Mùa đông bóp chặt cả thành phố trong nắm tay sắt của nó. Những rễ cây, thân cây, ống khói và thậm chí cả những thứ di động được cũng bị phủ một lớp tuyết dầy. Charlie Bone đang khấp khởi hy vọng được nghỉ thêm một ngày Giáng sinh nữa. Học kỳ tiếp theo hẳn sẽ không thể bắt đầu trong thời tiết như thế này. Nhưng nội Bone đã dập tắt ngay niềm hy vọng của nó. “Đừng có mà tránh né bổn phận,” bà nói bằng giọng khinh khỉnh thường ngày của mình. “Mưa gió hay bão tuyết thì Học viện Bloor cũng mở cửa. Xe cào tuyết sẽ dọn dẹp mấy phố chính, xe buýt trường sẽ dừng ở đầu đường Filbert sáng thứ Hai, đúng tám giờ.” Môi bà cong lên khi nói đến những chứ cuối cùng, vô tình tạo nên một âm thanh gớm guốc. Charlie là học sinh nội trú theo tuần của Học viện Bloor, và cứ mỗi tối chủ nhật nó lại phải sắp xep đồ đạc cho năm ngày sống xa nhà kế tiếp. Vào ngày chủ nhật hôm nay, Charlie lại quan tâm đến những bông tuyết bám vô cửa sổ phòng nó nhiều hơn đến việc sắp đồ đạc. “Đồ ngủ, bàn chải, kem đánh răng, đồ lót,” Charlie lầm bầm một mình, “vớ, áo sơ mi sạch…” nó gật đầu. Nó phải mặc áo chùng xanh da trời trên đường đến Học viện, nhưng nó rất ghét phải mặc chiếc áo này khi chưa tới trường. Bọn trẻ con trên đường Filbert sẽ trêu chọc nó. Học viện Bloor là một trường học khác thường. Chỉ những đứa trẻ có năng khiếu âm nhạc, kịch và hội họa mới được vô học ở đó. Charlie không có những tài này. Nó là một trong mười hai đứa có phép thuật, tức là những đứa được vô Học viện vì tài năng độc nhất vô nhị của mình. Trong trường hợp của Charlie thì nó nghĩ, thà không có tài phép đó còn hơn. Nó có thể nghe được âm thanh từ những tấm hình, đặc biệt là tiếng người trong hình. Ngay khi nội Bone và ba cô em ác độc của bà phát hiện ra điều này, họ liền gởi nó vô Học viện Bloor. Dòng họ Bloor gồm những nhà tiên tri, nhà thôi miên, ma sói, phù thủy và những loại người còn tệ hơn thế. Họ là hậu duệ của Vua Đỏ huyền bí, một phù thủy quyền năng siêu phàm. Và như mọi đứa trẻ có phép thuật khác, Charlie phải được giám sát và tài phép của nó cần phải được nuôi dưỡng. Chuông cửa reng. Charlie chạy lẹ xuống cầu thang, hăm hở chuồn khỏi công việc sắp xếp hành lý nhạt nhẽo kia. Nó vừa mở cửa thì con Hạt Đậu cùa Benjamin xồ qua người nó, rũ rũ đám tuyết ướt át khỏi lưng. Cái đuôi xồm xoàm của Hạt Đậu xịt những tia nước khắp hành lang, thẳng giữa lối đi của ngoại Maisie. “Con nên hong khô con chó ở đây thì hơn.” Ngoại Maisie nói vui vẻ khi lùi trở vô nhà bếp. “Để bà lấy khăn cho nó.” Ngoại đã dành hẳn một cái khăn riêng cho Hạt Đậu, vốn là khách quen của ngôi nhà. Con chó vàng to đùng chạy xoắn theo sau ngoại, trong khi Charlie cầm áo khoác của Benjamin và treo lên mắc trong hành lang. “Ngày mai bồ có đi đắp người tuyết không?” Benjamin hỏi Charlie. “Trường mình chắc chắn chưa mở cửa.” “Nhưng trường mình thì mở,” Charlie rầu rĩ nói. “Đừng buồn nhe, Ben.” “Xời!” Mặt Benjamin xệ xuống. Nó là một thằng bé tóc màu rơm, mặt lúc nào cũng lo âu. “Thế bồ không giả bộ bị bệnh hay gì gì đó được sao?” “Còn lâu mới được,” Charlie nói. “Bồ biết bà nội với mấy bà co của mình rồi mà.” Benjamin biết họ quá rõ là đằng khác. Bà cô Eustacia của Charlie đã có lần làm bảo mẫu cho Benjamin. Đó là hai ngày khủng khiếp nhất trong đời nó: đồ ăn gớm guốc, phải đi ngủ sớm, không cho chó ở trên giường. Nhớ lại mà Benjamin rùng cả mình. “Thôi vậy,” nó rầu rầu. “Mình sẽ nặn người tuyết một mình vậy.” Một cánh cửa bật mở nơi chiếu nghỉ trên đầu chúng. Và một giọng oang oang. “Benjamin Brown đó hả? Ta ngửi thấy mùi chó.” “Dạ, con ạ, bà Bone,” Benjamin nói mà thở dài. Nội Bone xuất hiện ở trên đầu cầu thang. Lọt trong mớ quần áo đen tuyền, với mớ tóc trắng búi cao trên đầu, trông bà giống như một nữ hoàng độc ác trong chuyện cổ tích hơn là một bà nội. “Ta hy vọng mày không định ở lại quá mười phút,” nội Bone bảo. “Charlie phải đi ngủ sớm. Ngày mai nó đi học rồi.” “Mẹ bảo con còn được ra ngoài chơi một giờ nữa mà,” Charlie la lên. “Hử? Ừ, nếu mà như thế thì việc gì ta lại phải mất công quan tâm đến tiền trợ cấp cho mày nhỉ. Rõ ràng là ta chỉ tốn thời gian vô ích.” Nói rồi nội Bone vụt biến vô phòng, đóng cửa đánh sầm. Không biết là do cửa sầm mạnh hay là do một cơn động đất nhẹ, Charlie không biết được, nhưng một bức hình nhỏ bỗng rớt khỏi móc treo ở trong hành lang. Charlie chưa bao giờ xem kỹ bức hình cũ phai màu treo trang trí dọc hai bức tường trong hành lang tối. Thật ra, kể từ khi khám phá ra tài năng không mời mà đến của mình, nó cố ý tránh nhìn vô những tấm hình. Nó không muốn nghe thấy những gì mà những vị tổ tiên coi bộ nóng tính của nó cần nói. “Chà!” Benjamin thốt lên. “Sao nó lại rớt vậy?” Charlie nhận ra đây là tấm hình mà nó sẽ không thể bỏ qua. Khi nhặt hình lên và lật lại, nó chợt có cảm giác thôn thốn nơi bụng. “Tụi mình coi đi!” Benjamin giục. Charlie chìa tấm hình lồng khung đen ra xem. Đó là một tấm hình màu nâu đỏ, đã phai màu. Mặt kính bị nứt nhưng chưa long ra hẳn. Qua những đường nứt rạn, hai đứa thấy một gia đình năm người đang ở trong vườn. Sau lưng họ, thấp thoáng bức tường thấp màu vàng của một ngôi nhà tranh. Và góc kia của tấm hình, xa khỏi một bức tường đá, một con thuyền buồm đang neo trên mặt biển phẳng lặng như nhung. “Bồ không sao đấy chứ?” Benjamin liếc nhìn Charlie. “Không,” Charlie rên rỉ. “Bồ biết tại sao mà. Ối, nghe thấy rồi.” Những giọng nói ong ong vo vo bắt đầu ập vô tai nó. Người mẹ nói trước. Henry, đứng im coi. Con làm hư hình bây giờ. Cô là một phụ nữ khả ái, mặc váy đăng ten, cổ bẻ cao. Một chiếc trâm cài áo như hình ngôi sao gài ngay dưới cằm. Một cậu bé khoảng bốn tuổi ngồi lên đùi cô, và một bé gái cỡ sáu tuổi hay bảy tuổi dựa vô đầu gối cô. Bên cạnh người phụ nữ là một người đàn ông trẻ mặc quân phục. Gương mặt của chú hân hoang đến nỗi Charlie nghĩ rằng chú ấy không thể là một người lính nghiêm nghị và dữ dằn như những người lính vẫn thế. Nhưng người khiến Charlie phải dán mắt vô chính là một cậu bé đứng phía trước người lính. Con không thở được, cậu bé cằn nhằn. “Hây, Charlie, trông nó giông giống bồ!” Benjamin chỉ một ngón tay bám đầy đấy vô cậu bé lớn. “Ừm,” Charlie đồng ý. “Cũng cỡ tuổi mình nữa.” Xem ra cái cổ áo cứng khiến cho cậu bé tên là Henry khó chịu. Cái cổ áo kẹp quanh cổ nó, bên trên chiếc áo khoác cài chặt nút, gần như cọ hẳn vô. Nó mặc quần chẽn dài tới đầu gối, đi vớ đen dài và ủng đen bóng loáng. Ui da! Henry than thở. Mẹ cận thở dài. Bảo con đứng im mà cũng không được sao? Con nghĩ có một con ruồi trong cổ áo con, Henry nói. Đến đây thì người lính phá ra cười. Rồi em gái và em trai của Henry cũng bò ra cười ngặt ngoẽo. Thật không, bà mẹ nghiêm trang. Mẹ chắc chắn là ông thợ chụp hình đáng thương của chúng ta chẳng thấy có gì tức cười cả. Ông không phiền chứ, ông Caldicott? Có tiếng càu nhàu. Ừm, cám ơn bà, và rồi tiếng một cái gì đó đổ kềnh. Charlie không chắc đó là ông phó nháy hay chiếc máy chụp hình. Những người trong tấm hình chao nghiêng, khiến Charlie xây xẩm mặt mày. “Trông bồ tái mét kìa,” Benjamin nhận xét. Nó dìu Charlie run rẩy vô nhà bếp, tại đây ngoại Maisie đang lau khô cho con Hạt Đậu bằng một chiếc khăn. “Trời ơi,” ngoại Maisie la lên. Chỉ cần liếc sơ một cái là ngoại biết ngay chuyện gì xảy ra. “Con vừa mới nghe thấy cái quỷ quái gì đó đúng không, Charlie?” “Dạ phải,” Benjamin trả lời. Một tiếng “xèo” thật lớn khi mẹ Charlie thảy một nắm rau nhìn lạ mắt vô trong chảo. “Lần này là cái gì vậy, con?” Bà hỏi. Charlie đặt tấm hình lên bàn bếp. “Nó rớt khỏi tường lúc nội Bone đóng sầm cửa.” “Cụng lạ là mấy cánh cửa trong nhà này vẫn còn dính lại được với cái kiểu đóng sầm sập như thế,” ngoại Maisie chép miệng, tay nhặt những miểng thủy tinh bể bỏ vô một tờ báo. “Cứ phải chứng kiến bà ấy sập cửa, rồi Ông cậu Paton làm bể bóng đèn, với lại đám rau thối của mẹ con, nhiều khi ngoại nghĩ thà bỏ nhà vô sống trong trại dưỡng lão còn hơn.” Mọi người đều bỏ lơ lời phàn nàn này. Nghe thường xuyên quá rồi. Ngoại Maisie chưa đủ già để vô trại dưỡng lão, và lại, mọi người đã nói với ngoại hàng trăm lần rồi, rằng gia đình không thể sống thiếu ngoại. “Thế mẹ có biết những người trong hình này không?” Charlie chỉ gia đình trong khung hình đen. Không còn những miểng thủy tinh bể, người lính và gia đình trông rõ hơn. Mẹ Charlie nhìn vói qua vai nó. “Chắc chắn là những người nhà Yewbeam,” bà đáp. “Không đời nào,” Charlie nói. “Con sẽ hỏi Ông cậu Paton trước khi đi ngủ. Đi nào, Benjamin.” Kẹp tấm hình dưới nách, Charlie dẫn Benjamin và Hạt Đậu lên phòng nó. Một giờ chơi trò chơi trên máy vi tính trôi qua cái vèo, sau đó thình lình nội Bone nện cửa phòng Charlie thình thình và la toáng lên: “Đuổi con chó ra khỏi giường mau.” Làm sao nội đoán được nhỉ? À mà, rất nhiều người nhà Yewbeam có cái khả năng đó. Bọn nhóc lê xuống cầu thang, Hạt Đậu theo sau, rồi Charlie tiễn Benjamin và con chó ra khỏi cửa trước. Nó đứng trong hành lang một hồi, nhìn đăm đăm mảng giấy dán tường hình chữ nhật, nơi treo tấm hình. Cái gì khiến tấm hình rơi ra nhỉ? Có đúng là chỉ vì cánh cửa đóng mạnh quá không? Xem ra trong căn nhà này, có một sức mạnh tác uy đang ngày càng huyền bí. “Có lẽ Ông cậu Paton sẽ biết,” Charlie lẩm bẩm. Nó chạy lên lầu. Là em trai của nội Bone nhưng Ông cậu Paton hơn bà những hai mười tuổi, và rất dí dỏm. Cái khả năng kích bể bóng đèn mỗi khi đứng gần đèn sáng khiến ông suốt ngày phải ở trong phòng và chỉ có thể ra ngoài vào ban đêm. Ông bảo, ban ngày, trong các cửa hàng vẫn có bóng đèn. Ban đêm thì ông sẽ ít bị người ta dòm thấy. Charlie cầm tấm hình từ phòng nó sang gõ cửa phòng Ông cậu, mặc kệ tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY. Cú gõ đầu tiên của nó không có lời đáp lại. Nhưng đến cú thứ hai thì có tiếng gắt. “Gì đó?” “Có một tấm hình, Ông cậu Paton.” “Mày lại nghe được tiếng nói à?” “Chắc vậy.” “Thế thì vô đi.” Lời này được nói bằng giọng ỉu xìu. Người đàn ông cao lớn, tóc đen dày cui nhìn lên từ chiếc bàn làm việc bên cạnh cửa sổ. Khi ông nhúc nhích, cùi chỏ ông hích đổ một chồng sách rớt xuống sàn. Ông càu nhàu: “Đã chán rồi còn gặp thứ chán hơn.” Ông cậu Paton đang viết lịch sử gia đình mình, dòng họ Yewbeam, và ông cần rất nhiều sách để tra cứu. “Thế, tấm hình ấy đâu? Đưa đây coi coi!” Ông cậu Paton bật ngón tay tanh tách, nôn nóng. Charlie đặt tấm hình trước mặt Ông cậu. “Họ là ai vậy?” Ông cậu Paton nheo mắt nhìn gia đình trong tấm hình. Ông chỉ cậu bé ngồi trên đùi người phụ nữ. “À, đây là cha ta.” “Còn đây,” ông chỉ ngón tay dính mực vô cô bé gái, “đó la cô Daphne tội nghiệp, đã chết vì bệnh bạch hầu. Người lính này là ông nội ta, đại tá Manley Yewbeam – một người vui tính cực kỳ. Lúc ông sắp giải ngũ thì có một cuộc chiến nổ ra. Đây là bà nội ta, bà Grace. Bà là một họa sĩ… một họa sĩ đại tài.” “Còn cậu bé kia?” “Đó là… lạy Chúa, Charlie, trông cậu ta giống con quá. Trước đây ta không bao giờ để ý thấy điều đó.” “Tóc anh ấy khác tóc con. Nhưng con nghĩ có lẽ anh ấy đã ép nó xuống bằng thứ gì đó.” Không thứ gì có thể ép được mái tóc dày, lỉa chỉa của Charlie xuống. “Hừm, Henry đáng thương,” Ông cậu Paton lẩm bẩm. “Chú ấy biến mất.” “Bằng cách nào?” Charlie kinh ngạc. “Lúc đó họ đang ở trong Học viện Bloor. Henry và James, còn Daphne bị bệnh sắp chết. Đó là một mùa đông giá buốt nhất thế kỷ, cha ta không bao giờ quên được. Một hôm, đang lúc chơi bi, Henry tự nhiên biến mất.” Ông cậu Paton xoa xoa cằm. “Người cha tội nghiệp của ta tự nhiên trở thành con một. Ông ngưỡng mộ anh trai mình lắm.” “Biến mất?” Charlie lẩm bẩm. “Và bây giờ Henry đang nói chuyện với con.” “Cha ta luôn luôn nghi ngờ ông anh họ Ezekiel có dính líu sao đó đến vụ biến mất này. Hắn ghen tị với Henry. Ezekiel là một phù thủy, nhưng Henry thông minh một cách tự nhiên hơn.” “Đó có phải là Ezekiel mà…” “Phải. Ông nội của giáo sư Bloor. Lão ấy vẫn còn sống, ẩn dật ở đâu đó trong Học viện, bao quanh là một đống đèn khí với ma thuật.” “Chao! Vậy ông ấy phải cả trăm tuổi rồi.” “Ít nhất cũng trăm tuổi,” Ông cậu Paton chồm người ra trước. “Nói cho ta hay nào, Charlie, những tiếng nói mà mày nghe được ấy, có bao giờ chúng nói một việc gì không liên quan trực tiếp gì hết đến thời điểm chụp hình không?” “Ừm, không,” Charlie đáp. “Hoặc chưa. Con không thích nhìn họ quá lâu.” “Hừ, tiếc thật,” Ông cậu Paton nói. “Chắc sẽ thú vị lắm. Này, cầm lấy.” Ông trao tấm hình cho Charlie. “Thôi,” Charlie nói. “Ông cậu giữ đi.” Trông Ông cậu Paton có vẻ thất vọng. “Cha ta sẽ vui lắm nếu biết thêm được gì.” “Ông cố vẫn còn sống à?” Charlie ngạc nhiên. Nó chưa bao giờ thấy ông cố nhìn. Đúng hơn, nó chưa bao giờ nghe nói về ông. “Giờ ông già lắm rồi,” Ông cậu Paton bảo. “Hơn 90 tuổi rồi, nhưng vẫn sống ở ngôi nhà tranh bên bờ biển này.” Ông vỗ vỗ tấm hình. “Tháng nào ta cũng đến thăm ông. Nếu ta xuất phát nửa đêm thì thường tới nơi vào lúc mặt trời mọc.” “Thế con bà nội và mấy bà cô? Họ là con gái của ông cố mà?” Ông cậu Paton làm một điệu bộ cho thấy có một xì-căng-đan trong vụ này. Môi Ông cậu mím lại, đôi lông mày dài rậm cong vòng lên về phía đường ngôi tóc. “Có một mối bất hòa sâu sắc, Charlie à. Cãi nhau kịch liệt. Cách đây lâu, lâu lắm rồi. Ta không còn nhớ nữa. Với mấy người ấy, cha ta không tồn tại.” “Thật kinh khủng!” Nhưng về mặt nào đó, Charlie không hề ngạc nhiên chút nào. Suy cho cùng, đến ba Lyell của nó, là con trai duy nhất của nội Bone, mà bà còn không thèm nhắc tới khi ông biến mất nữa là… Bà chỉ dơn giản hất ba nó ra khỏi tim mình. Charlie chúc Ông cậu ngủ ngon về giường. Nhưng nó nằm trằn trọc mãi, cố tưởng tượng ra ngày đầu tiên nó trở lại Học viện Bloor, nhưng gương mặt láu lỉnh của Henry cứ lấn cấn mãi trong tâm trí nó. Làm sao mà cậu ấy biến mất được? Và cậu ấy đi đâu? 1. Một tộc người Xcăng-đi-na-vi vào thế kỷ thứ 8 – 10, với thân hình to lớn, hành nghề cướp biển.