ào đầu tháng mười, vẫn còn dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng Queeg, chiếc Caine trực chỉ tới quần đảo Ulithi, một quần đảo san hô không có gì khác với các quần đảo khác, một cái vòng gồm nhiều đảo nhỏ rời rạc, những rạng đá ngầm san hô, nước xanh màu lá cây, ở nửa đường từ Guam tới Palaus, một đảo mới chiếm được gần đây. Trong khi hạm trưởng lo làm vận chuyển thả neo thì Willie đang đứng ngáp bên cánh hữu hạm, nghe có ai đập nhẹ lên vai mình. anh quay lại. keefer nhìn ra phía bên phải rồi nói:- Nè Willie, anh hãy nhìn kỹ phía dưới kia xem, có phải tôi bị quáng mắt hay không?Cách xa cỡ ngàn thước, một chiếc dương vận hạm sơn màu ngụy trang nâu xanh neo ở đó. Ba cái bia 16 tấn cột phía sau cửa đổ bộ. Willie buồn bã nói:- Chúa ơi! Đâu có như vậy được.Keefer hỏi:- Anh thấy cái gì?- Mấy cái bia. Vậy đó là tại sao họ gởi mình tới cái lỗ này, không nghi ngờ gì nữa.Cái công điện khẩn ra lệnh cho chiếc Caine khởi hành từ Eniwetok tới Ulithi một mình chạy nhanh hết tốc lực, là đối tượng của nhiều giả thuyết nêu ra ở phòng ăn sĩ quan.Keefer nói:- Để yên cho tao treo cổ tự tử cho rồi!Chiếc Caine cũ kỹ bắt đầu làm công việc kéo bia ở ngoài khơi Ulithi, để các chiến hạm của hạm đội thực tập tác xạ.Ngày này qua ngày khác, lúc bình minh chiến hạm kéo bia ra khơi, chiều xuống, khi cái đảo trở thành màu tím sậm thì con tàu trở về thả neo. Những cuộc kéo bia như vậy tạo ảnh hưởng rõ rệt trên con người của Queeg.Trong mấy ngày đầu tiên, ông ta trở nên gay gắt và nhỏ nhen hơn bao giờ hết. Ở phòng lái toàn nghe những lời thóa mạ chửi rủa. rồi ông ta rơi vào cảnh như bị hôn mê, giao cho Maryk chỉ huy hoàn toàn chiến hạm, kể cả việc kéo neo buổi sáng và vận chuyển trong con kinh trở về thả neo buổi tối. đôi khi trời mưa hay có sương mù, ông ta lên đài chỉ huy để làm vận chuyển. Nhưng thường là ông ta ở lại nằm dài trên giường, cả ngày lẫn đêm, đọc sách và chơi mấy trò chơi kiên nhẫn, hay là nằm nhìn lên trần.“Gửi riêng cho đại úy Keefer và Keith. Mạnh giỏi, những người trục lôi. Đến chơi với tôi đêm nay. Tôi đang mắc trực. Roland”.Lúc đi về lại Ulithi khi chiều xuống, chiếc Caine nhận được cái thông điệp bằng đèn từ chiếc hàng không mẫu hạm đang thả neo ở trong góc sâu của vịnh, giữa một đoàn tàu vừa tới trong ngày đang đậu đầy phía bắc của bãi neo, thành một đám với hình thon dài, đen sậm in trên bầu trời đỏ rực. willie đang đi phiên gởi viên giám lộ xuống tìm Keefer.Tiểu thuyết gia đi lên đài chỉ huy khi neo của chiếc Caine vừa rơi xuống nước.- Cái thằng khỉ sung sướng này nó làm cái gì trên chiếc Montauk – Keefer vừa nói vừa nhìn chiếc hàng không mẫu hạm qua ống dòm – Lần cuối được tin của nó thì nó đang đi trên chiếc Belleau Wood.Willie hỏi:- Mà từ hồi nào?- Tôi chả biết nữa, năm sáu tháng gì đó. Có bao giờ nó thư từ gì cho tôi đâu.- Hình như nó đi hết hàng không mẫu hạm này đến hàng không mẫu hạm khác.Keefer nở một nụ cười cay đắng. Cơn gió nhẹ của buổi chiều tà lay động mấy cọng tóc dài đen đúa. Keefer nói:- Phải tin rằng phòng nhân viên đã khinh miệt tôi một cách rõ ràng, có hệ thống... Tôi đã làm mười bảy cái đơn xin thuyên chuyển để được đi trên một hàng không mẫu hạm. Anh nghĩ mình có thể trả lời mà không làm rộn tới Queeg? lẽ dĩ nhiên là lão ta từ chối. Anh khỏi nhắc tôi chuyện đó. Tôi phải chơi trò đấu trí với lão ta mới xong. Chúa ơi! Tụi mình gặp nó ở Trân Châu Cảng được một năm rồi sao?- Tôi nghĩ vậy. Có thể là còn lâu hơn nữa.- Đúng vậy chứ. tôi thấy là cuộc tuần dương này dưới sự chỉ huy của Queeg đâm ra dài dằng dặc, không thua gì thời kỳ Phục Hưng. Mà thôi, cứ cầu mong là lão ta không nổi cơn khát máu lên.Queeg nằm trên giường, ngáp dài trên mất số tạp chí Esquire cũ xì, nói:- À này Tom, để tôi coi. Hình như là anh phải nộp cho tôi bảng kiểm kê tài liệu ngày hôm nay, mồng một tháng mười. anh đã làm xong chưa?- Chưa xong, hạm trưởng. như hạm trưởng cũng rõ là chiến hạm ngày nào cũng phải hải hành, với lại…- Ban đêm mình đâu có ở ngoài biển. Tôi cho là cuốn tiểu thuyết của anh, nó lại tiến triển khả quan trong thời gian này. Tôi thấy đêm nào anh cũng viết…- Thưa hạm trưởng, tôi hứa với hạm trưởng là sẽ làm xong bảng kiểm kê tối nay ngay lúc tôi trở về dù có phải thức suốt cả đêm.Hạm trưởng lắc đầu:- Tôi có những phương cách riêng của tôi và đó là kết quả của nhiều lần quan sát bản chất con người. và, còn hơn thế nữa, tôi rất đa cảm. chuyện này có vẻ lạ lùng với anh, nhưng nếu tôi chấp thuận một ngoại lệ, có nghĩa là tôi bắt đầu làm thêm nhiều ngoại lệ khác thì tất cả cái hệ thống của tôi sẽ đâm ra nát bét, cho dù anh nghĩ thế nào đi nữa về cách thức chỉ huy chiến hạm này của tôi, ít nhất nó cũng suông sẻ và tôi cũng chưa phạm một lỗi lầm nào. bởi vậy thật đáng tiếc,và không có gì là cá nhân cả nhưng tôi từ chối điều anh yêu cầu, trước khi anh nộp cho tôi bảng kiểm kê này.Keefer và Willie phải làm kiểm kê ngay đêm đó, được đệm theo với một nhạc khúc tuyệt vời bằng những lời chửi rủa của viên sĩ quan hải pháo. Đã hơn một năm nay Keefer bị nhục nhã và phát cáu lên vì Queeg chưa khứng chịu để anh ta bàn giao cho Willie các tài liệu mật. Ở Trân Châu Cảng Queeg đã buộc Keffer lấy lại hồ sơ từ Willie, mà theo như ông ta bảo là chỉ có hai tuần lễ, thời gian để Willie có đủ khả năng làm việc đó. Nhưng sau đó, từ tháng này qua tháng khác hạm trưởng đã từ chối lần hồi để cho Willie lấy lại phần công việc này.- Cuối cùng là tôi phải chịu thua cái tên kỳ cục sát nhân kia, không thèm năn nỉ ỷ ôi để thoát khỏi cái cực hình này – Keefer vừa nói vừa nghiêng đầu vào tủ sắt đầy nhóc những hồ sơ tài liệu – bởi vì tôi cũng mới nghiệm ra rằng lão ta không ngừng tỏ vẻ khoái chí mà nghe tôi phải năn nỉ xin xỏ. Lão ta có cách cứ để tôi phải giữ hồ sơ tài liệu của chiếc Caine dù tôi có thành đô đốc, nhiều sao hơn tôi. Lão này là một người bệnh thần kinh cổ điển. một phân tích tổng quát về lão ta có thể thay thế, làm đảo lộn tất cả những nghiên cứu của viên Phân tâm học Jukes và viên Kallikas.Keefer còn nói say sưa mấy tiếng đồng hồ nữa. Lâu lâu Willie chen vô vài câu đồng tình để che dấu cái thú vui độc ác của mình.Sáng ngày hôm sau Keefer đem bảng kiểm kê tới nạp ở phòng hạm trưởng, đưa cho ông ta với nụ cười khiêm tốn:- Hạm trưởng cho phép tôi lấy ca nô qua thăm chiếc Montauk?- Chấp thuận. Cảm ơn Tom – Hạm trưởng vừa nói vừa lật những trang của bảng kiểm kê – Anh đi chơi vui nhé.- Willie Keith cũng muốn đi với tôi, hạm trưởng.Queeg nhíu đôi mày:- Tại sao anh ta không đích thân tới xin phép tôi? Mà thôi. Tôi cũng chả muốn thấy cái bản mặt ngu đần của anh ta. Trong khi ở đó anh ta có thể lấy mấy công điện của AlPacs, và của AlComs anh ta chưa làm kịp.Khi Keefer đi ra ngoài boong chánh thì Willie đã chờ ở đó, dáng điệu bơ phờ dù ăn mặc bảnh bao sạch sẽ với đôi giày bóng loáng.- Tom, mấy chiếc hàng không mẫu hạm đã nhổ neo lên đường…- Chúa ơi, sao vậy cà?- Có hai chiếc đang ở trong kinh. Chiếc Montauk đang kéo neo.- Coi kìa!Keefer leo nhanh lên cái thang đài chỉ huy, đứng dựa bên một lan can, và nhìn sửng sốt về phía bờ hướng bắc. Bốn chiếc hàng không mẫu hạm đang đi viề hướng chiếc Caine.Willie nói:- Có thể là họ di chuyển đổi điểm neo về phía Nam.Keefer không trả lời gì cả.Chiếc hàng không mẫu hạm dẫn đầu vừa chạy ngang qua chiếc Caine chưa đầy trăm thước, cái khối thép khổng lồ của nó như phủ trên đầu Keefer và Willie giống như họ đứng dưới một cái núi sắt đồ sộ sơn màu xám đang nhúc nhích. Chiếc trục lôi hạm nhảy lên nhảy xuống do sóng xô tới của chiếc hàng không mẫu hạm.- Mình lên sân thượng đi – Keefer nói.Bây giờ mới tám giờ sáng mà nắng đã nóng như lửa trên sân thượng, nơi không có cái gì che phủ. keefer nheo mắt nhìn đám hàng không mẫu hạm bây giờ đến bảy chiếc, từ từ di chuyển trên mặt nước lấp lánh. Chiếc Montauk là chiếc thứ sáu của đoàn tàu. Tới đầu con kinh chiếc hàng không mẫu hạm dẫn đầu đối hướng qua bên phải, một cách nặng nề, tiến ra biển lớn.Keefer cay đắng than thở:- Bãi neo phía nam, đâu phải hướng đó đâu.- Chúng không có đâu lâu bao giờ - Willie trả lời.Anh thấy cần phải xin lỗi, như là anh chịu trách nhiệm cuộc hẹn bất thành của Keefer. Hai sĩ quan đứng yên lặng nhìn đoàn hàng không mẫu hạm lướt đi như là một đám rước kiệu to lớn.Keefer cắn môi dưới, nói:- Chắc chắn là chúng đi về phía Phi Luật Tân. Để chuẩn bị cuộc tấn công. Hay trừ khi là chúng hẹn gặp một toán chuyển quân đâu đó. Chắc chắn là như vậy, Willie. Một cuộc tấn công lớn.- Tôi thì tôi thích ở lại đây kéo những tấm bia. Tôi cũng giống như Roosevelt, ghét chiến tranh.Hai chiếc hàng không mẫu hạm khác chạy ngang qua chậm rãi. ChiếcCaine vừa lắc ngang vừa nhảy chồm sóng ngược, trì kéo trên cái neo căng thẳng.- Từ lúc cuộc chiến bắt đầu tôi chỉ có một hoài bão duy nhất – Keefer nói nhỏ, cứ mắt ngước lên nhìn những chiếc phi cơ đậu trên phía sân sau của chiếc Arnold Bay – là được phục vụ trên một hàng không mẫu hạm.Cuộc diễn hành của các hàng không mẫu hạm tiếp tục. Willie nói:- Hình như tôi nhìn thấy nó. Nhìn coi kìa, gần cái ổ súng 40 ly trên cái boong chứa phi cơ, ngay sau các lỗ dây neo. Đó, nó đó. Anh giơ cái ống loa cầm tay lên.Keefer đồng ý. Anh lấy ngay một ống loa cầm tay lớn màu xanh treo trên vách và đưa qua đưa lại ngang đầu. Chiếc Montauk tiến đến gần hơn và Willie nhận rõ ra Roland Keefer bằng ống dòm. Tên bạn cũ chung phòng của anh, đầu đội cát kết dã cầu màu đỏ sậm, vẫn có cái nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ, nhưng khuôn mặt thấy gầy đi. Nó giống thằng anh hơn lúc nào hết. Nhìn từ xa, ai cũng ngỡ Tom đang ở trên chiếc hàng không mẫu hạm.Roland la to trên cái ống loa, nói cái gì đó, nhưng những tiếng sóng vỗ làm át mất.Keefer la lớn:- Mày lặp lại đi..lặp lại…Nó mang ống loa ngang lỗ tai. Roland bây giờ ngang mặt hai người, cao hơn sáu thước, và có thể nhìn thấy nó khỏi cần dùng ống dòm. Lúc đi ngang qua nó còn nói với hai người. chỉ nghe được vài tiếng”…may mắn…cho lần tới…cái nghề bỏ đi…chào….Tom..”Tiểu thuyết gia hét lớn:- Chúc may mắn, Roland. Lúc về kể nhiều chuyện nghe.Hai người thấy Roland hiểu và cười. một lúc sau thì hắn đã xa rồi. hắn vẫn còn nói to với hai người điều gì đó, nhưng chỉ nghe được tiếng “…anh..”Willie và Keefer vẫn còn ráng nhìn theo cái nón kết đỏ sậm trong khi chiếc Montauk đi vào con kinh Mugai, tăng tốc lực chạy ra khơi.Dân chúng Hoa Kỳ biết rõ và rất mau chóng trận đánh lớn ở vịnh Leyte hơn là những thủy thủ đã tham gia cuộc chiến này, và lẽ tất nhiên hơn cả thủy thủ đoàn của chiếc Caine đang neo ở Ulithi. Trên chiếc trục lôi hạm cũ kỹ những tin tức của chiến trận nhận được rất ít ỏi, dưới dạng của những công điện mã hóa phiền toái, mà hầu hết là những hư hỏng của vài đơn vị với cái tên lạ hoắc: Surigao, San Bernardino, Samar…Willie đã giải mã một công điện sáng sớm ngày 26 tháng mười, khi anh thấyMissing page 410- Ông Whitely, mời ông đi xuống phía dưới, kể cho tụi tôi nghe đi. Keith đây là người bạn thân của Rollo.Trong phòng ăn sĩ quan, Keefer khăng khăng đòi rót cà phê cho Willie và Whitely, mặc dù Willie đã cố giằng bình cà phê để tự rót lấy.Whitely bắt đầu kể chuyện sau khi đã uống hết nửa tách cà phê:- Ông cũng nên biết, ông Keefer, rằng em của ông đã cứu chiếc Montauk. Anh ta sẽ được hải quân huân chương. Tên của anh ta đã có trong bảng đề nghị. Tôi cũng biết chuyện đó không có nghĩa gì nhiều, tôi muốn nói cho ông và gia đình anh ta, nhưng chắc chắn là anh ta sẽ được huy chương và anh ta rất xứng đáng được như thế.- Điều đó thì làm cho cha tôi rất vui lòng – Keefer nói giọng chán nản – chuyện gì đã xảy ra vậy?Thiếu úy Whitely bắt đầu tả cảnh chạm trán bất thình lình giữa toán hộ tống hàng không mẫu hạm của đô đốc Sprague với lực lượng chính yếu của hải quân Thiên hoàng ngoài khơi Samar, trong khung cảnh rối loạn của loạt mưa lũ và những màn khói mù. Cái hình ảnh của chiến trận rất là rời rạc và lẫn lộn. Anh ta kể được rõ ràng, ăn khớp khi nói tới sự hư hại của chiếc Montauk.- Mấy trái pháo của địch rơi trúng làm lửa cháy phía sau. Đó là một đòn trí mạng bởi vì nó cắt hết các trạm điều khiển phụ và ông hạm phó hy sinh ở đó, thông thường thì chính ông ta lo chữa cháy…trong thực tập. một sĩ quan ưu tú của hải quân, Trung tá Greeves. Roland là sĩ quan phòng tai thay thế đảm nhiệm chữa cháy. Rồi thêm xăng máy bay trên hầm chứa phi cơ bốc cháy làm rối loạn thêm nữa, nhưng Roland đã khôn khéo cho thảy xuống biển tất cả những ngư lôi và đạn dược. Anh ta rất tỉnh táo, các ông biết không, và anh ta chỉ huy toán cứu hỏa đàng hoàng đâu ra đấy. Tất cả kể như yên ổn hết rồi. Đám cháy được thu hẹp vào giữa chiến hạm, phía bên tả, gần sát cái sân chứa máy bay. Thế rồi có chiếc phi cơ khốn kiếp tự sát bay tới từ đám khói mù với mưa lớn, và đâm nát vào đài chỉ huy. Nó chắc có ngư lôi, bởi vì ngay lúc đó quang cảnh đã trở nên thật khủng khiếp. Một tiếng nổ dữ dội, lửa lan ra tứ phía, từng ngọn lửa to lớn rừng rực cháy trên sân bay, và chiến hạm bắt đầu hơi nghiêng về phía bên phải. Không có ai có thể nghe điện thoại từ đài chỉ huy, và ai cũng nghĩ rằng ông già đã tiêu rồi, thật là hỗn độn và rối loạn, mọi người chạy qua chạy lại tứ tung như đàn kiến, có cả những người nhảy xuống biển. Tôi chỉ huy toán cấp cứu bên tả hạm, nhờ vậy mà tôi còn sống sót. Chỉ có phía bên hữu hạm mới phải nếm mùi khổ ải. với tất cả những tình huống như vậy, các loa phóng thanh đều im bặt. Chung quanh đài chỉ huy những đám dây cáp nối liền với các ổ điều khiển bị bung ra khắp hướng. Chiến hạm quay vòng vòng như cái bông vụ, còn bị nghiêng, và những khu trục hạm tìm cách tránh né tàu của chúng tôi…và ở giữa nơi khói từ mịt trời bây giờ cái còi hụ chạy bằng ga mới bắt đầu rống lên. Có trời mới biết tại sao, và chả ai có thể làm cho nó ngưng được. Chúa ơi! Tóm lại, Roland đã làm chủ tình hình. Trên cái boong kho chứa phi cơ có một máy điện phụ chạy bằng xăng vốn để cho ban truyền tin, anh ta bắt đầu khởi động cái máy, nhờ vậy anh ta có thể ra lệnh qua máy phóng thanh cho những người đang chữa cháy. Anh đã cho xả nước làm ngập các hầm đạn và cho mở tất cả các vòi nước, tất cả hệ thống bọt Co2, và tất cả, kế đến là phòng tay lái có thể liên lạc với anh bằng điện thoại phụ, và cho anh biết là ở đó không còn nhận được lệnh lái hướng nào nữa. Roland bắt đầu chỉ huy luôn chiến hạm, ra lệnh cho phòng lái qua loa phóng thanh. Sau đó anh chạy trong phía hành lang để xem chuyện gì xảy ra ở phía trước. Ngay trong lúc ấy, một mảnh vụn oan nghiệt như một đóm lửa vừa rời khỏi đài kiểm soát không lưu văng xuống hành lang đúng ngay khi anh qua ngang đó… Tôi không hiểu cái gì nữa, cũng chả ai biết gì. Anh bị lãnh đủ. Người ta kéo anh ra và giải tỏa hành lang, anh bị thương nặng lắm. Nhưng anh cũng vẫn còn điều khiển việc chữa cháy và ra lệnh hướng lái cho chiến hạm. Có hai thủy thủ đỡ anh lên, băng bó, thoa thuốc mỡ và chích mooc phin cho anh.rồi trong lúc này đây viên sĩ quan không chiến, thiếu tá Volk, vừa bò ra khỏi những mảnh vụn của đài chỉ huy, ông ta hơi khiếp đảm, nhưng cũng còn khá hơn Roland, và cũng bởi vì ông ta là một sĩ quan thâm niên nhất còn sống sót, ông ta thay thế Roland chỉ huy chiến hạm. roland ngất đi trong lúc được đưa tới bệnh xá. Trong thời điểm đó, anh ta đã nói cho tất cả biết phải làm những gì mà người ta lặp đi lặp lại trong những khi thực tập báo động, và những cái khó khăn nhất thì đã thực hiện rồi. như tôi đã nói với các ông, thiếu tá Volk đã đề nghị hải quân huân chương cho Roland, và dĩ nhiên là anh ta hoàn toàn xứng đáng….- Anh có nhìn thấy nó sau đó không? – Keefer hỏi, hai mắt đỏ hoe.- Có chứ. tôi ở bệnh xá hàng giờ với Roland. Các ông biết không, tôi phải thay Roland trong nhiệm sở của anh. Anh ta đã chỉ cho tôi những việc phải làm trong ban, anh nói chuyện với tôi qua cái lỗ nhỏ còn lại của cái đầu bị băng bó kín gần hết. anh kiệt sức nhưng vẫn còn tỉnh táo. Anh bảo tôi đọc các công điện phải gởi đi về báo cáo hư hỏng, và bảo tôi sửa chữa vài chỗ. bác sĩ nói là có năm mươi phần trăm thoát khỏi được. anh bị phỏng cấp ba trên toàn thân thể. nhưng ngoài ra anh còn bị sưng phổi, và điều này làm vong mạng…anh nói với tôi là phải đi gặp ông, trong trường hợp…. – Whitely ngừng lại, lấy cái mũ cát kết, quay vòng vòng giữa các ngón tay – Anh chết trong lúc ngủ. Thật ra anh không phải chịu đau đớn gì nhiều, nhờ mooc phin và các thứ thuốc giảm đau…- Tôi cảm ơn anh đã tới đây – Keefer đứng lên.- Tôi…có những đồ vật còn lại của Roland, ở trên ca nô…không có gì nhiều - Tới phiên Whitely đứng lên – Nếu ông muốn xem…- Muốn chứ- Keefer nói – hay tốt hơn hết là cứ gửi đồ đạc các thứ nguyên như vậy cho mẹ Roland. Bà là thân nhân được thông báo, phải vậy không?Whitely đồng ý. Keefer đưa tay ra bắt và viên sĩ quan trẻ của chiếc Montauk siết chặt lấy bàn tay. Anh ta đưa tay lên hàm râu:- Tôi thành thật chia buồn, ông Keefer, Roland là một người rất đàng hoàng…- Cảm ơn, ông Whitely. Để tôi tiễn ông tới hạm kiều.Willie còn ngồi ở đó, hai cùi chỏ chống trên tấm trải bàn xanh, mắt nhìn bâng quơ vô vách, anh hình dung lại đám cháy trên chiếc Montauk. Keefer trở lại phòng ăn sĩ quan vài phút sau đó. Willie đứng lên nói khi cánh cửa mở ra:- Tom à, tôi hiểu là không thể biết bao nhiêu là đau đớn…Nhà tiểu thuyết gia nở một nụ cười héo hon trên môi, nói:- Rollo, nó…nó giỏi quá, phải không hả?- Ờ, thiệt là giỏi.- Cho tôi một điếu thuốc đi. Việc này làm cho mình phải suy nghĩ nhiều. Có thể là trưởng thành từ trường quân sự là một điều tốt, Willie. Anh nghĩ anh có thể làm được như nó không?- Không đâu! Gặp trường hợp một phi cơ nhào xuống nát bét như vậy, tôi sẽ là người đầu tiên phóng xuống biển. Roland rất cừ khôi ở trường sinh viên sĩ quan…Nó có tài…Keefer hít mạnh điếu thuốc thành tiếng kêu nhè nhẹ:- Tôi cũng không biết phải xử sự làm sao nữa. Có điều chắc chắn là, toàn là những quyết định ở ngoài tầm suy nghĩ thông thường. Chỉ là do bản năng. Rollo có bản năng. Người ta chả bao giờ biết nếu chưa bị thử thách…Anh ta quay gót đi về phòng.- Tôi thật là tiếc không thể gặp nó tuần qua.Willie nắm lấy cánh tay anh ta:- Tôi rất buồn, Tom. Và rất buồn cho cả Roland, và cả anh nữa….Keefer đứng lại. Để một tay lên đôi mắt, dụi mạnh và nói:- Tụi tôi chả bao giờ gần nhau cả, anh biết không. hai anh em tôi không ở chung một thành phố. Nhưng tôi thương nó lắm. Tụi tôi chỉ biết nhau nhiều hơn lúc ở đại học…nhưng lại nghĩ rằng nó rất ngu si, câm nín. Ông già tôi lúc nào cũng thích nó hơn tôi. Ông phải có lý do nào đó.Keefer đi về phòng kéo màn cửa lại.Willie ra phía trước chiến hạm, đi qua đi lại trong suốt một tiếng đồng hồ, không ngớt đưa muốn nhìn qua phía cái vỏ tàu méo mó, nám đen nhớp nhúa của chiếc Montauk. Mặt trời lặn xuống với màu đỏ tím ngắt, một cơn gió nhẹ và mát làm gợn sóng trên hồ. Willie cố gắng tưởng tượng ra hình dáng khôn lanh, thô kệch, làm biếng và mập phì của Roland Keefer trong vai anh hùng mà anh ta đóng ở Leyte. Anh không thể làm như hắn ta được. anh nhìn lên vì sao hôm lấp lánh trên nền trời đảo Ulithi đầy bóng dừa, và bên cạnh nó, một mảnh trăng lưỡi liềm mong manh như một lưỡi dao bạc. Bất chợt anh nghĩ ra rằng Roland không còn có dịp nhìn ngắm những khung cảnh như thế này nữa, anh ngồi thu mình bên cạnh đống thùng đạn mà rơm rớm nước mắt. giữa đêm hôm đó, Willie xuống phiên rồi nằm vùi trên giường. Anh ngủ thiếp đi một giấc nhẹ nhàng với những cơn mộng mị đầy hình ảnh sáng chói của May Wynn. Chợt có nhiều ngón tay sờ vào cạnh sườn. Anh cự nự, chúi mặt xuống cái gối và nói:- Anh tìm Ducely chứ gì? Ở giường bên kia. Tôi vừa hết phiên mà.- Tôi tìm anh chứ không tìm ai hết – Queeg nói – thức dậy đi.Willie nhảy ra khỏi giường, trần truồng hoảng hốt.- Dạ hạm trưởng…Trên tay cầm một bức công điện, bóng dáng Queeg in rõ trên cái phông màu đỏ của hành lang:- Đây là cái công điện của phòng nhân viên cho tàu mình. nó mới tới có hai phút.Willie tìm ngay cái quần lót.- Khỏi cần ăn mặc gì cả, trong phòng ăn sĩ quan không có lạnh, anh giải mã ngay lập tức đi.Cái lớp da của chiếc ghế tại phòng ăn sĩ quan bám dính chặt vào hai cái đùi trần trụi của Willie. Queeg đứng đàng sau nhìn qua vai anh, đọc từng chữ một ngay khi được đánh ra từ cái máy giải mã. Công điện thật là vắn tắt “Thiếu úy Alfred Peter Ducely được thuyên chuyển. đáp phi cơ sớm nhất trình diện phòng nhân viên Hoa Thịnh Đốn để được chỉ định đơn vị mới. ưu tiên chuyển vận hạng tư”.Hạm trưởng nói giọng bực tức:- Chỉ có vậy thôi sao?- Chỉ có bao nhiêu đó, hạm trưởng.- Ducely đã ở tàu bao nhiêu lâu?- Từ tháng Giêng, hạm trưởng. chín mười tháng gì đó.- Hừm, rồi mình chỉ còn có bảy sĩ quan mà thôi. Phòng nhân viên tụi nó bị điên mất hết rồi…- Nhưng mình sẽ có hai sĩ quan đang trên đường tới đáo nhậm, hạm trưởng. Farrington và Voles. Biết đâu họ tới đây nay mai.- Ông Ducely có thể chờ hai sĩ quan đó tới rồi mới rời tàu. Chắc tôi làm bản báo cáo khả năng quá tốt cho anh ta, hay là có chuyện gì gì đây.Hạm trưởng bỏ đi, bước chân nặng trĩu, hai vai thu gọn trong cái áo ngủ cũ kỹ. Willie nói với theo với giọng ngái ngủ:- Mẹ của anh ta có một hãng đóng tàu đó, hạm trưởng.- Anh nói là một hãng đóng tàu hả? – Queeg vặn hỏi. Và ông ta đóng sập cánh cửa.Suốt cả tuần không ai thấy hạm trưởng nữa, trừ hạ sĩ quan y tá, sau khi nhận cái công điện thuyên chuyển của Ducely. Ông ta bị chứng nhức đầu ghê gớm, gọi điện thoại cho Maryk biết như vậy. viên hạm phó chỉ huy hoàn toàn chiến hạm.