Nhóm dịch thuật Song Ngư
Chương 29
Bão tố

     hật là vĩ đại, những thiết giáp hạm, hàng không mẫu hạm tối tân đậu thành hàng lối trong vịnh san hô Ulithi, nhiều vô số trông giống như các tòa nhà chọc trời nổi trên mặt nước bao quanh bởi những cây cọ mảnh mai thật không tương xứng chút nào. Hải quân đã tập trung một chủ lực xung kích tại quần đảo san hô này để chờ tấn công vào căn cứ Luzon ở Phi Luật Tân, quả là một hải lực hùng hậu chưa từng thấy trên mặt biển địa cầu. Willie Keith ngồi hàng giờ tại mũi tàu chiếc Caine cũ sét và bé nhỏ, cố in vào trí nhớ quang cảnh kỳ vĩ của lực lượng xung kích này. Sự bày binh bố trận khiến anh rùng mình khi nghĩ đến hình ảnh của cuộc chiến sắp đến. Hầu như tất cả sức mạnh bạo tàn của lịch sử nhân loại đã được tập trung và thể hiện tại đây. Còn nhớ vào năm thứ hai đại học lúc tản bộ dọc theo đường Riverside vào thời bình, khi thấy các hạm đội cặp bến, anh đã vụng dại suy diễn rằng các chiến hạm chỉ như các món đồ chơi lớn và các ý tưởng về chiến tranh của quốc gia chỉ được ví như trí óc của trẻ con khi chúng so sánh lực lượng các quốc gia bằng số lượng và tầm vóc lớn nhỏ của các món đồ chơi với nhau. Từ sau dạo đó anh đã chứng kiến các “đồ chơi” hành động thật sự, có thể quyết định cái sống và cái chết, tự do và nô lệ cho đời mình, và sự hiểu biết từ thời anh còn là sinh viên đến giờ đã tiến xa hơn để hiện tại phải công nhận là hải quân có một tiềm lực kinh hồn đáng nể.
Nghĩ như thế chẳng qua chỉ là cái suy xét non nớt của chàng sinh viên năm thứ hai, vậy thì Ulithi là gì nhỉ? Đó chỉ là một vòng đảo san hô trong một đại dương bát ngát. Tàu cách xa mười hải lý dễ gì thấy được quần đảo này, và toàn thể hạm đội III, nếu chìm cùng lúc cũng không đủ làm mực nước biển dâng thêm một phần ngàn bề dày của một cọng tóc. Cục diện đấu trường trên thế giới giờ này không suy suyển, nó còn quá to lớn so với mưu toan đầy cao vọng của con người. thật ra, chỉ một trận bão, một trận cuồng phong nhỏ ở một góc biển nào đó cũng đủ để làm nên chuyện lớn.
Trong phòng hải đồ, Maryk đang kẻ trên hải đồ lớn Thái Bình Dương các dự báo giông bão theo các dữ kiện lấy từ tin khí tượng cho biết kinh độ và vĩ độ của tâm bão. Willie lững thững bước vào, đứng nhìn qua vai của Steve.
-  Steve, anh nghĩ sớm muộn gì tôi cũng sẽ được phụ giúp anh về hải hành chứ?
-  Dĩ nhiên rồi – Maryk lập tức đưa thước song song và compas cho Willie.
-  Cần theo dõi vị trí tâm bão, Willie, làm giùm ngay bây giờ đi.
-  Cảm ơn.
Willie gọn gàng đánh dấu ngay vị trí tâm bão bằng các dấu ô vuông màu đỏ.
Viên hạm phó bảo Willie:
-  Sáng nay khi tàu rời bến, anh làm point bằng cách đo hướng mặt trời, Engstrand sẽ lấy tốp. Nếu tối nay tàu không về lại bến kịp, nhớ làm point thiên văn và so sánh với vị trí của tôi đã ghi nhé!
-  Được rồi, mấy tuần qua tôi có làm point theo mặt trời, nhưng chỉ cho vui mà thôi.
-  Willie, bạn muốn chuốc họa vào thân đấy à? – Hạm phó nhe răng ra cười – Thế còn ngoài ra không có việc gì khác để làm sao?
-  Ồ có chứ. Nhưng hạm trưởng cứ chỉ định cho tôi làm công việc giải mã công điện riết rồi lụt nghề đi biển mất. Ngoài chuyện lo quân phục tươm tất, giữ tác phong và thường vụ chiến hạm cho tốt đẹp, nhưng  còn phải dợt nghề để còn phải đối phó với biển cả bão tố chứ.
-  Này, hàng năm vào mùa này….
Maryk mồi lửa điếu xì gà và bước ra boong tàu bên cạnh. Anh tựa cùi chỏ vào bờ thành tàu thấy vui vui trong lòng vì vừa tình cờ được có người phụ giúp cho một việc, dù chỉ là một việc tầm thường. Anh biết Willie Keith sẽ thận trọng khi đánh dấu ghi tâm bão. Cái nao nức học hỏi và điềm tĩnh đòi hỏi gánh thêm trách nhiệm của người sĩ quan trẻ đã mang đến một cảm giác dễ chịu cho vị hạm phó về việc sự dụng thời giờ có hiệu quả. Anh nhớ lại hình ảnh Willie khi mới đến là một thiếu úy được đào tạo cấp tốc, với gương mặt non choẹt, thiếu kinh nghiệm và lơ là, bĩu môi nhìn hạm trưởng De Vriess như thể một đứa trẻ vừa bị đét vào đít. “Tuy thế hạm trưởng De Vriess cũng đã lưu ý đến Wilie” Maryk nghĩ vậy. “Ông ta bảo mình ngay là tên này cần phải quay tóe khói mới khá được”.
Willie đến cạnh anh.
-  Đã kẻ xong.
-  Tốt lắm – Maryk rít một hơi xì gà.
Vị sĩ quan truyền tin tựa lên bờ thành tàu nhìn ra vùng neo tàu.
-  Cảnh trí trông hay đấy nhỉ? – anh ta nói tiếp.
-  Tôi nhìn mãi không thấy chán, thật là hùng tráng.
Sáng hôm sau các chiến hạm lớn ra khơi. Chiếc Caine bám sát, kéo theo bia tác xạ, và suốt cả ngày lẫn đêm hạm đội III tưng bừng náo nhiệt với từng hải đội thay phiên thực tập tác xạ vào mục tiêu trong khi hải hành về hướng Tây. Rồi đến phiên trục lôi hạm Caine quay về bến kéo theo cái bia nổi đã bị bắn tả tơi, trong khi lực lượng đặc nhiệm tiếp tục trên hải trình tiến đến xung kích các phi trường Phi Luật Tân. Quần đảo san hô Ulithi trông xơ xác khi chiếc Caine trở về, như một khán đài diễn hành khi lễ tất, như phòng dạ hội sau khi cuộc vui đã tàn. Chỉ còn trơ trọi các tàu cung cấp dịch vụ bến – Tàu tiếp tế dầu, trục lôi, phà nổi cung cấp xi măng cốt sắt, và hiển nhiên là chiếc tiểu đĩnh xấu xí loại ủi bãi luôn có mặt. Các chiến hạm hạng nặng đã vắng bóng, bỏ lại rác rưởi nổi lềnh bềnh cùng với sứa biển bám đầy.
Tàu thả neo, trong suốt thời gian của những ngày dài chán ngắt, Willie theo dõi các thành tích của lực lượng Đô đốc Halsey theo các bản tin của chương trình Fox. Công việc khác của anh là nhật tu hải đồ ghi các tâm bão di chuyển.
Willie đã lọt vào mấy trận bão ghê gớm nhưng may chỉ ở rìa mép ngoài chứ chưa xuyên qua một tâm bão nào cả. Anh mường tượng hình ảnh các cơn bão tố này qua những trang sách Conrad mà anh chỉ nhớ mơ hồ được phân nửa lẫn lộn với mấy chương mục mới học trong sách American Practical Navigator của Bowditch. Một đàng anh còn ghi nhớ mãi hình ảnh của đám hành khách Trung Hoa la ré lên khi bị lăn từ vách này sang vách kia trong hầm tàu đen ngòm ngập nước, kèm theo tiếng leng keng của những đồng đô la bạc bị tung lên tung xuống. Đàng khác anh hiểu rằng bão tạo thành do kết quả của khối không khí nóng và lạnh va chạm nhau: khí nóng bốc lên như bong bóng trồi lên trong bồn tắm và tạo thành khoảng chân không cho khí lạnh luồn vào, thêm vào ảnh hưởng của trái đất quay tạo thành cơn bão quay tít. Anh cũng không hiểu một cách thấu đáo tại sao bão xoáy ngược chiều nhau ở Bắc và Nam bán cầu, cũng không hiểu tại sao bão thường xuất hiện vào mùa thu, cũng tại sao bão lại di chuyển về hướng tây bắc theo đường vòng cung. Nhưng anh có để ý cả đề tài này trong sách American Practical Navigator kết luận với một lập luận cù nhầy muốn phân trần rằng một vài đặc tính của bão chẳng bao giờ có thể giải thích thỏa đáng được. Điều này khiến anh không còn bận tâm tìm hiểu cặn kẽ một cách khoa học về bão tố nữa. Và đã nhớ nằm lòng các chương pháp xác định hướng di chuyển và khoảng cách của tâm bão, và áp dụng các quy luật về nửa vòng tròn bên phải và bên trái để vận chuyển tránh bão, và anh đã chới với đối phó, rồi dần dà cũng lĩnh hội được cái lý lẽ của những quy luật này. Về sau anh lại vững tâm tự xem mình là một người đi biển đã thấu đáo được các kinh nghiệm về hải hành tránh bão.
Thật ra anh biết nhiều như bất cứ ai biết về bão dù chưa từng có kinh nghiệm trải qua một trận bão nào cả. Cũng như một sinh viên thần học còn ngây thơ cảm thấy bị bắt buộc phải học về tội lỗi để có thể chống lại tội ấy, điều này có thể khám phá ra bằng cách đọc truyện Ulysses và đọc thơ của Beaudelaire.
Một điện văn khẩn cấp từ bờ  chuyển đến tàu Caine vào một buổi chiều bỗng dưng phá tan được nỗi nhàm chán. Không phải lệnh công tác dòng bia tác xạ nhưng là một lệnh chỉ định chiến hạm vào đội hình bình phong bảo vệ cho các tàu dầu đến điểm hẹn để tiếp tế nhiên liệu cho hạm đội III. Viễn cảnh của một công tác nghe có vẻ tác chiến đã dấy lên một sinh khí vui tươi cho thủy thủ đoàn đang uể oải. sĩ quan cũng phấn chấn không kém. Sau bữa ăn tối, họ mải mê ca hát loạn xạ rồi kết thúc bằng một ca khúc thủy thủ “Hỡi cha muôn đời, hãy đến cứu vớt chúng con” mà nhất là hai câu cuối hợp âm thật hỗn độn và rên siết chói tai:
“xin Cha hãy nghe lời con kêu gọi
Cho những ai đang lâm nguy trên biển cả”
Đại dương đang sóng yên biển lặng, trời trong và ánh dương quang rực rỡ khi đoàn công voa tàu dầu ra khỏi kênh Mugai. Vị trí của tàu Caine ở cực hữu của đội hình bình phong cách chuẩn hạm 5000 yards. Đội hình di chuyển chữ chi theo đúng sách lược quen thuộc. Đoàn tàu dầu bệ vệ êm ả lướt sóng theo sau, và các khu trục hạm nhấp nhô đi tiên phong dò tìm tàu ngầm địch dưới lòng biển bằng máy SONAR. Các đội hình và các biện pháp đề phòng cẩn mật ở vùng lửa đạn đã được áp dụng theo đúng chiến thuật hải chiến. thật là một chuyến hải hành chán ngắt.
Hải đồ ghi tâm bão của Willie chẳng có ghi chấm vuông đỏ nào cả trên suốt vùng biển xanh giữa Ulithi và Phi Luật Tân. Do đó anh không quan tâm là có trận bão nào trên vùng biển này, và yên tâm làm việc. tuy nhiên, theo như lời hạm trưởng Queeg thường căn dặn, chớ bao giờ đặt giả thuyết một chuyện gì cả trong hải quân, nhất là liên hệ tới bão.
Đêm 16 tháng Chạp chiếc Caine bắt đầu lắc mạnh. Như thế cũng chẳng có vẻ gì là bất thường. Willie vẫn thường phải bám níu vào một trụ chống khi khuynh kế ở đài chỉ huy chỉ tàu lắc nghiêng đến 45 độ, biển xanh nhìn qua cửa sổ bên hông tàu đầy ắp sóng bạc đầu. Đang đọc sách The Old Curiosity Shop trong phòng, được một lúc anh thấy hơi nhức đầu và rồi có cảm giác buồn nôn như mỗi khi đọc truyện lúc biển động. anh nhét sách vào kệ rồi đi ngủ, dùng đầu  gối và bàn chân kềm giữ cho thân hình bớt chao động.
Nhân viên vận chuyển bất thần đánh thức anh. Như thường lệ anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
-  Bố khỉ, mới hai giờ rưỡi sáng…
-  Hạm trưởng muốn gặp trung úy trên đài chỉ huy.
Thế cũng hơi lạ đấy. Không phải là để quở phạt, hạm trưởng Queeg thường cho gọi anh hai ba đêm mỗi tuần khi anh đang ngủ để thảo luận về tính toán tiền nong hay giải mã điện văn, nhưng thông lệ thì ông ở phòng riêng. Một tay vịn vào giường trên trong khi kéo quần lên, Willie dù còn ngái ngủ nhưng cũng cố nhẩm lại phần kế toán mình vừa duyệt tính. Anh nghĩ có lẽ hạm trưởng sẽ hỏi về kế toán tiền giặt áo quần. Anh bước nghiêng ngả lên cầu thang, tự hỏi không biết tàu có lắc quá mạnh như mình tưởng không. Gió ẩm và nóng từ hướng chếch mũi hữu hạm rít qua dàn dây an toàn quanh tàu và dây chằng giữ các cột trụ cao. Mặt biển đen ngòm cuộn từng lớp sóng như muốn chồm lên cao vút tận trời. Bầu trời không một ánh sao.
Harding nói:
-  Ông hạm đang ở trên phòng hải đồ.
-  Đang ở tình trạng Bligh (biển động mạnh) hả?
-  Không hẳn thế. Cỡ biển hai.
-  Thế à, tốt…Hơi lắc một chút thôi.
-  Ừ, chỉ một chút.
Khi Willie đóng cửa lại, ánh đèn đỏ lóe sáng trong phòng hải đồ cho thấy hạm trưởng Queeg và hạm phó Maryk đang cúi đầu trên bàn hải đồ, cả hai còn mặc đồ lót. Hạm trưởng nheo mắt liếc một bên, bảo:
-  Willie, cậu vẫn nhật tu hải đồ bão đấy chứ?
-  Vâng, thưa hạm trưởng.
-  Này, hạm phó Maryk không giải thích thỏa đáng là tại sao trọng trách như thế lại ủy thác cho anh mà không có phép chấp thuậnt của tôi. Chắc anh cũng chẳng có cách nào giải thích nữa phải không?
-  Thưa hạm trưởng, tôi nghĩ rằng mọi cố gắng để trau dồi tăng tiến hải nghiệp rất được khuyến khích mà.
-  Anh nói thế là đúng, dĩ nhiên là để tăng tiến nghề nghiệp – thế nhưng – sau anh lại làm một cách vụng về như vậy?
-  Thưa hạm trưởng?
-  Anh nghe tôi chứ! Những dự báo về bão tố giữa Phi Luật Tân và Ulithi đâu? Anh muốn bảo là hàng năm vào thời điểm này chẳng có cái nào hả?
-  Thưa hết, không có. Tôi biết nước này thật bấn thường, nhưng cả vùng đều chẳng có dự báo nào cả.
-  Trừ phi ban truyền tin của anh lộn mất danh hiệu hoặc lơ tơ mơ chép sót dự báo dông bão, hoặc mất quách trang hồ sơ thay vì phải mã dịch và chấm tọa độ trên cái hải đồ đây này…
-  Tôi không nghĩ có chuyện đó đâu, hạm trưởng…
Hạm trưởng Queeg gõ đều nhịp ngón tay trỏ trên tấm giấy hải đồ gây nên những tiếng sột soạt
-  Này, phong vũ biểu đã hạ 14 điểm tối nay, còn gió đã đổi  chiều mỗi hai tiếng đồng hồ về bên phải và đang đến cấp bảy bây giờ đây. Tôi muốn anh soát lại tất cả các chương trình dự báo thời tiết trong 48 tiếng đồng hồ vừa qua, và tôi muốn tất cả các cáo tri về giông bão mã dịch lập tức và trình ngay cho tôi, và kể từ giờ phút này hạm phó Maryk phải trách nhiệm tu chính hải đồ bão cho tôi.
-  Dạ vâng.
Bất thần tàu chợt lắc mạnh hất Willie mất thăng bằng té nhào vào hạm trưởng Queeg. Cảm giác va chạm vào phần da thịt trần ướt lạnh của viên hạm trưởng làm anh rờn rợn. Anh vội nhảy ra xa.
-  Xin lỗi hạm trưởng.
-  Được rồi. Làm việc đi.
Willie vào phòng truyền tin, lục xem lại các lịch trình thông báo thời tiết Fox và chẳng tìm thấy gì. Anh uống cà phê với mấy nhân viên vô tuyến, trông gương mặt họ thất thần và tái mét, rồi rời phòng truyền tin, mừng như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng với những tín hiệu kêu bíp bíp. Mới chợp mắt được một chút trên giường thì nhân viên vô tuyến đem cà phê cho anh lúc nãy lại đến lay anh thức dậy:
-  Tin tức cảnh giác bão, vừa mới nhận được từ tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương gửi đến các chiến hạm đang hải hành.
Willie mã dịch công điện và mang lên phòng hải đồ. Hạm trưởng Queeg đang nằm hút thuốc trên giường. Hạm phó Maryk ngồi trên ghế mệt mỏi ngả đầu trên cánh tay đặt trên bàn giấy.
-  A, đã tìm được rồi chứ gì? Tôi đoán đúng ngay mà.
Vị hạm trưởng cầm bức công điện và đọc.
-  Thưa hạm trưởng, công điện này mới nhận được cách đây 10 phút chứ chẳng có cái nào khác trong các lịch trình trước đây cả.
-  À ra thế. Lại thêm một vụ trùng hợp ly kỳ trong hải nghiệp của anh đấy à, Willie? Này, may mà tôi bảo anh xét kỹ, cho dù công điện mới nhận được. Chấm ngay vào hải đồ đi Steve.
-  Dạ vâng.
Vị hạm phó xem xét công điện ghi bằng viết chì và lấy compas ra làm việc.
-  Chắc là đúng rồi, hạm trưởng. Hướng Đông Nam – cách 300 hải lý – xem nào. Đúng ra là 317 hải lý – tuy họ chỉ gọi là nhiễu loạn khí quyển theo hình tròn thôi…
-  Thế thì tốt. Càng nhẹ càng tốt.
-  Thưa hạm trưởng – Willie nói – nếu hạm trưởng nghĩ tôi nói láo về dự báo này thì hạm trưởng có thể vào xem xét trong phòng truyền tin.
-  Willie, sao lại thế! Ai lại cáo buộc người khác nói láo?
Vị hạm trưởng mỉm cười ra vẻ ngượng ngùng, gương mặt hằn những nét nhăn đen dưới bóng ánh đèn màu đỏ, vừa rít một hơi thuốc lá. Đầu điếu thuốc lóe ra màu sáng trắng kỳ lạ.
-  Thưa hạm trưởng, khi hạm trưởng bảo là một sự trùng hợp buồn cười….
-  Á à Willie, chớ có gây thành chuyện nhé – hạm trưởng nói như hát – chẳng phải đó là dấu hiệu của lương tâm cảm thấy có tội hay sao. Anh có thể đi ngủ được rồi.
Willie cảm thấy trong bụng như bị co thắt và tim đập mạnh hơn.
-  Dạ vâng.
Anh bước ra cánh phải và đứng chỗ có không khí tươi mát phà vào mặt. Nhưng khi tàu lắc về tả hạm, ngực bị đẩy ép sát vào thành của boong tàu cho tới khi anh cảm thấy mình đang nằm trên một thanh kim loại hướng xuống mặt biển. Một lát sau anh tựa sát vào thành tàu để khỏi bị bật ngược trở lại và cảm thấy hai bàn tay mình run lẩy bẩy trên bờ thành tàu trơn ướt. Anh tiếp tục ở lại đài chỉ huy, mặc cho gió dầy sóng dập mãi cho đến khi Paynter lên đổi ca. Rồi Willie xuống ca với Harding, cả hai vào phòng ăn sĩ quan tối om, đứng uống cà phê mà tay mỗi người phải ôm móc vào một cột trụ trong phòng. Vỉ sắt hâm nóng bình Silex đựng cà phê lóe đỏ trong phòng tối.
Hardy nói:
-  Tàu lắc dữ
-  Cũng chưa đến nỗi nào so với kỳ ở ngoài khơi San Francisco năm ngoái.
-  Ừ không…thế có trận bão nào quanh đây không?
-  Không có. Chỉ là cơn giông nhỏ về hướng Đông Nam. Chắc sóng lớn nên như vậy thôi.
-  Vợ tôi rất lo lắng về bão. Bà viết thư cho biết là nằm mơ cứ thấy tụi mình bị lọt vào một trận bão.
-  Như thế thì đã sao nào? Cứ giữ để hướng gió chếch mũi hay ngay mũi tàu tùy theo trường hợp, rồi thoát ra khỏi vùng bão. Tôi nghĩ đi chuyến này chi phiền nhất là chuyện bão tố.
Họ nhét tách đĩa cà phê vào chỗ cất trên bàn bên cạnh rồi ai về phòng nấy. Willie quyết không xài thuốc chống say sóng. Anh bật đèn giường ngủ lên rồi đọc truyện của Charles Dickens được chừng một phút rồi ngủ thiếp đi, ánh đèn còn chiếu sáng trên mặt.
Willie và hạm phó Maryk đứng bên boong cánh tả. Bây giờ là 10 giờ sáng. Trong ánh sáng nhợt nhạt ảm đạm vàng xám, biển nổi sóng sùi  bong bóng như bùn đen. Từng đợt sóng bạc đầu đổ sầm vào các trũng sóng sâu. Gió phả ập vào mí mắt anh. Xung quanh trùng điệp sóng nước bao la, thỉnh thoảng mới có những giây phút chiếc trục lôi hạm ì ạch lướt qua được một đỉnh sóng. Rồi họ mới nhìn thấy các chiến hạm khác khắp nơi, thiết giáp hạm khổng lồ và hàng không mẫu hạm, tàu dầu, khu trục hạm, tất cả đều lướt chồm qua các ngọn sóng lớn đang đập ầm vào phần mũi tàu và tan biến thành các dòng nước màu trắng đục. mũi tàu của chiếc Caine ngập hẳn dưới mặt nước cả tấc. Hai chiếc neo mũi cứ vài phút lại biến mất dưới các lượt sóng đen ngòm, và bọt sóng trào dọc boong tàu dồn về đài chỉ huy và tạt về hai bên. Trời không mưa nhưng không khí ẩm ướt như trong phòng tắm. Hàng loạt những đám mây đen kéo đến, tàu lắc ngang đỡ hơn đêm qua nhưng lắc dọc rất dữ dội. Sàn tàu bị nâng lên, rớt xuống như sàn thang máy.
-  Biển động thế này tiếp tế nhiên liệu sao được?
-  Tôi không biết – hạm phó nói.
-  Nhưng mấy cái tàu dầu quỷ quái đều kéo cờ đỏ Bravo chuẩn bị tiếp tế nhiên liệu.
-  Sĩ quan đương phiên – hạm trưởng gọi từ phòng lái – cho biết áp suất phong vũ biểu.
Willie mệt mỏi lắc đầu, đi về phía sau nhìn đọc phong vũ biểu và báo cáo qua cửa phòng lái.
-  Vẫn 29.42 không thay đổi, hạm trưởng.
-  Sao lại thế này, tôi cứ phải hỏi áp suất hoài sao? Cứ mười phút một lần báo cáo cho tôi.
-  Chúa ơi! – Willie thì thào với hạm phó.
-  Suốt bảy giờ không lên xuống gì cả.
Maryk đưa ống nhòm nhìn về phía trước. chiến hạm lơ lửng mấy giây liền trên đỉnh một triền sóng dài, rồi hụt hẫng rơi tõm xuống giữa trũng  sâu của ngọn sóng, nước bắn tung tóe gây tiếng vang chát chúa.
-  Có tàu nào đang được thiết giáp hạm New Jersey tiếp tế dầu trên kia kìa – phía chếch mũi tàu – tôi nghĩ ống dẫn dầu bị đứt rồi.
Willie chăm chú nhìn vào ống nhòm chờ một dịp cho tàu mình được sóng đưa lên cao. Anh thấy một khu trục hạm đang chạy lệch lạc một cách khó khăn bên cạnh một thiết giáp hạm ở phía sau một ống dẫn dầu đen thui ngoằn ngoèo trên mặt biển. Dụng cụ tiếp tế dầu còn lòng thòng tòn teng bên boong chánh của chiếc thiết giáp hạm.
-  Chắc họ chẳng tiếp tế nhiên liệu được bao nhiêu.
-  Chắc vậy rồi.
Willie báo cáo tai nạn với thấy đến hạm trưởng Queeg. Ông ta co ro trong chiếc ghế của hạm trưởng, đưa tay gãi cằm lún phún râu, và bảo:
-  Ờ mà tàu họ gặp xui chứ phải tàu mình đâu. Tôi muốn uống chút cà phê.
Lực lượng đặc nhiệm cố gắng thêm đến trưa chiều nhưng chỉ mất thêm nhiều ống chuyển dầu, dụng cụ dây kéo, và dầu bị tháo đổ xuống biện trong khi các sĩ quan trẻ như Willie trên các chiến hạm lại phê phán có tính cách đàm tiếu về quyết định không mấy khôn khéo của vị tư lệnh hải đội. Dĩ nhiên là họ chẳng biết gì về quyết tâm của vị Đô đốc chỉ huy về một dự tính không tập để yểm trợ cho cuộc đổ bộ lên Mindanao của Tướng Mac Arthur, và cần phải tiếp tế nhiên liệu cho đoàn tàu, nếu không thì hỏng cả công tác phi cơ bao vùng cho bộ binh. Đến 1 giờ 30 chiều lực lượng đặc nhiệm bỏ dở nhiệm sở tiếp tế nhiên liệu và bắt đầu di chuyển về hướng Tây Nam để thoát ra khỏi cơn bão.
Willie đi phiên từ 8 đến 12 giờ khuya. Anh dần dà mãi mới ý thức được là thời tiết cực kỳ nguy hiểm rất đáng quan ngại, qua hai cơn lắc ngang dữ dội, anh mới chợt kinh hãi. Anh cũng cố an tâm nhờ thái độ điềm tĩnh của nhân viên đang cầm tay lái tàu và các giám lộ viên đang vững kềm tay lái và chuyển lệnh rất mạch lạc cho phòng máy. Họ cũng đã mệt mỏi nhẹ giọng chửi rủa bậy bạ lẫn nhau trong khi phòng lái tối đen lắc qua lắc lại, trồi lên sụp xuống, rung chuyển và mưa xối xả tạt ngang vào các cửa sổ, nước cứ từng cơn bắn tung tóe vào sàn bên trong. Các chiến hạm khác đã mất dạng. Willie phải duy trì vị trí bằng tầm xa và hướng tương đối trên radar so với tàu dầu gần nhất.
Vào lúc 11 giờ 30 tối một nhân viên truyền tin người ướt sũng khệnh khạng mang lên công điện cảnh báo về bão. Anh đọc rồi đánh thức hạm phó Maryk đang ngủ gật trên chiếc ghế ngồi của hạm trưởng mà tay vẫn còn nắm chặt vào thành ghế để khỏi bị hất nhào. Họ vào phòng hải đồ. Hạm trưởng Queeg đang ngủ say trong giường phía trên bàn giấy, miệng há hốc, không hay biết gì cả.
-  Chỉ còn cách 150 hải lý về hướng đông.
Maryk vừa thì thào vừa dùng compas do khoảng cách trên hải đồ.
-  Tốt lắm, mình đang ở về phía nửa vòng tròn hải hành tránh bão – Willie nói – Chừng sáng mai là coi như thoát ra khỏi rồi.
-  Có thể lắm.
-  Thật thích thú khi sắp thấy lại ánh mặt trời.
-  Tôi cũng vậy.
Khi bàn giao phiên trực xong và trở về phòng, anh cảm thấy rất tin tưởng với cảnh vật quen thuộc chung quanh. Chẳng có món nào bị văng bậy đi chỗ khác. Căn phòng vẫn ngăn nắp, đèn trên bàn vẫn chiếu sáng, và mấy quyển sách anh ưa thích vẫn còn đứng vững và thân thiện trên giá sách. Màn cửa xanh lá cây và chiếc quần kaki dơ trên móc áo lắc qua lắc lại mỗi khi tàu lắc nghiêng thành một góc kỳ quái như thể đang bị gió thổi mạnh. Willie thật chỉ muốn ngủ vùi một giấc để ngày mai thức dây thật sảng khoái quên đi hết chuyện thời tiết xấu đêm nay. Anh nuốt ực một viên thuốc an thần, và chẳng bao lâu không còn biết gì nữa.
Tiếng động loảng xoảng lớn trong phòng ăn sĩ quan đánh thức Willie, anh nhỏm dậy nhảy bố  xuống sàn tàu, và nhận ra rằng tàu bị nghiêng dữ dội về phía hữu hạm, rất sâu, sâu đến nỗi anh đứng không vững. quá hoảng kinh khi đầu óc còn ngái ngủ, anh biết là chẳng những tàu đang lắc ngang mà không cảm thấy sức tàu dựng trả lại được.
Đang ở trần, anh phóng chạy hớt hải tới phòng ăn sĩ quan đang leo lét ánh đèn đỏ, tay phải tì vào vách hành lang hữu hạm để khỏi té. Sàn tàu chậm rãi trở về vị trí cân bằng. Tất cả ghế trong phòng ăn ngổn ngang chất thành đống nằm sát vào vách, chân và lưng ghế chổng gọng lên trời. Khi vào đến phòng ăn, mấy chiếc ghế lại trượt ngược trên sàn tiếp tục gây nên tiếng đụng chạm vang động. Cửa tủ đựng chén đĩa bị bật tung ra. Các tách đĩa bằng sứ trên tủ đổ vỡ tung tóe nằm dài theo sàn tàu.
Tàu lại trổi dậy rồi nhào về phía bên trái. Mấy chiếc ghế không còn trượt nữa. Willie còn đang ở trần thừa dịp chạy ngay về phòng, mặc vội quần dài vào.
Một lần nữa sàn tàu bị sóng nâng lên rồi nghiêng sụp về bên phải, và trước khi Willie biết được chuyện gì đang xảy ra thì anh đã bị hất tung vào giường ngủ và bị đẩy nằm sát vào thành tàu, tấm nệm phủ khăn trải giường như một bức vách màu trắng bên cạnh càng lúc càng dí sát vào anh. Trong khoảnh khắc anh tưởng mình sắp chết tới nơi trong chiếc tàu bị lật úp. Nhưng từ từ chậm rãi, chiếc trục lôi hạm gượng dần về phía trái. Thật ra anh chưa hề gặp trường hợp tàu không còn lắc như lúc này. Tàu không lắc được. chắc chết mất, ngẫu lực dựng không còn. Vớ được đôi giầy, chiếc áo, anh chạy nhanh ra boong giữa và leo gấp lên cầu thang.
Đầu đụng phải nắp cửa cầu thang còn đóng, anh cảm thấy đau điếng choáng váng và cảm giác như nhìn thấy những tia sáng chói lóa trước mắt. Vì cứ ngỡ là khoảng tối mình nhìn thấy bên trên nắp cầu thang là bầu trời tối đen bên ngoài. Nhìn vào đồng hồ đeo tay mới biết bây giờ đã 7 giờ sáng.
Trong khoảnh khắc anh sờ soạng dò tìm loạn xạ dưới nắp hầm bằng móng tay. Rồi mới hoàn hồn nhớ ra là còn có một cửa tròn bên dưới nắp hầm. Tay anh run rẩy quay mở khóa cửa. Mở được cánh cửa tròn, Willie ném giầy và áo ra trước rồi trườn người ra ngoài boong chính. Ánh sáng mờ xám làm anh phải chớp mắt. Những tia nước bắn tung tóe như những mũi kim châm đâm vào da thịt anh. Anh thoáng nhìn thấy đám thủy thủ đang tụ tập đông đảo dọc theo mấy hành lang nhà bếp, dương những đôi mắt tròn xoe trắng dã nhìn anh. Không để tâm đến cách ăn mặc của mình, anh phóng lên thang đài chỉ huy bằng chân trần, nhưng mới trèo lên được nửa chừng anh phải dừng lại để cố giữ chặt mạng sống của mình khi chiếc Caine lại lắc nghiêng về bên phải. Nếu không bám lấy được tay nắm cầu thang và tay chân móc chặt sát vào thì chắc anh đã rơi tỏm xuống biển đang sôi sục bong bóng xám xanh.
Ngay trong lúc đang ôm chặt cầu thang, anh đã nghe giọng của hạm trưởng Queeg trong máy phóng thanh vang lên nghe chát tai và thiểu não:
-  Các anh trong phòng máy trước, tôi muốn tàu chạy hết năng suất, tăng hết năng suất cho cái máy hữu chết tiệt này, nghe rõ chưa đấy, tăng năng suất tối đa khẩn cấp nếu các anh không muốn tàu bị đắm!
Willie cố lết lên tận đài chỉ huy tay dò từng nấc một trong khi con tàu trồi lên sụp xuống giữa những đợt sóng khổng lồ nhưng vẫn còn chúi nhủi trong triền sóng. Đài chỉ huy đông đảo đoàn viên và sĩ quan tụ tập thành nhiều nhóm, tất cả đều cố bám chặt tay vào trụ cờ, vách tàu, hay các chấu cột dây trên đài chỉ huy, ai cũng đang trố mắt như dám thủy thủ mà anh đã thấy ở boong chính. Anh kéo tay Keefer.
Gương mặt nhà văn trông xám ngắt.
-  Chuyện gì xảy ra vậy?
-  Nãy giờ anh ở đâu? Mặc ngay áo phao vào đi!
Willie nghe tiếng nhân viên cầm tay lái tàu la lớn trong phòng lái:
-  Tay lái tàu bắt đầu ăn rồi, hạm trưởng. Hướng 087!
-  Nghe. Tay lái hết bên trái.
Hạm trưởng Queeg cao giọng the thé ra lệnh.
-  Không tám sáu, hạm trưởng, hạm trưởng! Không tám năm! Tàu quay được rồi.
-  Cảm tạ Chúa – Keefer vừa nói vừa bậm môi.
Khi tàu quay trở lại bên trái, một luồng gió mãnh liệt thổi xé vào mặt, vào tóc của Willie.
-  Tom, chuyện gì đang xảy ra vậy? Chuyện gì thế?
-  Cái ông Đô đốc phải gió này đang cố cho tiếp tế nhiên liệu ngay trong tâm bão, chuyện là thế đó…
-  Tiếp tế nhiên liệu trong lúc này hả?
Chung quanh anh chẳng thấy được gì ngoại trừ những lượn sóng xám xịt bủa xuống thành bọt trắng. Willie chưa hề chính mắt mình nhìn thấy những đợt sóng lớn như thế này. Sóng cao như những tòa nhà ập đến tới tấp và mãnh liệt, chiếc Caine chỉ như một chiếc taxi bé nhỏ giữa những tòa nhà khổng lồ. Nó không còn lắc ngang lắc dọc như một con tàu đang lướt sóng mà chỉ còn như một mảnh rác trồi lên trụt xuống theo triền sóng trên mặt biển bị sóng gió xâu xé. Bụi nước tung tóe trên không. Không thể nào phân biệt là bụi nước hay là mưa, nhưng Willie biết ngay là bụi nước biển vì anh thấy mằn mặn ở bờ môi.
-  Có mấy chiến hạm chỉ còn mười phần trăm nhiên liệu – Keefer nói – nếu không được tiếp tế thì không thể nào qua khỏi được…
-  Trời ơi, còn nhiên liệu của mình thì sao?
-  Bốn mươi phần trăm – Paynter lên tiếng. Viên sĩ quan cơ khí nhỏ con này tựa lưng vào vách đài chỉ huy tay đang bấu víu vào giá móc bình cứu hỏa.
-  Tàu quay nhanh rồi, hạm trưởng! – Nhân viên lái tàu báo cáo – Hướng 062 …hướng 061…
-  Tay lái bên trái tiêu chuẩn! Máy hữu tiến ba! máy tả tiến một!
Tàu lắc về hữu hạm rồi trả về bên trái, cái lắc quá khủng khiếp, nhưng theo một nhịp điệu quen thuộc. Willie đã bớt phập phồng trong ngực. anh để ý nghe một âm điệu thật sâu, thật ai oán không biết từ đâu đến, lại như đến từ mọi phía lấn áp tất cả các giọng nói trong phòng lái, một tiếng động còn hơn cả tiếng sóng bổ, tiếng răng rắc của con tàu và tiếng rầm rồ của các ống khói tàu đang nhả khói đen. “Ô ô ô I I I I I I I I I “ tiếng kêu khủng khiếp như biển cả và không gian đang đau đớn “Ô Ô Ô ô I I I I I “.
Willie chuệnh choạng đi đến chỗ phong vũ biểu. Anh giật nẩy người nhìn chiếc kim run rẩy chỉ con số 29.28. Anh trở lại cho Keefer hay.
-  Tom, nhìn phong vũ biểu kìa…nó tụt xuống hồi nào vậy?
-  Nó bắt đầu giảm khi tôi lên phiên nửa đêm. Từ đó tôi ở suốt trên này luôn. Hạm trưởng và Steve cũng lên đây từ một giờ sáng. Trận gió khủng khiếp mới bắt đầu đây. Không biết là 15 hay 20 phút gì đó – chắc tới cả trăm gút…
-  Hướng 010, thưa đại úy!
-  Giữ hướng 000! Hai máy tiến hai!
-  Trời đất, tại sao thế - Willie nói – Mình đi hướng bắc hả?
-  Hướng hạm đội di chuyển ngược gió để tiếp tế nhiên liệu…
-  Họ sẽ không bao giờ tiếp tế được đâu.
-  Họ sẽ bị chìm nếu cố mà tiếp tế.
-  Tàu lắc ngang dữ quá không biết có sao không? mình có bị mất điện không?
-  Mình bị gió ngang và chắc tàu quay không nổi đâu. Cho tới giờ này – máy vẫn không sao cả.
Gió càng rít dữ dội “Ô Ô Ô I I I I “. Đến lượt hạm trưởng Queeg bị trượt té ngoài phòng lái. Gương mặt xám xịt như màu áo phao ông đang mặc, râu mọc tua tủa, cặp mắt đỏ ngầu gần như nhắm kín vì chung quanh mắt bị sưng húp.
-  Này Paynter! Tôi muốn biết tại sao máy đếch đáp ứng khi tôi ra lệnh cho tăng công suất.
-  Thưa hạm trưởng, máy đang tăng.
-  Đồ chết tiệt, anh cho là tôi nói láo à? Tôi nói cho anh biết đã một phút rưỡi rồi tôi chẳng thấy máy bên phải tăng gì cả, cho tới khi tôi phải hét qua máy phóng thanh…
-  Thưa hạm trưởng,gió…
(Ô ô ô I I I )
-  Không được trả lời tay đôi với tôi như thế! Tôi muốn anh xuống  ngay phòng máy của anh và ở lại đó để coi chừng bọn họ nhận lệnh và thi hành lệnh máy của tôi cho đúng và nhanh, nghe không?
-  Tôi sắp phải lên phiên trực đài chỉ huy rồi, hạm trưởng, chỉ chừng vài phút nữa thôi…
-  Không đổi phiên gì cả, Paynter! Anh khỏi phải trực phiên đài chỉ huy! Xuống ngay phòng máy và ở đó tới khi nào tôi cho phép anh lên, dù có phải ở đến 72 tiếng đồng hồ cũng phải chịu! và nếu còn đáp ứng lệnh máy trễ một lần nữa thì anh có thể bắt đầu chuẩn bị bào chữa trước tòa án quân sự là vừa!
Paynter gật đầu, nét mặt im lìm và thận trọng tụt cầu thang đi xuống.
Nhờ đi ngược gió nên chiến hạm Caine vận chuyển dễ dàng hơn. Cơn sợ hãi trấn áp các sĩ quan và đoàn viên bắt đầu dịu dần. Các bình cà phê mới pha được nhà bếp cho mang lên đài chỉ huy, và chẳng bao lâu như có luồng sinh khí phục hồi, nhân viên bắt đầu tán dóc. Những cú lắc dọc vẫn còn dữ dội đủ làm cho bao tử thấy khó chịu nhưng chiếc Caine đã trở về vị trí còn ngon lành và chuyển động của tàu không còn đáng sợ như những cú lắc đã nhấc bổng đài chỉ huy lên khỏi mặt nước. Đám đông bất thường tụ họp trên đài chỉ huy đã tản dần, số còn lại bắt đầu nhớ lại những giờ phút hãi hùng vừa qua trong các giọng điệu đã đỡ âu lo.
Sự lạc quan nhất thời này làm họ không chú tâm đến cường độ của gió rít ào ạt, của mây trôi còn dày đặc, và áp suất phong vũ biểu đã giảm xuống còn 29.19. nhân viên trên chiếc trục lôi hạm Caine cũ kỹ đã làm quen được với cái ý tưởng là họ đang bị lọt vào trong một trận bão. Họ muốn tưởng tưởng họ có thể chạy thoát ra được một cách an toàn, vì chưa xảy ra biến cố nào tức thời, và vì họ cố muốn tin như vậy, nên họ đã giữ vững lòng tin. Họ luôn mồm bảo “Tàu này hên mà, làm sao làm đắm nổi con tàu cũ kỹ rỉ sét này được”.
Willie cũng nghĩ như vậy. Cà phê đã làm anh ấm lòng và anh bắt đầu cảm thấy an vui vì đang ở vào một vị trí chắc chắn, và không phải âu lo. Anh đã hoàn hồn, đủ tỉnh táo để áp dụng ít kiến thức về bão tố học được từ sách American Practical Navigator của Nathaniel Bowditch, và tính ra tâm bão chừng 10 hải lý ở hướng đông đang tiến đến với tốc độ 20 gút. Anh cũng hơi vui, trông chờ chiếc Caine thoát vượt qua được tâm bão, anh tự hỏi không biết khi nào có thể nhìn thấy một vòm trời xanh giữa bầu trời đen tối này.
-  Tôi có nghe là anh sắp lên thay phiên cho tôi thay vì Paynter – Harding tới gần anh nãy giờ mà anh không hay vì mải quay mặt về hướng gió và đang tính toán trong đầu.
-  Đương nhiên. Tôi nhận phiên ngay bây giờ phải không?
-  Ăn mặc như thế này à?
Willie nhìn xuống, chẳng có gì che thân ngoại trừ chiếc quần ướt sũng. Anh nhe răng cười.
-  Quân phục không được đúng cách chứ gì?
-  Tôi không biết trong tình thế này mặc đại lễ và mang kiếm có cần thiết hay không – Harding nói – nhưng nếu mặc quần áo tử tế vào thì sẽ thoải mái hơn.
-  Tôi trở lại ngay.
Willie rời đài chỉ huy, tụt lẹ qua lỗ tròn nắp hầm, và không còn thấy đám đoàn viên tụ tập quanh các lối đi trên boong chính. Anh gặp Whittaker và vài nhân viên tiếp vụ trong phòng ăn sĩ quan, tất cả đều mặc áo phao, đang trải khăn bàn màu trắng, dọn dẹp các ghế ngồi, và nhặt các tạp chí còn vương vãi trên sàn. Whittaker nói với anh với giọng điệu thảm não:
-  Thưa trung úy, không biết ăn sáng sao đây, tôi đi lấy vài cái khay ở phòng đoàn viên, bát đĩa vỡ hết chỉ còn đủ cho chừng hai sĩ quan.
-  Thôi đi Whittaker, tôi nghĩ là anh không cần nghĩ đến ăn sáng cho sĩ quan ở đây. Thử hỏi ý hạm trưởng xem sao. Tôi nghĩ sandwich và cà phê là được rồi.
-  Cảm ơn trung úy!
Gương mặt mấy tiếp viên người da đen rạng rỡ trông thấy. Whittaker bảo:
-  Này Rasselas, khoan xếp bàn đã. Đi hỏi hạm phó như trung úy Keith vừa bảo đó.
Trong lúc anh đang cố gượng cho vững để mặc quần áo trong phòng, Willie chợt ngạc nhiên nhận ra là mới hồi sáng hôm nay vấn đề phải đương đầu là giữa sự sống và chết, thì bây giờ vấn đề thu nhỏ lại chỉ còn phải nghĩ đến việc ăn điểm tâm tại phòng ăn sĩ quan thôi. Anh lên tinh thần khi thấy các nhân viên vẫn nghiêm chỉnh làm việc như thường nhật và cái khung cảnh quen thuộc yên tĩnh của phòng mình. Ở dưới đây vẫn là Willie Keith, một kẻ bất tử như thuở nào, một Willie bất diệt, người vẫn hằng viết thư cho May Wynn và giải mã các công điện, và kiểm điểm các hóa đơn tính tiền giặt ủi cho sĩ quan.
Cơn giông bão khiến cho đài chỉ huy phải lo ngại quả như một loại phim đầy phiêu lưu, sôi động và mạo hiểm, vừa thích thú đáng để học hỏi nếu anh còn nhớ giữ được cho đầu óc tỉnh táo. Anh nghĩ sẽ có một ngày anh sẽ viết một truyện ngắn về trận bão, và chuyện liên quan đến việc các nhân viên tiếp vụ trên tàu cố lo cho bữa ăn sáng được chu toàn. Anh trở lên đài chỉ huy, gọn gàng, tỉnh táo và nhận phiên trực. đứng trong đài chỉ huy kín đáo không còn sợ nước biển tạt ướt người, một tay ôm vòng quanh chiếc ghế hạm trưởng, cho khỏi ngã, và nhe răng cười mạnh dạn tiến thẳng vào cơn bão tố, đang rít lên kịch liệt hơn bao giờ hết “Ô Ô Ô!!! I I I I i!!!”
Phong vũ biểu tụt xuống còn 29.05.