ con đều nhận ra mình đang đi ngang qua tiệm sách của cô Ingledew.
“Con biết cái cô sống ở đây,” Charlie dừng lại để dòm qua cửa sổ. “Mình vô nha mẹ?”
“Đóng cửa rồi mà,” mẹ nó nói mau. “Con nhìn tấm bàng này.”
Và sau đó, khi họ vội vàng đi tiếp, cô nói thêm:
“Tối qua Ông cậu Paton đã tới đây. Lúc về Ông cậu đem theo một túi đầy sách. Gần đây không biết có điều gì mà khiến Ông cậu của con thay đổi đột ngột. Chẳng còn giống Ông cậu chút nào hết.”
Phải chăng cuối cùng thì Ông cậu Paton đã ngẩng đầu lên?
Ngoại Maisie đã trông thấy hai mẹ con từ xa, trước khi họ leo lên, những bậc tam cấp của căn nhà số 9. Khi Charlie bước qua cửa nhà bếp thì ấm nước đang sôi, và một bữa tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn trên bàn.
“Họ đâu có quyền giữ cháu cách xa chúng ta thêm cả một ngày như vậy,” ngoại Maisie kêu lên, ôm chầm lấy Charlie, ghì nó đến nghẹt thở.
“Tại nó vi phạm nội qui,” một tiếng nói phát ra từ chiếc ghế bập bênh cạnh lò sưởi. “Nó cần phải học mà hiểu nội qui.”
Rồi nội Bone nhăn mặt nhìn Charlie:
“Gớm, coi tóc với tai kìa! Mày không đem lược đến trường à?”
“Dạ, có chứ,” Charlie thanh minh, “nhưng giám thị không nói gì về chuyện tóc tai của tụi con. Nội biết con nói tới giám thị là có ý muốn nhắc tới ai chớ!”
“Tất nhiên là Lucretia,” nội Bone cáu kỉnh.
Đây quả là một bất ngờ lớn cho ngoại Maisie và cô Amy, hai người há hốc miệng ra nhìn nội Bone.
“Sao mẹ không nói cho chúng tôi biết?” Mẹ Charlie la lên.
“Mắc gì ta phải nói,” bà già khụt khịt.
Đoạn bà quay trở lại với quyển sách đang đọc dở, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.
“Chà,” ngoại Maisie lên tiếng. “Có người lại khệnh khạng thế đấy!”
Nội Bone giả ngơ luôn lời nhận xét này, cũng như làm ngơ luôn bữa trà thân mật mà các thành viên khác trong nhà (trừ Ông cậu Paton, dĩ nhiên) sắp ngồi xuống dùng.
Charlie nặn óc nghĩ ra cách để hỏi thăm Ông cậu, nhưng nội Bone trông băng giá đến nỗi có quyết định thôi luôn. Nó không muốn làm nổ thêm cuộc tranh cãi nào nữa, mà chỉ muốn ních đầy các món khoái khẩu rồi mau mau đi gặp Benjamin.
“Đi đâu đó, hả?” Nội Bone hỏi sau bữa trà, khi Charlie đi ra cửa trước.
“Dĩ nhiên là nó đi gặp bạn nó,” ngoại Maisie trả lời thay.
“Chi vậy?” Nội Bone chất vấn. “Nó có bổn phận ở nhà với gia đình vào cuối tuần.”
“Đừng ngây ngô như thế chứ, bà Grizelda,” ngoại Maisie sực lại. “Cháu cứ đi đi, Charlie.”
Charlie vọt bắn ra cửa, trước khi nội Bone kịp mở miệng thêm câu nào nữa. Nó chạy băng qua đường, tới nhà số 12 và ở đó, không những nó được gặp Benjamin mà còn cô cả Fidelio. Trông hai đứa có vẻ rất hào hứng. Chúng lập tức lôi ngay Charlie vô bếp, nơi những mẩu pizza, khoai tây chiên, chuối và bánh quy thừa còn vung vãi trên bàn. Con Hạt Đậu đang say mê thưởng thức những miếng đồ ăn rơi xuống sàn, nhưng ngay khi Charlie đi vô, nó liền nhặng xị cả lên: nhảy chồm chồm, thè cái lưỡi cực kỳ nhớp nháp liếm lấy liếm để lên mặt Charlie.
Charlie cố dứt ra khỏi con Hạt Đậu, trong khi Benjamin bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra. Có vẻ như tụi nó đã phát hiện được một điều gì đó vô cùng hệ trọng.
“Chính Fidelio,” Benjamin nói. “Bồ biết không, cái giọng nói trong con chó máy bồ tặng mình đó… ờ… anh Fidelio bảo nếu tụi mình cho cái băng chạy tới thì có lẽ sẽ có thêm gì đó nữa. Và đúng là có thêm thật.”
Charlie gật gù. Trò hề lạ lùng của lũ bãn nó bỗng nhiên đã có ý nghĩa.
“Vậy hóa ra sáng nay hai người muốn diễn tả điều đó cho mình đó hả? Hai người làm điệu bộ như là kéo cái đuôi chó vậy…”
“Thế lúc ấy em không hiểu hả?” Fidelio cười toe toét. “Ngồi xuống đi, Charlie, và nghe câu chuyện giật gân đây!”
Charlie nhận thấy lũ bạn đã tìm cách kéo được cái thùng của tiến sĩ Tolly ra khỏi tầng hầm rồi. Nó kéo ghế ra và ngồi vô bàn. Đứng giữa mặt bàn là con chó kim loại, bao quanh là bìa cứng và vụn bánh.
“Nghe đây,” Fidelio dõng dạc.
Nó giật đuôi con chó, và ngay khi giọng nói quen thuộc của tiến sĩ Tolly bắt đầu đưa ra lời hướng dẫn, Fidelio liền nhấn tai trái con chó cho cuộn băng chạy tới.
“Rồi,” nó cao giọng. “Tới rồi đó.”
Tiến sĩ Tolly nói trở lại, lần này giọng ông nghe khác hẳn, khẩn thiết và sầu thảm hơn. Charlie xích ghế lại.
Julia thương mến, giọng nói bắt đầu, nếu nghe được những lời này thì chị sẽ khám phá ra bí mật về đứa con yêu dấu của tôi; đứa bé trước đây là Emma Tolly, nhưng giờ đây nó đã mang một cái tên khác. Tôi hy vọng chị đã tìm ra một nơi an toàn để giấu cái thùng đề Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly. Tôi không thể gửi chìa khóa hay lời hướng dẫn cách mở nó cho chị được, vì tôi không thể tin tưởng ai, Julia à. Họ nghe trộm ngoài cửa phòng tôi, ăn cắp thư từ của tôi, và đến lúc chị nghe được lời nhắn này thì chúng đã đánh cắp cuộc đời tôi. Tôi biết rõ lắm. Tôi đã yếu sức lắm rồi. Tôi không thể ra khỏi giường. Những kẻ thù của tôi đã đầu độc tôi, Julia, và đây chính là hình phạt cho những gì tôi đã làm với con mình.
Và thế là, giờ đây, tôi sẽ kể cho chị biết sự việc đó đã xảy ra như thế nào, tôi đã rơi vô tình thế trớ trêu này ra sao. Như chị biết đấy, tôi đã quyết định trao bé Emma cho người khác. Chính lòng tham đã thúc giục tôi. Thứ chúng trao cho tôi để đổi lấy con gái của tôi là một thách thức gây hứng thú nhất trong đời tôi. Chúng đưa cho tôi một bản sao rất hoàn hảo tổ tiên của tôi, hiệp sĩ Toledo với thanh gươm sắc bén nhất trên đời. Tôi sẽ phải biến bản sao đó thành người thật – tôi mới ngạo mạn làm sao khi tin rằng mình có thể làm được điều đó. Tôi đã làm việc cật lực trong 5 năm. Không thành công. Tôi chỉ là một nhà khoa học, chứ không phải là một phù thủy. Khi Emma lên 7 tuổi, tôi yêu cầu họ trả con lại. Họ từ chối, với lý do là tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đúng lúc này, Benjamin bỗng hắt xì một cái, cắt ngang thứ bùa mê mà giọng nói đầy thuyết phục của tiến sĩ Tolly đang truyền qua lũ trẻ.
“Chà chà, thú vị thật,” Charlie tấm tắc. “Nhưng cũng chẳng giúp cho tụi mình biết được gì nhiều.”
“Chi tiết đầu độc thú vị đấy chứ.” Benjamin nói.
“Nghe đi,” Fidelio yêu cầu chúng. Nó tạm ngừng cuộn băng lại. “Phần kế tiếp là phần hay nhất. Tất cả mọi việc đều diễn ra ở đó.”
Benjamin và Charlie im bặt, đầy ý thức trách nhiệm, trong khi Fidelio bật lại cuộn băng. Một lần nữa, giọng nói trầm sâu của tiến sĩ Tolly lại vang lên từ con chó máy.
Julia, chúng hứa là tôi sẽ được gặp và thăm con. Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc sống tốt cho Emma bé nhỏ, được bảo bọc trong một gia đình chan chứa tình yêu thương - có cha mẹ, có anh – thay vì phải sống với tôi, một gã hay gắt gỏng, đãng trí. Họ nói họ sẽ cho con tôi biết sự thật nó là ai, để một ngày kia, con bé có thể chọn trở về với tôi hoặc đến sống với chị, Julia à. Đó là hy vọng của tôi. Đó là trước khi tôi biết những gì Manfred có thể làm…
Charlie ngó Fidelio, đang trợn tròn mắt. Benjamin thì thầm:
“Phải đó là…?”
“Suỵt!” Fidelio ra hiệu.
…Tôi nhớ rõ ngày hôm ấy, tiến sĩ Tolly tiếp. Chị còn nhớ chứ, trước tiên tôi đến tiệm sách của chị, và chị mặc cho Emma một chiếc váy trắng mới và thắt ruy băng lên tóc cho con bé. Nhưng chị không đi tới quảng trường trước nhà thờ cùng với cha con tôi. Giá mà lúc ấy chị cũng đến đó.
Ở đó có bốn người – Bloor, vợ và con trai ông ta, và một lão già. Thằng bé lúc ấy khoảng 8 tuổi. Chúng đặt cái thùng dưới chân tôi và, đúng là trong thùng có một bức tượng; sau đó, tôi nâng con gái bé bỏng của mình lên và lão già chìa tay ra.
Đúng giây phút đó thì sự việc xảy ra, Julia ạ. Đó là khi tất cả mọi thứ bắt đầu đi chệch lối. Khi chiếc đồng hồ to trên đầu chúng tôi bắt đầu điểm giờ, thì một người đàn ông từ trong nhà thờ chạy bổ ra. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Đó là người đánh đàn organ trẻ tuổi cho nhà thờ. Trong khi ca đoàn vẫn đang hát, thì anh ta chạy về phía chúng tôi. Anh ta giơ tay lên và la lớn “Ngừng lại! Cac người không được làm thế!”
Khi anh ta xông tới chặn trước mặt tôi, thì lão già liến đấm một đấm vô mặt anh ta. Người nhạc công trẻ đánh trả lại và lão già ngã xuống, đập đầu xuống nền đá. Lão ta thét lên đau đớn. Liền đó, tôi nhận thấy Manfred nhìn trừng trừng người đàn ông kia, đôi mắt nó trông như hai hòn than đen ngòm. Anh nhạc công lập tức đứa tay ôm mặt và quỵ xuống.
Lúc ấy Emma khóc thét lên vì khiếp sợ, nhưng Manfred quay đôi mắt khủng khiếp ấy về phía tôi, và tôi thấy mình đặt đứa con đang gào khóc của mình vô tay nó. Khi đồng hồ nhà thờ gõ mười hai giờ, nó nhìn con bé và con bé nín khóc ngay lập tức. Con bé dường như sợ đến chết trân.
Tôi là một kẻ hèn nhát, Julia ơi. Lúc đó tôi đã làm một việc tồi tệ hết sức. Tôi đã bỏ chạy. Tôi xách cái thùng lên và chạy trốn vô những ngõ hẻm, như thể đang bị ma quỉ của địa ngục đuổi theo sau lưng.
Sau này, tôi mới khám phá ra là chúng đã gửi Emma cho một gia đình khác. Chúng nhất định không nói cho tôi biết là ở đâu. Lão già bị tàn tật suốt đời sau cú ngã kia. Còn anh nhạc công trẻ tuổi kia thì tôi không bao giờ nhìn thấy nữa. Tôi hiểu rằng cả anh ta và bé Emma của tôi đều ở trong tình trạng còn tồi tệ hơn bị thôi miên. Họ sẽ bị yểm bùa suốt đời, nếu tôi không tìm được cách giải bùa cho họ. Và vì thế, tôi lao đi tìm cách. Ít nhất thì tôi cũng tin là mình đang tìm ra. Trong cái thùng ghi Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly có một âm thanh có thể đánh thức bé Emma tỉnh lại. Gia đình Bloor biết được điều tôi đang làm, và tất nhiên, họ muốn phá hủy sáng chế của tôi. Nếu cô ấn lên các mẫu tự, tùng chữ từng chữ một, ấn mạnh và cẩn thận, thì cái thùng sẽ mở ra…
“Vậy đó là cách mở cái thùng,” Charlie nói.
“Khoan!” Fidelio giơ tay lên. “Nghe cái ngày đi đã!”
…Suýt nữa thì tôi quên, giọng tiến sĩ Tolly lại cất lên. Tại sao chúng lại muốn con của tôi? Bọn tôi, giáo sư Bloor và tôi, cùng là sinh viên với nhau. Việc tôi thổ lộ những bí mật riêng tư của mình với người bạn cũ là lẽ tự nhiên. Tất nhiên, tôi không thế nói cho ai khác. Rằng Emma biết bay. Việc chỉ mới xảy ra một lần khi bé được vài tháng tuổi. Nhưng biết đâu đấy…?
Hãy bảo trọng, Julia. Đoạn ghi âm này đã đến. Người bưu tá đang ở ngoài cửa. Vĩnh biệt chị.
“Mấy đứa nghĩ thế nào?” Fidelio hỏi. “Một câu chuyện hay chứ hả? Tưởng tượng coi! Con bé đó, dù nó là ai đi chăng nữa, thì tuyệt nhất là nó biết bay.”
“Em nghĩ đó là Emilia Moon,” Charlie thì thào. “Và người đánh organ…”
“Người đánh organ thì sao?” Fidelio hấp tấp hỏi.
“Không sao cả,” Charlie đáp.
Người đánh organ đó có thể chính là ba nó, nhưng bây giờ làm sao chúng có thể tìm được ông? Ông đang lưu lạc ở đâu, ai mà biết được. Trước tiên, bọn nó phải làm Emma Tolly tỉnh lại đã, và rồi, có lẽ một ngày nào đó sẽ đánh thức tới ba nó.
Fidelio hăng hái vạch kế hoạc hành động càng sớm càng tốt.
“Tụi mình phải đem cái thùng ra khỏi đây vào tối nay,” nó nói. “Bây giờ thì đã biết công dụng của nó rồi.”
“Asa lại theo đuôi mình,” Charlie thông báo. “Thế nào nó cũng theo dõi từng bước đi của tụi mình.”
“Lo gì,” Fidelio trấn an. Nó chỉ cho Charlie xem cái thùng khổng lồ đựng cây mọc cầm mà nó đã xách theo.
“Ba anh nói sẽ lái xe tới đây đón anh. Nếu bây giờ em và Benjamin ra đi bộ loanh quanh khu này thì Asa có thể sẽ theo đuôi hai em. Khoảng 10 phút nữa ba anh sẽ tới, lúc đó thì Asa sẽ không còn lẩn quẩn ở đây mà thấy được anh đem thùng đựng đàn mộc ra xe. Nếu có, thì nó cũng chỉ nghĩ đấy là một loại nhạc cụ.”
Cả bọn nhất trí đây là một kế hoạch tuyệt vời. Bọn chúng nhấc cái thùng của tiến sĩ Tolly, bỏ vô thùng đựng đàn mộc trống không, rồi Charlie và Benjamin lên đường ra công viên. Đến lúc này trời đã xẩm tối, nhưng với con Hạt Đậu nhảy tung tăng bên cạnh, chúng cảm thấy rất an toàn. Chẳng bao lâu, chúng đã nhân ra cái bóng hóa trang cực kỳ kệch cỡm của Asa, ở bên kia đường, đang lén lút nhảy lóc cóc từ gốc cây này qua gốc cây kia, nhưng chúng cố không lộ ra là đã nhìn thấy thằng này.
Sau hai mươi phút đi loanh quanh, Charlie và Benjamin trở lại nhà số 12 đường Filbert. Fidelio và cái thùng to tướng đã biến mất.
“Thế là xong rồi!” Benjamin sung sướng reo lên.
“Tuyệt vời, Fidelio lão luyện của chúng ta,” Charlie mừng rỡ. “Mình phải về nhà đây. Ngày mai gặp lại nha.”
“Tụi mình đem cuốn băng cho cô Ingledew chứ?”
“Ý hay đó,” Charlie tán thành.
Nó băng qua đường,c hạy về nhà, háo hức muốn kể cho Ông cậu Paton những gì đã xảy ra. Ông cậu đang đứng một mình, có vẻ rất nhàn hạ, trong hành lang, nhưng xem ra không ở trong tâm trạng để nghe chuyện bí mật. Ông cậu sắp sửa ra phố. Ông mặc một bộ com lê cực kỳ lịch lãm, và thật kinh ngạc, có thắt thêm một chiếc nơ bướm màu tía. Tóc Ông cậu đã được hớt ngắn, mặt Ông cậu trắng sáng và vừa mới cạo nhẵn. Người Ông cậu tỏa ra mùi thơm nồng, thay cho mùi hỗn hợp của mực và giấy cũ như mọi khi.
“Chao ôi,” Charlie vồn vã. “Ông cậu Paton sắp đi đâu vậy?”
Ông cậu Paton có vẻ bối rối.
“Mày nhờ ta lấy chìa khóa cho mày ở chỗ cô Ingledew mà.”
“Bây giờ không cần nó nữa đâu,” Charlie thì thầm.
Ông cậu Paton không để ý đến điều đó. “Ta… hụ hụ…” Ông cậu tằng hắng. “Ta đến đón cô Ingledew đi ăn tối.”
“Thế à!”
Đây đúng là tin sốt dẻo. Theo Charlie nhớ thì Ông cậu Paton chưa từng đưa ai đi ăn tối bao giờ.
Ông cậu hạ giọng và ghé sát người xuống Charlie:
“Bà Bone sẽ không vui vì chuyện này đâu.”
“Dĩ nhiên,” Charlie nói, miệng cười toét.
Ông cậu Paton vỗ nhẹ lên vai nó, nháy mắt rồi đi khỏi. Đêm ấy trời đen như mực.
Charlie sẽ cảm thấy mừng vô kể cho Ông cậu. Nó thầm chúc ông may mắn và có một buổi tối an bình.
Nội Bone đóng cửa giam mình trong phòng, vì thế bầu không khí trong bếp thật dễ chịu và yên tĩnh. Ngoại Maisie và mẹ Charlie đang đọc tạp chí. Cả hai ngước nhìn khi Charlie đi vô, hăm hở muốn nghe tất cả mọi chuyện của tuần đầu tiên ở trường mới. Charlie kể cho họ nghe những chuyện thú vị, buồn cười. Nó bỏ qua chuyện Gabriel Silk và lời quả quyết kỳ lạ của thằng này rằng ba nó vẫn chưa chết. Nó cũng lược bỏ phần chiếc áo chùng. Sau này chắc chắn nó sẽ phải tìm lời giải thích cho chuyện đó.
Charlie được phép thức khuya hơn thường lệ. Không có nội Bone quanh quẩn một bên, không ai bắt bó phải đi ngủ sớm cả. Hơn nữa, ngày hôm sau là chủ nhật và mẹ nó đã đảm bảo rằng nó có thể nướng trên giường bao lâu tùy thích. Nhưng sau một hồi lâu thì mắt Charlie bắt đầu nhíu lại, nó ngáp trẹo quai hàm và đành phải thú nhận là có nguy cơ ngủ gật. Nó hôn ngoại Maisie và mẹ, chúc hai người ngủ ngon, rồi đi về giường.
Charlie không biết mình đã ngủ được bao lâu thì có một chuyện lạ diễn ra. Có tiếng bước chân chậm chậm ngoài cửa phòng nó. Đi tới đi lui. Đi lui đi tới. Cầu thang rung lên cọt kẹt và có bóng người đi qua hành lang. Dù đang mệt rã rời, Charlie cũng ráng tuột khỏi giường và kiễng chân đi xuống cầu thang.
Ông cậu Paton đang ngồi ở bàn bếp. Trên bàn, một cây đèn cầy cháy chập chờn, leo lét. Ông cậu đã lột áo khoác và cà vạt quăng xuống đất, vùi mặt vô hai cánh tay khoanh tròn lại.
“Ông cậu Paton, có chuyện gì vậy?” Charlie khẽ hỏi. “Chuyện gì vậy ạ?”
Ông cậu không trả lời, chỉ rên rỉ. Charlie kéo ghế ra ngồi đối diện ông, chờ ông bình tĩnh lại, lòng thắc mắc không hiểu Ông cậu gặp chuyện gì ghê gớm vậy.
Cuối cùng, Ông cậu Paton cũng ngẩng đầu lên và than thở:
“Charlie, tiêu hết rồi.”
“Gì cơ ạ?” Charlie gặng hỏi.
“Ta đã không nhịn được,” Ông cậu Paton trầm ngâm. “Sự việc cứ thể xảy ra. Người bạn của ta, cô Ingledew ấy, trông thật quyến rũ. Cô mặc áo đầm đen, tóc búi cao, cổ trắng như cổ thiên nga… Ôi, ta đã bị chinh phục mất rồi.”
“Đương nhiên là thế rồi ạ,” Charlie đồng tình.
“Ta đã cố nhịn cho đến lúc dùng bánh pút-đinh.”
“Đúng thôi, ngon quá mà!”
“Không, không phải vậy,” Ông cậu Paton rên rỉ, “Mặc dù ta có thấy là món nào cô ấy cũng thích.”
“Ông cậu và cô ấy ăn gì vậy?”
“Sò. Rau trộn Caesar. Vịt quay và bánh pút-đinh phủ kem với trái cây.”
“Ngon quá đi mất!” Charlie reo lên. Nó chẳng biết những món đó ra sao, ngoại trừ món vịt.
“Nhưng rượu đã bốc lên đầu ta, và ta quá say, quá sung sướng.” Ông cậu Paton thở dài sườn sượt. “Có một ngọn nén trên bàn của bọn ta, như thế cũng không hề chi, nhưng ở đằng sau Julia, trên vách tường, có một bóng đèn tỏa ánh sáng đỏ dìu dịu… và… bụp… bóng đèn bể. Miểng thủy tinh văng tứ tán. Vương khắp trên tóc, trên chiếc áo đầm đen dễ thương của cô ấy. Ta nhảy lên, thêm một bóng đèn ở bàn kế bên vỡ tan. Thử hình dung đến tình cảnh khốn khổ của ta mà xem.”
“Nhưng người ta không hề biết đó là do Ông cậu,” Charlie an ủi.
“À, đó chính là lúc ta tự biến mình thành một thằng khùng. ‘Xin lỗi, xin lỗi’, ta rối rít kêu lên, và một cái bóng đèn nữa vỡ tan. Rồi thêm cái nữa, ta lao ra ngoài, miệng vẫn lảm nhảm xin lỗi. Ta quá mắc cỡ. Ta không thể ở lại đó được, tất cả bóng đèn trong nhà hàng chắc sẽ nổ tung mất thôi.”
“Ông cậu đừng bận tâm làm gì,” Charlie vỗ về. “Thể nào Ông cậu cũng sẽ nghĩ ra một lời giải thích với cô Ingledew thôi mà.”
“Nhưng, Charlie à, ta chưa thanh toán hóa đơn!” Ông cậu Paton kêu lên. “Thử tưởng tượng coi cô ấy sẽ phẫn nộ như thế nào. Cô ấy sẽ nghĩ ta là kẻ hèn nhát, chỉ vì sợ mấy cái bóng đèn nổ mà bỏ mặc cho cô ấy trả tiền.”
“Ông cậu chỉ cần nói cho cô ấy biết sự thật,” Charlie nói.
“Khôôông!” Ông cậu Paton rền rĩ như sấm một cách tuyệt vọng. “Chúng ta bị đày đọa. Ta và mày. Bị đày đọa trong sự khác người, trong nỗi ám ảnh khủng khiếp của gia đình chúng ta.”
“Không phải vậy đâu,” Charlie phản đối kịch liệt. “Ông cậu bình tĩnh lại nào! Con có điều quan trọng muốn nói với Ông cậu, và con thực sự muốn Ông cậu tập trung.”
Ông cậu Paton lại gục đầu xuống cánh tay đang khoanh lại, và lần này dường như ông không buồn động đậy nữa. Thế nên Charlie bắt đầu kể lại tất cả những gì mà tiến sĩ Tolly đã nói trong cuộn băng. Cuối cùng thì Ông cậu Paton cũng ngẩng đầu lên, và lần này thì hết sức chăm chú.
“Ôi trời, Lyell!” Ông cậu Paton thốt lên khi Charlie kể tới đoạn người chơi đàn organ.
“Đó là ba của con, phải không?”
“Chắc chắn rồi,” Ông cậu Paton khẳng định. “Kể tiếp đi, Charlie.”
Khi Charlie kết thúc câu chuyện kỳ lạ của tiến sị Tolly, thì Ông cậu Paton trở nên hoạt bát hơn.
“Nhóc à, tất cả vụ này thật hết sức, hết sức lạ lùng, không thể diễn đạt thành lời nổi. Và bi đát nữa, bi đát quá đi. Đứa trẻ tội nghiệp đó. Và ba của mày… Trời ơi, giá mà ta có thể ngăn chặn được điều đó. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ta nghĩ rằng, trong lúc cố cứu đứa bé thì số mệnh của ba mày đã được định đoạt.”
“Nhưng, Ông cậu Paton ơi, ba con vẫn còn sống,” Charlie tiết lộ.
“Cái gì? Không, ta rất tiếc, Charlie à, mày sai rồi.”
Charlie kể với Ông cậu về Gabriel Silk, về cái áo chùng xanh và chiếc cà vạt của ba nó.
“Con thấy anh ấy chẳng có lý do gì để nói dối con cả,” Charlie bảo. “Ông cậu thử tới gặp anh ấy coi, Ông cậu Paton. Anh ấy có khả năng đó mà. Cũng y như con có tài nghe được tiếng nói và Manfred có tài thôi miên… và như… như ông có thể làm nổ bóng đèn vậy.”
“Ta nghĩ là ta phải tin mày, Charlie. Nhưng chính mắt ta đã thấy nơi chiếc xe hơi lao xuống hầm đá. Ba mày không thể thoát ra khỏi đó được, và nếu ông ấy có thoát được thì hiện giờ ông ấy ở đâu cơ chứ?”
Charlie buồn rầu nhún vai. Nó không biết câu trả lời, nhưng nó hết sức bất ngờ khi được biết là sau đó không ai tìm ra xác ba nó.
“Con nghĩ là bà nội đã ngăn không cho họ kết liễu ba, vì đó là con trai bà. Nhưng vì không bắt được ba làm theo những gì bà muốn, nên bà đã để mặc cho tai nạn và tất cả mọi chuyện xảy ra, Tất cả bọn họ, cả gia đình nhà Bloor và nhà Yewbeam, đều cùng một phe, ngoại trừ Ông cậu, Ông cậu Paton ạ. Nếu ai đó ngăn trở hay làm điều gì họ không thích, thì họ sẽ trừ khử người đó, hay giấu người đó đi, hay làm cho người đó quên mất mình là ai.”
“Ôi!” Đột nhiên Ông cậu Paton đấm mạnh xuống bàn. “Ta trách chính bản thân mình. Luôn cúi đầu xuống không phải là điều tốt. Lúc ấy ta đã biết là có điều gì đó đang diễn ra, không thể chối cãi… Dạo ấy mấy bà chị của ta đang âm mưu tính toán điều gì đó; họ cứ xầm xì với nhau, họ có những buổi gặp gỡ bí mật, à… lại có cả những cuộc viếng thăm của giáo sư Bloor và lão già Ezekiel, ông nội cực kỳ kinh khủng của hắn nữa. Vậy mà ta chẳng quan tâm.”
“Ông nội?” Charlie hỏi, hơi ngạc nhiên.
“Ừ, ông nội,” Ông cậu Paton nhắc lại. “Đúng là một lão già tội lỗi. Bây giờ lão ta phải hơn trăm tuổi là ít. Một buổi tối, ta nhận được điện thoại của Lyell. Ba mày đã phát hiện ra điều gì đó và ông ấy cần lời khuyên của ta. Dạo ấy, ba mày sống ở bên kia thành phố cùng với mày và mẹ mày. Ta bảo ta sẽ gặp ông ấy ở bên ngoài nhà thờ.”
Ông cậu Paton ôm lấy mặt.
“Nhưng ta đã không đến, Charlie à,” Ông cậu rên rĩ. “Ta quên khuấy đi mất, ta mải vùi đầu vô cuốn sách của ta, mày biết đó. Nhưng cuốn sách làm sao lại có thể so với mạng người được? Từ ấy ta không bao giờ còn nhìn thấy ba mày nữa.”
Mặc những biến cố khủng khiếp và kỳ bí xung quanh sự biến mất của ba mình, Charlie vẫn cảm thấy rất tự hào. Ba nó đã cố gắng ngăn không cho tội ác xảy ra.
“Ông cậu Paton ơi, ngày mai con sẽ đem cuộn băng của tiền sĩ Tolly cho cô Ingledew. Và trong lúc ở đó, con sẽ cố giải thích về việc nổ bóng đèn và mọi thứ cho Ông cậu.”
“Mày thật tử tế quá,” Ông cậu Paton ủ ê. “Nhưng ta e là viễn cảnh của ta đã an bài mất rồi.”
“Không phải vậy,” Charlie cãi lại.
Thình lình nó nhận ra mình và Ông cậu đang rất ồn ào. Nó ngạc nhiên, nội Bone ở đâu mà sao lại không nên xuống sàn nhà, hay nhảy bổ xuống lầu, lao vô câu chuyện nhỉ.
“Hay nội bị sao rồi?” Nó hỏi.
Trong đêm hôm đó, lần đầu tiên Ông cậu Paton mỉm cười.
“Ta đã cho một thứ vô sữa của bà ấy. Bà ấy sẽ không tỉnh giấc trong nhiều giờ. Có thể là không tỉnh lại cho đến buổi uống trà ngày mai.”
Charlie bật cười khúc khích. Nó không thể nào nhịn nổi. Nó và Ông cậu vừa cười vừa cùng nhau bước lên cầu thang, tạm quên đi những vấn đề rắc rối của mình. Ít nhất là vào lúc này.