Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 22
Khổ vì nước

     ái thời hàng hải bằng thuyền buồm, một ngọn gió thổi từ phía sau kể như là một giáng phúc, nhưng đối với thời tàu chạy bằng hơi nước thì không phải vậy.
Trên đường đi Funafuti, hai trăm hải lý cách Kwajalein, chiếc Caine, với vận tốc cỡ mười gút, đắm mình vào trong những dãy mây đen dày đặc như những chiếc gối dơ dáy. Nó bị bao phủ bởi chính cái hơi độc của nó mà không thoát ra được. Gió nhẹ thổi từ sau tới cũng cỡ mười gút. Nếu tính theo gió biểu kiến thì cái khối không khí đối với chiến hạm đứng một chỗ. Trục lôi hạm như là di chuyển trong một sự im lìm kinh dị. Luồng hơi khói thoát ra từ các ống khói bay tới xoay xoay và cuộn tròn trên boong chánh, nặng nề, đầy dầu mỡ, gần như có thể nhìn thấy được. Cái mùi hôi hám, nó làm cho lưỡi và cổ họng bị ngứa ngáy, một mảng mỏng bắt buồn nôn, nó làm xốn xang đôi mắt. Không khí nóng bức và ẩm ướt. Mùi những thùng bắp cải phía boong sau phối hợp kỳ cục với mùi hôi thúi của khói. Thủy thủ và sĩ quan chiếc Caine, mồ hôi ướt đẫm, dơ dáy, không hy vọng trông chờ được đi tắm một phát thỏa thích, người này nhìn người kia với cái lưỡi dài thòng ra, và cặp mắt u buồn, vừa làm việc vừa giơ tay bịt mũi.
Chiếc Caine và một hộ tống khu trục hạm đi yểm trợ cho sáu dương vận hạm kéo lê cái vỏ nặng nề dài cả trăm thước, như những chiếc guốc, trông ra có vẻ rất là mong manh, người ta có cảm thấy rằng chỉ cần một đợt tấn công quyết liệt chọc thủng vào những cái vỏ rộng phình này, thì có thể phải kêu ngay nhiệm sở đào thoát. Mấy chiếc dương vận hạm nhấp nhô trên những lượn sóng, vận tốc tám gút, và hai chiến hạm hộ tống chạy qua chạy lại theo hình chữ chi, vận tốc nhanh hơn một chút.
Tình trạng thiếu nước Queeg áp đặt được hăm bốn giờ thì Maryk đến gặp hạm trưởng tại phòng ông ta. Lão đang nằm trên giường, trần truồng như nhộng. hai cái quạt máy, quay vù vù hết tốc lực, thổi đến trên mình lão những luồng gió mát, vậy mà cũng có mồ hôi chảy nhỏ trên cái bụng phệ trắng toát của lão. Nằm nguyên như vậy, chẳng thèm nhúc nhích gì hết, lão hỏi:
-  Có việc gì đó, Steve?
-  Hạm trưởng, tình trạng gió xuôi thật là bất thường, xin phép hạm trưởng cho xử dụng nước trở lại sau một ngày, thay vì hai ngày. Paynter nói với tôi rằng có đủ nước để xài cho tới Funafuti…
Queeg hét lớn:
-  Vấn đề không phải ở đó. Tại sao ở trên chiến hạm này ai cũng ngu hết trơn hết trọi vậy? Bộ anh tưởng là tôi không biết có bao nhiêu nước hay sao? Cái vấn đề là, bọn họ phí phạm nước, và phải cho họ một bài học để có lợi ích cho chính họ mà thôi.
-  Hạm trưởng, bọn họ đã biết bài học này rồi. Một ngày như hôm nay, y như là một tuần không có nước.
Hạm trưởng mím môi:
-  Không, Steve. Tôi đã nói bốn mươi tám tiếng, là bốn mươi tám tiếng. Nếu cái bọn này tưởng rằng tôi là một trong những kẻ lừng khừng nói ra mà không biết mình nói gì thì sẽ không còn cách gì để kiểm soát họ cả. Tôi cũng khoái tắm một phát vậy, Steve. Tôi hiểu các người thấy thế nào. Nhưng chúng ta phải chịu đựng những cái bất tiện như thế này vì quyền lợi của tất cả mọi người…
-  Tôi không xin cái này cho riêng tôi, hạm trưởng, nhưng bọn họ….
-  Anh đừng có bênh bọn họ nữa!
Queeg dựa vào cùi chỏ, ngồi lên và nhìn thẳng vào hạm phó:
-  Tôi cũng lo cho quyền lợi của tất cả mọi người không khác gì anh, và anh đừng có đóng vai hảo hớn. Họ có hay là họ không có phung phí nước? Họ có chứ. Vậy thì anh muốn tôi phải làm gì? Khen ngợi tất cả bọn họ hay sao chứ?
-  Hạm trưởng, mức tiêu thụ nước có gia tăng mười phần trăm. Nhưng chuyện xảy ra hôm nọ là ngày đổ bộ. tôi không cói đó thực sự là một vụ phí phạm…
-  Đủ rồi, đủ rồi, ông Maryk – Queeg quay nằm lại trên giường – Tôi biết anh chỉ muốn cãi để mà cãi thôi. Rất tiếc là không thể làm vừa lòng anh được. Trời hôm nay nực quá, lại hôi hám. Tôi không muốn bàn cãi gì nữa.
Maryk thở ra một cái làm rung rinh bộ ngực vạm vỡ của anh, dáng mệt mỏi:
-  Hạm trưởng, sau phần quét dọn cho họ tắm trong mười lăm phút, được không?
-  Trời đất! không có tắm rửa gì ráo. Ăn xúp và uống cà phê cũng đủ rồi, khỏi sợ thiếu nước trong người bọn họ mà. Chỉ vậy thôi. Lần tới đây, họ sẽ nhớ kỹ giùm cho rằng không nên phí phạm nước trên chiến hạm của tôi! Anh đi được rồi đó, Steve.
-  
Cơn gió xuôi chưa buông tha chiếc Caine đêm này, và cả ngày hôm sau. Ở bên dưới mấy boong tàu, không khí thoát ra từ mấy ống thổi hít vô không nổi, phần lớn toàn là hơi khói. Các thủy thủ rời bỏ phòng mình, ra nằm ngủ ở phía boong sau hoặc là ở trên boong chánh, càng xa mấy cái ống khói càng tốt. Vài người trong bọn mang nệm theo, nhưng phần lớn nằm dài hoặc lăn tròn trên cái mặt rỉ sét của sàn tàu, lấy áo phao làm gối. Trên đài chỉ huy, suốt đêm ai cũng thở khó khăn. Trong một vài đoạn của đường đi hình chữ Z, gió nhẹ thối tới bằng một góc độ rất hẹp, thay vì thổi ngay từ sau đuôi chiến hạm, lúc đó đưa cổ lên trên vách và có thể chồm ra ngoài để hứng một hay hai ngụm không khí ấm, trong lành, dịu ngọt không thể tả.
Sáng ngày hôm sau, một ánh nắng gay gắt ló lên từ mặt biển, chiếu thẳng vào chiến hạm mà ai cũng tưởng đang bị dịch hạch. Những thân hình trần truồng, dơ dáy nằm la liệt trên các boong tàu, bất động như người chết. Anh thủy thủ vận chuyển, có thổi còi thì cũng chỉ đánh thức phân nửa con số những người đó. Các thân thể giao động, ngồi chồm dậy, không làm gì được hết vì chân tay rã rời, nặng trĩu, như là thủy thủ đoàn ma quái trong truyện Rime đương nhiên the Ancient Mariner. Chiếc Caine đang ở cách xích đạo năm chục hải lý, đi gần như thẳng hướng nam. Mỗi giờ trôi qua mặt trời càng lên cao, không khí lại càng ngột ngạt và ẩm ướt hơn. Chiến hạm vẫn tiếp tục lướt đi trên mặt biển chói chang, tù hãm trong cái mùi hôi hám do chính nó tạo ra từ mùi hôi khói máy và từ các bắp cải.
Vào khoảng trưa, bản tính tự nhiên của con người trổi dậy. Đám cơ khí bắt đầu tích trữ nước trong phòng máy phía sau nơi có máy bốc hơi nước, và như vậy Queeg không thể thấy có áp lực trong bất cứ ống nước nào. Tin đó truyền đi trên chiến hạm nhanh không thua điện tín. Hai cái thang sắt chật hẹp đi xuống phòng máy nóng bỏng và đầy những thủy thủ ồn ào. Paynter biết ngay chuyện gì đã xảy ra, và báo cáo cho Maryk khi anh ta đang ở trong phòng hải đồ. hạm phó nhún vai:
-  Tôi chả nghe anh nói gì được cả. Khói làm tôi bị ù tai.
Cái mưu chước cứu rỗi này chỉ có thủy thủ đoàn hưởng lợi. rồi cũng tới tai các sĩ quan, thế nhưng, cho dù các sĩ quan đồng tình không kính nể gì Queeg, nhưng cái uy nghi của tư thế sĩ quan tượng trưng ở cái mũ sĩ quan dù mơ hồ nhưng được tôn trọng khắp nơi đã ngăn cản họ tìm xuống phòng máy.
Lúc ba giờ, Ducely gục đầu trên hai bàn tay bên cạnh máy giải mã, và thều thào nói với Willie là chịu hết nổi, anh ta phải đi xuống dưới phòng máy để uống nước. Willie nhìn hắn chăm chú. Thiếu úy Keith lúc này không còn giống một tay đàn dương cầm phúc hậu và vui tươi mới đi vào trại Furnald mười bốn tháng về trước. Đầy những vết nhăn chung quanh miệng và mũi, gò má nhô lên, và cái cằm giơ ra khỏi khuôn mặt bầu bĩnh. Đôi mắt long lanh trong hai quầng thâm sâu. Gương mặt anh đen đúa dầu mỡ, dính đầy những sợi tóc hung. Mồ hôi nhễ nhại rơi từ mặt xuống cổ thấm qua bâu áo, để lại mấy vệt ố nâu sậm trên áo.
-  Mày xuống phòng máy đi, thằng nhóc con khốn nạn! (Ducely cao hơn anh cả mười phân!) nhưng hãy khôn hồn ráng giữ cái áo phao luôn luôn trên người, vì tao đã thề với Chúa là tao sẽ quăng mày xuống biển.
Ducely thở dài thườn thượt, ngẩng đầu lên rồi gõ lóc cóc trở lại một cách yếu ớt trên cái máy giải mã.
Thật ra sự cô lập của hạm trưởng Queeg đối với các sĩ quan không hẳn là điều tuyệt đối như ông ta mong muốn, không có phòng vệ sinh riêng, ông ta bắt buộc đi xuống dưới sử dụng khu vệ sinh trong hành lang dẫn tới phòng ăn sĩ quan. Những lần xuất hiện đều đặn này của hạm trưởng trong nhiều giờ khác nhau làm phiền mọi người không ít. Các sĩ quan đâm ra có thói quen là hễ nghe tiếng “cách” của cánh cửa phòng lão, là có ngay những cử chỉ gương mẫu. người này nhảy ra khỏi giường và cầm lấy một mớ văn thư hành chánh, người khác đi vội tới cái máy giải mã, người thứ ba cầm ngay lấy cây bút đăm chiêu ngó vào tập báo cáo tình trạng quân tiếp vụ, người thứ tư mở nhanh cuốn nhật ký chiến hạm.
Bởi vì Willie và Ducely làm việc đàng hoàng, thì tiếng “cạch” cửa không làm họ bận tâm gì. Queeg lại hiện ra vài giây sau đó, kéo lê đôi dép nhớn nhác đi vô phòng ăn sĩ quan, đưa cái bộ mặt thảm não ra như mọi lần. hai người sĩ quan không nhìn lên, vẫn chăm chú giải mã. Im lặng bao trùm cho tới lúc đã đếm được từ một đến mười, chợt có tiếng thét hãi hùng trong hành lang. Willie nhảy lên, nghĩ rằng hay hy vọng với năm mươi phần trăm, là hạm trưởng đã chạm một chỗ câu điện hệ thống đèn hư nên bị giựt. Anh chạy ngay ra hành lang, có Ducely chạy theo sau. Nhưng hạm trưởng không có hề hấn gì, ngoài việc là ông ta la óng lên mà không ai hiểu được gì, hướng về phía phòng tắm sĩ quan. Thiếu úy Jorgensen, trần truồng như nhộng, cái mông đỏ to lớn của hắn nổi bật lên như một cái ngăn tủ đối với phân còn lại, đang đứng dưới cái vòi hoa sen, đôi vai rõ ràng là thấm ướt, sàn sắt dưới chân của hắn thấy có nhiều giọt nước. Một tay nắm chặt vào cái van của hoa sen, và tay kia rờ rẫm một cách máy móc bên cái lỗ tai để sửa lại đôi kính không ở ngay trên lỗ mũi. Mặt của hắn nở một nụ cười rất ngờ nghệch. Ngoài cả tràng âm thanh hỗn tạp thoát ra từ miệng hạm trưởng, người ta nghe  “…dám vi phạm tiêu lệnh của tôi, những tiêu lệnh rõ ràng của tôi? Sao anh dám làm vậy?”
Jorgensen lặp bặp:
-  Chỉ là nước còn lại trong ống thôi, hạm trưởng…ở trong ống, mà thôi. Tôi chỉ xài nước còn lại trong ống, tôi thề mà.
-  Nước còn lại ở trong ống, hử? Được lắm. Nước đó là nước mà tất cả sĩ quan trên chiến hạm này có thể xài được trong một vài ngày. Thủy thủ đoàn bị hạn chế nước tới năm giờ chiều nay. Các sĩ quan sẽ bị hạn chế thêm bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa. Anh thông báo cho Maryk chuyện này, Jorgensen, và anh làm cho tôi bản báo cáo cắt nghĩa tại sao tôi không thể cho anh một báo cáo xấu về khả năng, (ông ta khạc ra chữ “khả năng” như là một tiếng chửi thề) anh làm lập tức cho tôi.
Jorgensen lầm bầm trong miệng:
-  Nước ở trong ống mà, hạm trưởng…
Nhưng Queeg đã đi vào phía khu vệ sinh, và đóng sập cánh cửa. Keith và Ducely quay lại nhìn Jorgensen, vẻ nghiêm khắc và oán ghét.
Jorgensen nói bằng giọng của một nhân phẩm bị xúc phạm:
-  Các bạn ơi, tôi đã phải đi tắm một phát, vì nếu không tôi chẳng còn là một con người nữa. Tôi bảo đảm với các bạn là nước còn lại trong ống, không hơn không kém.
Willie nói với anh ta:
-  Jorgensen, cái phần nước của chín người đang chết khát đã chảy ngang qua cái khe lớn của cái bàn tọa này. Chỗ đó đúng là chỗ của nó bởi vì là ở đó tập trung cái nhân cách của anh. Hy vọng rằng điều này làm anh hãnh diện.
Sĩ quan của chiếc Caine phải chịu thêm hai ngày không có nước. Họ thay phiên chửi rủa Jorgensen, rồi sau đó cũng quên hắn đi. Gió đổi chiều, mùi hôi hám dễ sợ của mấy bắp cải và những làn khói dơ giảm bớt, nhưng trời càng ngày càng nóng bức và ngột ngạt.chả có việc gì để làm ngoài việc chịu đựng đau đớn, và nguyền rủa hạm trưởng. cả hai thứ này thì họ không thiếu.
Đảo san hô Funafuti là một dãy nhiều đảo thấp, xanh rì, rải rác trên một khu biển vắng. chiếc Caine tới đó sau khi mặt trời vừa tắt nắng, đi chầm chậm qua một lối đi hẹp nước xanh giữa một hàng trắng xóa của bờ đê nhỏ. Nửa tiếng đồng hồ sau đó chiếc trục lôi hạm cũ kỹ tới cặp phía bên tả hạm của chiếc khu trục hạm tiếp tế Pluto. Đã có hai chiến hạm khác đã cặp trước đó. Các ống được bắt vào rất nhanh chóng để lấy hơi nước, điện và nước. chiếc Caine được phép không cần đốt một ngọn lửa nào, và chiến hạm bắt đầu nuôi dưỡng mình bằng bà vú nuôi rộng rãi Pluto. Chiếc tiếp tế hạm này với cái tầm dây neo nặng nề của nó cộng lại, cũng cỡ gần  bốn trăm thước, xàng qua xàng lại trước bãi biển của đảo Funafuti.
Willie là một trong những người đầu tiên bước qua tấm ván giữa hai tàu. Qua bên đó đi tới thăm sĩ quan truyền tin của chiến hạm tiếp tế này giúp anh khỏi mất công một ngày trời giải mã. Một trong những nhiệm vụ của tiếp tế hạm là giải mã tất cả các công điện của hạm đội. tất cả các thứ công điện này: AlPacs, Alcom, AlFleets, GenPac, PacFleet, AlNavs, NavGens, SoPacGens, và CentPacGens…liên quan tới tất cả đơn vị, giới chức đang hoạt động trong hạm đội Thái Bình Dương, nườm nượp tới chồng chất không biết bao nhiêu công việc cho các sĩ quan truyền tin của từng chiến hạm.
Những con sóng ngầm giao động mặt hồ. Willie chậm chạp bước qua cái miếng ván bên trên cái khoảng chật hẹp giữa hai chiến hạm, bị sức gió hút, và nước khuấy lên một cách hiểm nghèo. Từ chiếc khu trục hạm sát bên chiếc Pluto, có một hạm kiều lớn chạy trên những bánh xe bắt ngay ngắn giữa hai chiến hạm. Willie bước ngang trên đó và đi tới bên một xưởng máy chạy rầm rộ. Anh đi lần mò quanh cái tiếp vận hạm to lớn này, băng qua băng lại trong mấy cái hành lang, leo lên leo xuống mấy nấc thang, đi ngang qua từ chỗ thợ rèn, phòng hớt tóc, xưởng mộc, khu giặt ủi… đến nhà bếp, có cả trăm con gà đang quay, rồi nơi làm bánh mì, cùng vài chục hàng quán văn minh tiện nghi khác. Nhiều đám thủy thủ đi tới đi lui thản nhiên ở mấy nơi sách sẽ, mới sơn phết này, phần lớn họ đang ăn cà rem trong những ly giấy. Trông bọn họ khác hẳn thủy thủ đoàn của anh, đa số già hơn, phì mập hơn, và ôn hòa hơn, họ đại diện cho một loại thủy thủ ăn rau cỏ, có thể nói như vậy, để đối lại với những con chó sói trên chiếc Caine.
Anh cuối cùng lại bước đến phòng ăn sĩ quan rộng lớn. Nhiều ghế dựa bằng da màu nâu kê quanh mấy tấm vách, không thiếu sĩ quan trong  bộ quân phục kaki đang nằm trên đó. Anh nhận thấy cỡ mười lăm mười sáu người nằm như vậy. Anh tới gần một thân hình to lớn và đụng phải vai hắn. Viên sĩ quan càu nhàu, quay lại, ngồi trên ghế và dụi mắt. hắn ta ngắm Willie một hồi, rồi nói:
-  Ý trời đất ơi! Ông vua điểm xấu, sinh viên Keith đây hả?
Cái khuôn mặt bầu bĩnh anh thấy cũng hơi quen, phân nửa nét đã bị xóa nhòa. Willie cũng cảm thấy lúng túng khi ngắm nhìn viên sĩ quan này, và anh đưa tay ra:
-  Đúng như vậy.
Anh trả lời, rồi nói thêm, khi chợt nhận ra người đối diện:
-  Anh có phải là thiếu úy Acres?
-  Hay lắm, chỉ khác một cái, tôi là trung úy – Acres nở ra một nụ cười khó thở - khó mà ai nhìn ra tôi dễ dàng. Cà phê chứ?
-  Ừ.
Vài phút sau đó, trong lúc quậy ly cà phê hắn ta nói tiếp:
-  Tôi lên cỡ hơn chục ký, tôi biết lắm. Bắt buộc, trên những loại tiếp vận hạm này. Cái gì cũng có… Coi anh cũng được đấy chứ. Gọn hơn. Chỉ có hơi phong trần. nhiệm sở tốt không?
-  Cũng không đến nỗi nào.
Willie đáp lại. Anh ráng giữ không tỏ ra ngạc nhiên đối với Acres. Người cựu sĩ quan huấn luyện viên này, nghiêm nghị và đẹp trai, đã trở thành một tên phì nộn.
Acres tiếp:
-  Không có nhiệm sở nào tốt hơn ở đây. Đó, anh thấy mấy tên này không?
Anh đảo ngón tay một cách khinh bỉ chỉ tới những người đang ngủ:
-  Thử hỏi chúng nó xem, và phân nửa tụi nó sẽ gào lên rằng chúng ghét cuộc sống buồn chán và thụ động, dính chặt vào cái đảo san hô trơ trọi này. Tất cả bọn họ đều muốn chiến đấu, chiến đấu, họ đều muốn tham gia cuộc chiến to lớn này, ai cũng nói như vậy. Khi nào, trời ơi khi nào, bọn họ mới nhận được lệnh thuyên chuyển đưa họ tới các đơn vị chiến đấu? Một lũ cọp giấy. Chính tôi kiểm soát tất cả thư từ của chiến hạm. Tôi biết ai xin thuyên chuyển, ai không. tôi cũng biết ai dậm chân la hét than trời trách đất khi có thể bị thuyên chuyển tạm thời xuống bộ tham mưu với một phó đề đốc trên một thiết giáp hạm. tất cả bọn họ đều khoái ở đây. Tôi cũng vậy, tôi thú thực như thế. anh dùng một sandwich với phô mai không? Ở đây có thứ phô mai roquefort ngon lắm.
-  Cảm ơn nhiều.
Phô mai Roquefort ngon tuyệt. Cả bánh mì cũng ngon.
Acres nói tiếp:
-  Phải nói là, Keith, cái bọn đớn hèn như tụi tôi ở đây cũng làm được nhiều việc có ích lắm chứ. Anh đã thấy khả năng của tàu này chưa? Hàng tá những khu trục hạm năn nỉ cầu xin được cặp vài ngày bên chiếc Pluto. Tụi này là một chiến hạm đa hiệu, làm đủ mọi thứ. Có được như vậy tại vì tụi tôi tổ chức giỏi, và không có những di chuyển vô ích, không có việc phải chạy tới chạy lui xả hết tốc lực, mà cũng không có những vụ báo động nhiệm sở tác chiến vô bổ làm mất thì giờ làm việc hàng ngày.
Hắn cắt thêm một khoanh bánh mì, quệt rất nhiều Roquefort trên đó:
-  Anh có gia đình không, Keith?
-  Không có.
-  Tôi thì đã có vợ. Tôi đoán là trong khóa sau của khóa anh. Anh thuộc nhóm tháng mười hai 42, phải không? Lâu quá, cũng lẫn lộn hết trơn rồi. Ờ, dù sao đi nữa, tôi cũng đã quen cô này, một thiếu nữ tóc vàng, thư ký của viện Anh ngữ ở Columbia. Có ba tuần lễ sau là tụi này cưới nhau.
Acres cười, thở ra một cái, uống cạn tách cà phê nghe cái rột, và chế vô thêm:
-  Này, anh biết không Keith, là sĩ quan huấn luyện viên tụi tôi ở toàn những nhiệm sở tốt. Xin chỗ nào được chỗ nấy. Tôi đã tự nhủ là sau một năm làm huấn luyện viên, tôi sẽ xin thuyên chuyển xuống tàu ngầm. Tôi đã đọc tất cả lý thuyết về tiềm thủy đĩnh. Mà đó là chuyện trước khi tôi lấy vợ, sau đó tôi nghiên cứu đủ loại chiến hạm của hạm đội Keith, và xin thuyên chuyển xuống một khu trục tiếp vận hạm. Khôn chứ. Thư từ tới đây đều đặn lắm. Và tôi sống nhờ nó đó, Keith. Có một đứa con hai tuổi chưa bao giờ thấy mặt. Một bé gái…Ở đây, tôi là sĩ quan truyền tin. À quên, đáng lẽ tôi phải hỏi anh trước, tôi có thể giúp anh được gì?
Acres dẫn Willie tới phòng truyền tin, một căn phòng rộng rãi trên boong chánh, kê đầy bàn ghế mới, và nhiều bàn cũng mới bằng thép tráng men xanh lá cây, những máy cà phê nóng bỏng trong mọi nơi, và rất nhiều thủy thủ ăn mặc tươm tất trong bộ đồ trây di xanh lơ đậm. Acres chỉ nói một tiếng, các thủy thủ đứng ngay dậy và lấy ra những giấy tờ, hồ sơ được xếp ngay ngắn, gọn ghẽ, họ làm phó bản các công điện đã giải mã trong mấy phút những gì mà Willie cần, và hàng loạt các công văn mới của hạm đội. Viên sĩ quan truyền tin của chiếc Caine khỏi mất công làm việc cả một tuần. Anh nhìn quanh trên những cái kệ, sách được sắp theo thứ tự, những giỏ thư hình như trống trơn, anh thấy các ngăn đựng giấy bìa bằng nhựa kiến đẹp đẽ trong đó để các phó bản công điện đã được giải mã, và bị chóa mắt bởi cái lối sắp xếp sạch sẽ kỳ lạ này. Mắt anh không rời Acres, bụng của hắn phình lên thành hai cuốn kaki trên và dưới sợi dây nịt. Viên sĩ quan truyền tin của chiếc Pluto, lật trong mớ hồ sơ các công văn gửi tất cả chiến hạm, nhìn cái lon trên cổ áo Willie:
-  Màu vàng hay là bạc?
-  Vàng.
-  Bạc mới phải, Keith. Anh được thăng trung úy trong công văn mới, gửi tất cả chiến hạm, từ tháng hai. Chúc mừng anh.
-  Cảm ơn nhiều.
Willie đưa tay ra bắt, nói thêm:
-  Nhưng còn phải chờ hạm trưởng tôi chấp nhận đã.
-  Ăn thua gì, cái này tự động mà. Anh hãy tự mua lấy vài cặp lon ở đây. Hãy theo tôi. Tôi chỉ anh ở chỗ nào có thể mua được. anh cần những thứ gì khác không?
Khi Willie từ giã Acres tại hạm kiều, viên sĩ quan truyền tin nói:
-  Anh rảnh qua đây ăn với tôi cho vui, trưa hay tối cũng được. mình còn có thể nói chuyện nhiều nữa mà. ở đây lúc nào cũng có dâu tươi và cà rem…
-  Chắc chắn rồi. cảm ơn rất nhiều.
Anh phải đi qua nhiều chiến hạ,mùi để trở về chiếc Caine. Anh bước ngang khỏi cái thang  sắt bắt giữa hai chiến hạm, đặt chân lên cái sàn đầy sét rỉ, dơ dáy của hạm kiều, anh đứng thẳng người như một tên lính Phổ và đưa tay chào Harding, làm cho hắn nở một nụ cười trên gương mặt héo hắt:
-  Trình diện trở về chiến hạm!
-  Bị phong giựt hay sao Willie? Chào theo kiểu đó coi chừng bị gãy tay đó.
Willie đi tới trước. Anh cười khi nhìn thấy bọn thủy thủ dơ dáy, luộm thuộm đi tới đi lui trên boong chánh làm công việc thường ngày của họ. Mackenzie, Jellybelly, Langhorne với cái cằm dài xương xẩu, Horrible với cái má lúm đồng tiền, Urban, Stilwell, thượng sĩ Budge, anh đi ngang hết người ngày tới người khác, và Willie bất chợt ý thức ra rằng mình chẳng có bà con, bạn bè nào mà anh biết rõ hoặc là dễ dàng đoán được phản ứng của họ hơn là đám thủy thủ của anh trên chiếc Caine này. Anh gọi một người:
-  Jellybelly, có sáu túi thư cho mình bên chiếc tàu tiếp vận. Bốn túi công văn và hai túi thư riêng.
-  Dạ nghe rõ. Tôi qua bên đó lấy về liền.
Ở cái boong giữa trước nhà bếp, một toán người đang chia xẻ và ngấu nghiên một miếng phô mai tròn lớn màu vàng, được bố thí đâu từ bên chiếc Pluto, vừa ăn vừa nói chuyện líu lo như chim cà cưỡng. Mảnh vụn phô mai rơi đầy trên sàn tàu. Willie nhận một khoanh lẻ, do Kapilian gốc Do Thái đưa cho, dính đầy dấu ngón tay, anh bỏ gọn vào miệng.
Trong phòng mình, Willie gắn lon trung úy mới vào cổ áo sơ mi kaki mới mua trên chiếc Pluto. Anh kéo màn cửa màu xanh lá cây lại, mặc áo mới vào, và ngắm riêng mình trong gương dưới ánh đèn vàng yếu ớt. Anh để ý thấy bụng mình xẹp lép, mặt thon lại, cặp mắt mệt mỏi, thâm quầng. Đôi môi xệ xuống và khô héo. Anh lắc đầu. Với động tác này, anh từ bỏ một kế hoạch đã chuẩn bị kín đáo cả tuần nay. Trên chiếc Pluto có sĩ quan tuyên úy, anh có đi ngang qua phòng ông ta, thế nhưng Willie hiểu rằng giờ đây anh không chạy đuổi theo vị tuyên úy và kể lể cho ông ta chuyện hạn chế nước. “Mày thật ra không là cái quái gì cả” anh nói lớn tiếng với cái bóng của mình trong gương “nhưng mà mày không cần phải đi van xin khóc lóc với  bất cứ ai trên chiếc Pluto. Mày là trung úy của chiếcCaine cơ mà”.