Nhóm dịch thuật Song Ngư
PHẦN SÁU: TÒA ÁN QUÂN SỰ - Chương 31
Luật sư biện hộ

     nh nắng ướt át trong buổi sáng mờ sương vùng San Francisco thả trên bàn của đại tá Theodore Breakstone, chiếu rọi vào tập hồ sơ dày cộm, đặt trên đống giấy tờ bừa bộn, có ghi hàng chữ CAINE bằng bút chì đỏ nguệch ngoạc. Đại tá Theodore Breakstone thuộc lực lượng hải quân trừ bị Hoa kỳ là sĩ quan quân pháp hải khu mười hai (Com Twelve). Breakstone, gương mặt thô kệch, mái tóc cứng, khô cằn, cái mũi to, lộ ra, đang ngồi trên chiếc ghế xoay, lưng quay về phía bàn viết, đăm chiêu nhìn về phía quân cảng, để tâm vào một chiến hạm chuyển vận tuốt dưới kia, đang quay quanh dây neo tàu theo với chiều nước thủy triều. đại tá Breakstone mong mỏi được đi tàu và giấc mơ của ông là được chỉ huy một tàu chuyển vận. Ông là một tay say mê tàu thuyền tài tử rất hăng say và đã từng chỉ huy một khu trục hạm, một thời gian ngắn, trong thế chiến Thứ Nhất nhưng bây giờ ông bị kẹt vì có thành tích là một luật sư tài ba phi thường ngoài dân sự. Phòng Nhân viên bộ hải quân đã tảng lờ như không hay biết các đơn xin thuyên chuyển xuống  tàu của ông vì muốn sử dụng đúng chỗ tài năng của ông. Ông thường biểu lộ bất mãn bằng một giọng cay đắng, một thái đội càu nhàu, những tiếng văng tục của một thủy thủ già.
Ông để trên lòng một chồng giấy trắng dài gạch hàng kẻ xanh mỗi cạnh với dòng chữ lớn: bản phúc trình điều tra về vụ cướp quyền chỉ huy của Thiếu tá P.F. Queeg, hạm trưởng chiếc Caine.
Trong vòng ba năm nay, đại tá Breakstone đã nắm giữ trong bàn tay lông lá của ông cả ngàn hồ sơ như vậy. Trong đó những văn từ, những thái độ, những cảm nghĩ qua lời lẽ vô căn cứ đã quá quen thuộc với ông rồi, giống như một bà lão lau nhà quen thuộc với những tì vết trên chiếc cầu thang cũ kỹ, những tên tục của những người sống trong nhà,ăn sâu vào tâm tưởng của bà. Ông không thể nhớ trường hợp nào chưa giải quyết xong mà làm cho ông phải bận tâm như vụ này. Điều tra vụng về. Lời đề nghị ngớ ngẩn. Những sự kiện của vụ án, đã khám phá được tới giờ này thật rôi ren ghê gớm. Ông rời bàn làm việc, bỏ dở không xem hồ sơ nữa, để đối phó lại với cơn nhức đầu, buồn ói, như khi mình đọc sách trên chuyến xe lửa gập ghềnh.
Ông nghe tiếng gõ trên tấm kính, ngăn giữa nơi làm việc của ông với văn phòng đầy nữ nhân viên quân nhân mặc đồng phục xanh, ồn ào, đầy bàn ghế, giấy tờ hồ sơ. Ông quay đầu lại, quẳng giấy tờ lên bàn và nói:
-  Vào đi, Charlie.
Viên thiếu tá bước vào qua lối cửa mở:
-  Thưa đại tá, tôi đã kiếm ra được một người.
-  Hay quá, ai vậy?
-  Đại tá không biết anh ta đâu, Barney Greenwald…
-  Hiện dịch hả?
-  Thưa trừ bị. Nhưng anh ta là một sĩ quan đầy nhiệt huyết. Trung úy phi công chiến đấu.
-  Mấy cậu phi công thì biết gì về luật hả?
-  Thưa đại tá, ngoài dân sự hắn là luật sư.
-  Luật sư mà là phi công chiến đấu?
-  Một người rất giỏi, thưa đại tá.
-  Greenwald, tên hắn phải không? Gốc Hòa Lan?
-  Anh ta là người gốc Do Thái.
Đại tá Breakstone hỉnh hỉnh cái mũi to của ông. Còn Charlie sửa lại dáng điệu cho ngay ngắn thêm nữa. Hắn đứng nghiêm chỉnh, một tay thọc trong túi áo, một tay  cầm xấp hồ sơ bìa màu đen, cử chỉ trông trang nhã nhẹ nhàng, thân mật mà vẫn giữ được vẻ tôn kính. Anh có mái tóc nâu sậm, dợn sóng. Khuôn mặt tròn, mang nét dí dỏm hoạt bát.
-  Nhưng thưa đại tá, như tôi trình bày trước, anh ta là một người rất đặc biệt…
-  Khổ chưa, tôi đâu có ý chống đối người Do Thái như anh đã biết đấy. Nhưng đây là một vụ án rất tế nhị. Thế thôi.
-  Thưa đại tá, tôi tin chắc anh ta đúng là người mà chúng ta muốn tìm.
-  Dựa vào đâu anh tin chắc như vậy?
-  Thưa đại tá, tôi biết hắn rất rõ. Hắn học luật ở đại học Georgetown, trên lớp tôi khi tôi theo học ở đó, nhưng tôi có nhiều dịp làm quen với hắn.
-  Vậy hả, ngồi xuống, ngồi xuống đi. Thế hắn đang làm gì ở Hải đội 12 vậy?
Charlie ngồi xuống ghế bên bàn làm việc, lưng giữ thẳng:
-  Thưa đại tá, hắn vừa lành vết thương, hắn nằm điều trị ở nhà thương vì bị phỏng cấp ba. Người ta giữ hắn lại tạm thời làm việc nhẹ, nhân viên sĩ quan bổ sung cho ngành bay. Hắn đang chờ bên y khoa chấp thuận trở lại phi đoàn.
-  Sao hắn bị phỏng vậy? Bị bắn hạ?
-  Thưa đại tá, không. Hàng rào chắn phi đạo bị gẫy. Máy bay của hắn bốc cháy, nhưng người ta đã kéo hắn ra được.
-  Như vậy không anh hùng lắm nhỉ?
-  Về chuyện không chiến, tôi không biết anh chàng có chiến công gì lớn không, nhưng tôi nghĩ hắn cũng đã hạ được vài chiếc máy bay Nhật rồi.
-  Làm sao anh nghĩ hắn đảm trách được vụ Caine?
-  Thưa đại tá, Maryk chẳng còn hy vọng gì và theo tôi nghĩ, Barney lúc nào cũng muốn nhận bào chữa cho những vụ loại này – Charlie ngưng giây lát và nói tiếp – Tôi đoán rằng Đại tá coi hắn có vẻ kỳ quái lắm phải không. Phải, hắn rất kỳ quái. Tôi thì đã quen tính của hắn. Quê hắn ở Albuquerque. Barney rất chú tâm tới người Da đỏ. Đại tá có thể cho hắn là người say mê về mấy chuyện này. Hắn chuyên môn về các vụ kiện của người Da đỏ, khi mới ra trường luật, cũng đã bào chữa thành công nhiều vụ kiện. Hắn hành nghề rất thành công về ngành luật tổng quát tại Washington DC trước khi gia nhập hải quân.
-  Hắn thuộc diện gì nhỉ? Trường huấn luyện sĩ quan trừ bị hải quân phải không?
-  Ngạch V-7 rồi chuyển sang ngành bay.
Breakston đưa hai ngón tay lên vuốt mũi mấy cái:
-  Nghe như có vẻ hắn thuộc đám cực đoan nhỉ?
-  Thưa đại tá, tôi không nghĩ vậy.
-  Thế đã bao giờ anh nói chuyện với hắn chưa?
-  Thưa đại tá chưa. Dù sao tôi cũng phải xin phép đại tá trước đã.
Đại tá Breakstone đan các ngón tay lại với nhau rồi bẻ khớp xương kêu răng rắc. Ông xoay qua xoay lại rồi nói:
-  Chúa ơi, không thể kiếm một tên hiện dịch được sao? Cái mà mình muốn tránh nhất là hiện dịch chống đối trừ bị. Vụ này tự nó cũng đã tai tiếng quá rồi.
-  Thưa đại tá, tôi đã nói chuyện với tám người trong danh sách đại tá đưa cho. Đây là một vụ khó nuốt. Họ rất sợ, và hai người đã được thuyên chuyển đi tàu biển rồi..
-  Thế anh đã nói chuyện với Hogan chưa?
-  Thưa đại tá rồi. Hắn năn nỉ xin miễn, gần như muốn chảy nước mắt. Hắn nói vụ này là vụ chắc chắn thua. Luật sư bào chữa chỉ chuốc lấy rắc rối cho cuộc đời binh nghiệp của mình thôi, chứ chẳng được ích lợi gì.
-  Đâu có phải như vậy.
-  Thưa đại tá, tôi chỉ trình bày lại những gì hắn đã nói thôi.
Breakstone đưa tay vuốt mũi mấy cái, nói:
-  Chuyện đó, trong trường hợp này, có thể một phần là như vậy. Khổ quá, phải có một người nào bào chữa cho vụ này chứ. Bao giờ anh dẫn Greenwald tới đây?
-  Thưa đại tá tôi hy vọng chiều nay.
-  Dẫn hắn đến đây. Mà đừng nói với hắn điều gì cả nghe không. Tôi muốn nói chuyện với hắn trước đã.
Trung úy Greenwald đến văn phòng đại tá Breakstone ngay buổi xế chiều hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với viên sĩ quan luật pháp, qua vài câu hỏi qua loa, cộc lốc, ông đưa cho hắn hồ sơ vụ chiến hạm Caine. Sáng hôm sau, khi đại tá Breakstone bước vào phòng, đã thấy viên phi công thân hình gầy yếu, đang đợi bên ngoài ngồi ủ rũ trên ghế.
-  Vào trong đi Greenwald. Anh liệu nhận vụ này được không? – Ông cởi áo mưa, máng vào mắc áo và thoáng thấy xấp hồ sơ nằm trên bàn giấy.
-  Thưa đại tá, tốt hơn là tôi không nên nhận vụ này.
Đại tá Breakstone đưa mắt nhìn quanh ngạc nhiên và hơi khó chịu. viên phi công đang đứng lúng túng ở lối cửa đi vào, nhìn chăm chú xuống mũi giày. Hắn có cái miệng rộng, duyên dáng và gương mặt xanh xao, mái tóc quăn màu nâu và đôi tay dài thậm thượt.
“Trông giống như anh chàng Harol Teen nhiều hơn là một luật sư ăn khách Do Thái”, đại tá Breakstone nghĩ, cũng như đã nghĩ thế hôm trước. Ông hỏi:
-  Tại sao không nhỉ?
-  Thưa đại tá, thật ra có nhiều lý do – Greenwald bẽn lẽn nhìn xuống – nếu có vụ án nào khác đại tá cần giúp..Tôi muốn nói là tôi không muốn có vẻ như không có tinh thần cộng tác…
-  Có vấn đề gì vậy? Vụ án hóc búa quá đối với anh chăng?
-  Thưa đại tá, tôi không muốn làm mất thì giờ của đại tá để nghe mấy ý kiến của tôi làm gì, vì thấy rằng….
-  Tôi muốn anh làm mất thì giờ của tôi. Mời anh ngồi xuống đi đã.
Đôi mắt cú vọ của Breakstone nhìn vết thẹo ghê gớm trên đôi tay bị phỏng kẹp giữa hai đầu gối của người phi công, lớp da ghép nhợt nhạt xanh mét, một viền quanh màu đỏ tươi, và những vẩy thẹo nhăn nhúm. Ông ta cố nhìn đi chỗ khác rồi nói:
-  Charlie đã nói cho tôi nghe, anh là luật sư tài danh, đã từng bào chữa cho những kẻ thấp cổ bé miệng…
-  Thưa đại tá, những người này không thấp cổ bé miệng đâu. Họ là những kẻ đáng bị trừng phạt xứng đáng.
-  Ông nghĩ vậy sao? Ừ, thực ra tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng họ vẫn còn phải tin cậy vào các luật sư biện hộ tài giỏi, vì họ không thể tự bào chữa được cho chính mình, thế nên…
-  Tôi nghĩ họ sẽ được tha bổng. Nghĩa là, thưa đại tá, nếu mình có một luật sư biện hộ thông minh kha khá.
Breaksone nhíu mày:
-  Anh nghĩ vậy sao?
-  Keith và Stilwell thì chắc chắn được rồi. Và Maryk cũng vậy nếu vụ này được một luật sư có một trí trí óc. Tôi nghĩ tôi có thể giúp họ được trắng án.
Viên sĩ quan pháp lý bị cái kiêu căng của người luật sư làm chới với, cái kiêu căng biểu lộ bởi một người luật sư có đôi vai chĩu nặng xuống, với một giọng nhát gừng nhưng có vẻ khiêm tốn.
-  Anh cho biết phải làm cách nào đây?
-  Đầu tiên, tội truy tố là hết sức lố bịch. Nổi loạn. Chẳng nói gì đến vấn đề bạo hành hay bất kính. Maryk chỉ cần phải thận trọng để nắm vững vấn đề về pháp lý thôi. Ông ta đã áp dụng sai điều luật 184 để phạm tội nổi loạn, nhưng điều luật đó có rõ ràng trong hải quy. Cái tội nặng nhất có thể buộc được mà có thể kết án được là tội làm rối loạn trật tự của đơn vị hoặc là vi phạm kỷ luật quân đội, nhưng như tôi đã nói, việc này không phải chuyện của tôi.
Sự đánh giá của ông đại tá về trung úy Greenwald đã chuyển hướng lên cao, vì những lời Greenwald phê bình về việc buộc tội cũng chính là những điểm mà ông đã nhận xét.
-  Đừng quên anh đang chỉ đọc các bản đề nghị điều tra, Greenwald, chứ không phải bản buộc tội chính thức. Tôi đang phác họa bản buộc tội, thực ra chính là tội gây rối loạn trật tự. Đây là tòa chỉ vỏn vẹn có một người, một đại tá thuộc lực lượng trực lôi, và tôi không nghĩ rằng ông ta nhận vụ Caine. Ở đây chúng tôi gặp trở ngại là thiếu người quá, và nếu có được người nào thì cũng chẳng ai có khả năng hiểu biết về pháp luật. Gặp được một người như anh, mà anh cũng rảnh nữa, gần như vậy, theo tôi nghĩ, anh nên thu xếp để lo công chuyện cho hải quân…
Breakstone nhận chuông, rồi đốt điếu xì gà có phần nóng nảy. thiếu tá Challee bước vào phòng:
-  Dạ đại tá gọi tôi? Chào Barney.
-  Challee, bạn của ông đang ở đây, dường như nghĩ rằng các vụ kiện này quá dễ hay sao đó. Ông ấy có thể đánh bại anh bằng một tay, có điều ông ấy không muốn tham dự thôi, đại khái theo như ông ta nói.
-  Thưa đại tá Breakstone, rất ân hận là tôi dính líu vô chuyện này – Greenwald nói – Jack có hỏi tôi, nếu tôi có chịu giúp công chuyện ở tòa án, mà chưa hề cho tôi biết chi tiết gì, và tôi nói ngay là được. Tôi đang phải làm mấy việc chán ngấy. Có điều là tôi chỉ không thích bào chữa cho các nhân viên chiếc Caine thôi. Hạm trưởng Queeg quả thật không bị bệnh tâm thần. Các bác sĩ chuyên môn đã chứng nhận như vậy. Mấy tên khùng này kiếm đâu được ý tưởng từ mấy trang trong hải quy, rồi hùa nhau chống đối một hạm trưởng khắt khe và xuẩn ngốc – giống như rất nhiều hạm trưởng khác – rồi tự mình bêu xấu mình và làm cho con tàu không hoạt động được. Tôi là luật sư giỏi, và đắt giá, và tôi không có ý muốn đóng góp vào việc bào chữa cho họ khỏi bị tội. nếu quý…
-  Anh tin chắc rằng sẽ bào chữa cho họ được trắng án hả? – Breakstone nói, miệng đang nhấm nhấm điếu xì gà.
-  Họ có thể được tha bổng.
-  Tôi thực sự muốn biết làm cách nào để được như vậy – Challee nói – Tôi chưa hề gặp ca nào đơn giản đến như thế này…
-  Này trung úy Greenwald, không ai có thể bắt buộc ông phải bào chữa cho mấy gã đó đâu – viên sĩ quan pháp lý nói – nhưng nghe anh nói, tôi nghĩ anh là một người rất trọng nguyên tắc. tôi nghĩ anh đã tự thuyết phục chính anh vào việc nhận bào chữa cho Maryk. Tám sĩ quan, kể cả bốn sĩ quan chuyên viên đặc trách pháp lý, đã phải từ chối, tránh ca này. Tôi chưa nghe người nào, ngoại trừ anh, dám cho Maryk một hy vọng nào để được trắng án. Điều kiện đầu tiên cho một luật sư biên hộ là tin tưởng vào ca của mình nhận. tôi tin rằng anh có nguyên tắc là một kẻ phạm tội xấu xa nhất phải được bào chữa hoàn hảo nhất, phải không?
Greenwald nhìn vào mấy ngón tay, cái miệng giống con nít của anh há ra, đôi mắt buồn rười rượi.
-  Tôi sẽ bị vướng dài dài vào vụ án này. Nếu tình trạng sức khỏe của tôi được khả quan thì…
-  Chiến tranh sẽ còn dài, đủ thì giờ cho anh đánh bóng mấy chiếc huy chương của anh mà – viên sĩ quan pháp lý nói
-  Đại tá sẽ truy tố cả ba người?
-  Trước nhất là vụ Maryk, còn Keith và Stiwell, chúng tôi còn chờ xem việc gì xảy ra sau đó. Đại khái tôi sẽ đề nghị với Đô đốc như vậy. đô đốc thường chấp thuận những gì tôi đê nghị.
-  Khi nào thì tòa án quân sự bắt đầu nhỉ?
Breakstone nhìn người phụ tá.
-  Tôi nghĩ việc xử án sẽ diễn ra trong vòng hai tuần lễ, thưa đại tá, nếu đại tá Blakely có thể thu xếp chủ tọa được. ông ta nói sẽ cho tôi biết ngay chiều nay.
-  Hiện chiến hạm Caine ở đâu? – Greenwald hỏi.
-  Đang cập cầu Hunter Point – Challee trả lời.
-  Tôi có thể tới đó để thảo luận với Maryk, trước khi tôi nhận lời được không, thưa đại tá?
Breakstone gật đầu.
-  Challee, cấp phương tiện cho trung úy Greenwald tới đó nhé.
-  Dạ vâng.
Greenwald đứng dậy nói:
-  Tôi đi ngay bây giờ.
-  Xe jeep sẽ tới cổng chánh trong vòng 10 phút nữa, Barney – Challee nói.
-  Được.
Chàng phi công dội chiếc nón lưỡi trai trắng viền xanh, trông có vẻ giống như một chàng thanh niên nghèo, một cậu bồi bàn, và thường dùng tiền kiếm được để mua sắm các đĩa nhạc thay vì để mua thực phẩm. Hắn bước ra, cánh tay đầy sẹo vung vẩy.
-  Thưa đại tá – Challee nói – anh ta sẽ nhận bào chữa cho vụ này.
-  Kỳ thật nhỉ - viên sĩ quan pháp lý nói – Xem ra rất phù phiếm và khiêm tốn, nhưng hắn tự cho mình là rất giỏi.
-  Hắn là một luật sư giỏi – Viên phụ tá nói – Nhưng hắn không cứu nổi Maryk đâu.
Trung úy Greenwald rất quen thuộc với các hàng không mẫu hạm. chiến hạm Caine nằm trong ụ, rỉ sét bừa bộn ngổn ngang, dưới mắt Greenwald, giống như một con tàu nhỏ chạy trong sông. Anh bước xuống theo các bậc thang gỗ thả ngang qua cầu tàu để đến chiếc tàu rà mìn. Trong đám vật liệu phế thải ngổn ngang trên boong tàu, anh nhận thấy một lỗ thủng to, đường kính chừng bốn bộ, hiện ra gần đó, phía sau động cơ kéo chiếc ca nô, các sợi dây cáp rỉ sét, rối xoắn. các ống sắt, ống dây cáp thò ra xung quanh lỗ thủng.
-  Tôi muốn gặp đại úy Maryk – anh nói với một thủy thủ, có gương mặt tròn, với bộ quân phục trắng đang đứng gác tại cầu thang.
-  Ông ấy không có ở đây, thưa trung úy.
-  Vậy ông ấy đang ở đâu?
-  Thưa trung úy, tôi đoán ông ấy đang ở chiếc Chrysanthemum. Ca nô hiện đang cột ở khu sĩ quan độc thân, tại cầu số 6.
-  Thế hạm trưởng của anh đâu?
-  Thưa trung úy, hạm trưởng White sẽ trở về vào lúc 6 giờ.
-  Hạm trưởng nào? Hạm trưởng White à?
-  Thưa trung úy, đúng đó.
-  Tên anh là gì?
-  Thưa trung úy tôi là Urban.
-  Ừ đúng rồi, Urban – Greenwald nhìn kỹ người thủy thủ này, y sẽ là nhân chứng chính cho Challee – hạm trưởng Queeg hiện nay đang ở đâu, Urban?
-  Thưa trung úy, hạm trưởng White hiện nay đã nhận chiến hạm này rồi – nét buồn nghiêm trọng thoáng hiện trên gương mặt người trung sĩ giám lộ.
-  Thế anh không biết hạm trưởng Queeg hiện đang ở đâu sao?
-  Thưa trung úy, tôi không biết gì về hạm trưởng Queeg cả.
-  Cái lỗ thủng trên boong tàu là gì vậy?
-  Chúng tôi bị trúng phi cơ cảm tử trong vùng Lingayen.
-  Có ai bị thương trong vụ này không?
-  Thưa trung úy không ai bị thương cả. Máy bay chồm lên cao rồi rơi xuống và rớt xuống nước.
-  Thế ai chỉ huy tàu sau đó, hạm trưởng White phải không?
-  Thưa trung úy, không phải – Urban cau mày, nghi ngờ và trở lại cầu thang trực.
-  Thế ai chỉ huy sau đó? Đại úy Maryk vẫn còn đảm trách con tàu phải không?
Urban cằn nhằn, mở sổ trực hạm kiều và làm bộ ghi chép nguệch ngoạc trong đó. Greenwald quay lại và bước lên thang dây đi thẳng tới tàu Chrysanthemum.
Nhìn thấy Maryk lần đầu tiên, đã làm người luật sư ngạc nhiên. Căn cứ vào bản phúc trình của ủy ban điều tra, anh hình dung được rõ ràng hình ảnh người hạm phó: mảnh mai, nhút nhát, ngăm đen, và với nét tự mãn của một người trí thức nhưng hẹp hòi. Thực tế, ông ta có dáng dấp của anh chàng Bill Pelham, một anh chàng Marxist to mồm của những ngày còn mài đũng quần ở đại học trong bộ quân phục hải quân. Đó là một sĩ quan mập mạp, đầu hơi nhỏ, gương mặt không mấy sáng sủa, đang chớp chớp đôi mắt giữa đống chăn giường ngổn ngang, ngồi bên thành giường, hai tay xoa xoa trên ngực để trần, đã làm thay đổi hoàn toàn ý niệm của Greenwald về vụ tàu Caine.
-  Với tôi, chỉ định bất cứ ai bào chữa đều được cả - Maryk nói một cách buồn bã – Tôi chẳng quen biết ai cả. cũng chẳng quan trọng gì, tôi nghĩ vậy. ông sẽ chỉ chuốc lấy nhiều phiền toái thôi.
-  Ông muốn sẽ cãi có tội hay không có tội?
-  Tôi chẳng biết nữa.
-  Tại sao ông tiếm quyền của ông ta?
-  Tôi nghĩ ông ấy là tên khùng.
-  Ông vẫn còn nghĩ vậy sao?
-  Tôi không còn biết tôi nghĩ điều gì nữa.
-  Ông đã tìm được tài liệu về hoang tưởng ấy ở đâu ra, để trả lời cho sĩ quan điều tra?
-  Tôi đọc trong sách vở - Maryk càu nhàu.
-  Xin lỗi Maryk, dường như ông chưa hiểu biết rành rẽ về vấn đề này.
-  Tôi chưa bao giờ nói là tôi biết gì về vấn đề đó. Chúa ơi, thay vì hỏi tôi về con tàu hoặc trận bão hoặc hạm trưởng, ông ta lại thẩm vấn tôi tới tấp hàng tiếng đồng hồ về vấn đề hoang tưởng. Tôi chịu thua ông ta về vấn đề này, tôi biết chắc như vậy. Tôi nghĩ mình đần độn, và tôi đã biết như vậy. Và tôi còn phải ra tòa án quân sự nữa – Maryk liếc nhìn về phía Greenwald, đôi chân mày nhíu lại, trên đôi mắt sâu thẳm – tôi muốn nói với ông cái này, cùng một sự việc dường như được diễn dịch khác biệt, những gì xảy ra tại tâm bão và những gì mình bàn tới tại Federal Office Building cách xa tâm bão sáu ngàn dặm.
Cánh cửa mở, và Keefer bước vào, với bộ quân phục mới toanh, nếp ủi còn mới, túi ngực viền đầy huy chương. Những sọc vàng phía dưới tay áo đã phai màu, phần trên tay áo màu vàng sáng chói. Anh ta mang một cặp da màu đen nhỏ:
-  Steve, tôi đi đây. Anh có giờ đi ăn trưa không?
-  Chắc không được rồi Tom. Trung úy Greenwald. Đại úy Keefer, sĩ quan trọng pháo. Kiếm được máy bay đi ưu tiên không?
-  Được rồi, phải thật là kiên nhẫn nỉ non với mụ già ở Phòng chuyển vận. Tôi tưởng tôi phải cưới bà ta trước khi lấy được vé máy bay.
Maryk mỉm cười chua chát:
-  Được, bạn cứ tự nhiên đi chơi vui vẻ đi.
Viên sĩ quan trọng pháo vỗ nhẹ vào chiếc cặp da và nói:
-  Nhận ra cái này không?
-  Tiểu thuyết phải không?
-  Phân nửa trước, tôi sẽ cố gắng đưa bán rong ở miền Đông trước đã.
-  Hy vọng anh sẽ kiếm được cả triệu!
Keefer đưa mắt nhìn Greenwald, do dự, rồi nhìn sang Maryk và nhếch mép nói:
-  Thôi, tôi đi đây cho được việc.
Cánh cửa khép lại.
-  Đây này – Greenwald cúi xuống nhìn mũi giày – Tôi là một luật sư khá giỏi, như mọi người đã biết đấy.
-  Anh phải thật là rất giỏi mới có thể giúp tôi ra khỏi vụ này
-  Tại sao ông nói vậy?
-  Bởi vì theo những điều gì lọt tới được Federal Office Building, thì tôi có tội. Theo những gì   tôi biết, tôi biết tôi có tội, dù anh có nhìn sự việc dưới góc độ nào cũng vậy. Nếu để cho bộ óc què quặt đủ thời gian là nó sẽ làm hư mọi chuyện thôi.
-  Tôi đang đói bụng – chàng luật sư nói – ta tìm chỗ nào kiếm gì ăn và bàn đến chuyện đó nhé.
-  Có tiệm ăn ở ngay cầu tàu số 8…
-  Thôi ta đến đó đi.
Maryk nhìn chàng luật sư, nhún vai và nói OK, đồng thời với lấy chiếc quần xanh nhàu nát, dưới chân giường.
-  Nếu anh nhận tội – Greenwald nói, giọng vút lên rổn rảng vượt lên tiếng những chiếc dao, kéo loảng xoảng khua vang trong chiếc khay kim loại, hòa thêm âm thanh inh ỏi của hàng trăm thợ thuyền thuộc hải xưởng từ xa vọng lại, giữa đám hơi nước bốc lên mù mịt từ chiếc chảo xúp cà chua, bắp cải đng nấu, và con người – Thì mọi chuyện chỉ còn là hình thức thôi. Ngay cả trường hợp nhận tội, mình cũng không chỉ đứng dậy và nói ‘Có tội’ trong phiên xử công khai. Mình thương lượng với Challee. Đó là một vụ kiện kỳ quặc, bẩn thỉu mà Challee muốn chắc ăn sẽ nương tay một chút…
Ông hạm phó lơ đãng đưa chiếc nĩa trứng chiên lên miệng rồi hớp một ngụm cà phê:
-  Về việc thương lượng tôi rất vụng về.
-  Ừ dĩ nhiên rồi, luật sư sẽ đảm trách việc ấy cho anh.
-  Anh Greenwald, theo hải quy thì tôi có tội nhưng tôi cảm thấy không muốn cãi nhận tội. Chúa ơi, tôi đâu có muốn lấy con tàu làm gì đâu, tôi chỉ muốn cứu nguy chiến hạm thôi. Nếu tôi có sai quấy khi cho rằng Queeg là người mất trí, đó là một chuyện, nhưng tôi chỉ đang cố gắng làm điều gì tôi nghĩ là đúng…
Greenwald gật đầu, liếm môi dưới.
-  Không có ý định phạm tội ác
-  Đúng vậy. không có ý định phạm tội ác.
-  Ừ, không thể nói là nhậntội được. để cho bọn họ phải chứng minh là anh có tội đi….Thế ông bạn Keefer của anh nghĩ sao về hạm trưởng Queeg?
Cặp mắt ông hạm phó liếc nhìn sang bên cạnh.
-  Đây này, tất cả đều là trách nhiệm của tôi – và chuyện phải là như vậy thôi.
-  Thế Keefer có nghĩ Queeg mắc bệnh hoang tưởng không?
-  Tôi chẳng biết anh ta nghĩ gì. Thôi bỏ hắn ra ngoài chuyện này đi.
Greenwald đang mân mê các móng tay.
-  Anh ta giống một gã có lần tôi đã gặp ở trường học. Một anh chàng tên là Pelham.
Gương mặt của hạm phó buồn rầu cay đắng, nét nhìn đăm chiêu vời vợi. Nốc cạn ly cà phê.
-  Cà phê ở đây dở quá đi thôi.
-  Maryk, tôi đang có ý muốn biện hộ cho anh, nếu anh muốn.
Maryk gật đầu, và nhìn thẳng vào mắt luật sư, nét cau có đã biến dần và trở nên thành khẩn biết ơn:
-  Được rồi, cảm ơn anh nhiều. dầu gì tôi cũng phải có luật sư…
-  Bộ anh không muốn biết khả năng của tôi hả?
-  Tôi nghĩ khả năng của anh quá tốt rồi nếu không văn phòng pháp lý không gởi anh tới cho tôi làm gì.
-  Cũng được, nhưng anh cứ nghe một chút. Tôi là một luật sư ăn khách ngoài dân sự. tiền thù lao của tôi khoảng 20 ngàn một năm, chỉ sau có bốn năm ra trường – gương mặt trẻ măng của anh ta hiện ra một nụ cười kín đáo đặc biệt, nét sáng ngời quanh cặp mắt tươi tắn. hắn e dè nhìn ngang vào chiếc thìa hắn dùng để vẽ mấy vòng tròn bằng những giọt cà phê rớt trên mặt bàn – chẳng những vậy, tới năm thứ ba sau khi ra trường, tôi đã móc ra cả trăm ngàn đô la của chính phủ cho mấy người Cherokees bị lường gạt về đất đai 40 năm trước.
-  Chúa ơi, chắc là anh lôi tôi ra được đó – ông hạm phó nói, nhìn Greenwald tuy hơi hoài nghi.
-  Tốt hơn tôi còn muốn nói với anh một điều nữa. thà tôi buộc tội anh hơn là tôi kháng tội cho anh. Tôi chưa biết anh bị tội nặng tới đâu. Hoặc anh là một người nổi loạn hoặc anh là một kẻ ngu ngốc nhất trong hải quân, nhưng không có trường hợp thứ ba – Maryk chớp mắt ngạc nhiên – Nếu anh cung cấp cho tôi tất cả những chi tiết, chúng tôi sẽ dùng để đặt kế hoạch bào chữa cho anh. Nếu anh cứ giữ thái độ câm nín im lặng, vì anh quá tự hào, cao thượng và bị xúc phạm, anh cứ một mực nói như vậy, thì tôi sẽ trở về nhiệm sở của tôi.
-  Anh muốn biết những điều gì? – viên hạm phó hỏi, sau giây phút im lặng tràn ngập tiếng ồn ào của tiệm ăn.
-  Tất cả những gì liên hệ đến anh, Keefer, Keith, và mọi thứ khác đã giải thích cách nào mà dẫn anh vào cái trò ngu xuẩn đó.
-  Ừ, anh bảo đó là ngu xuẩn – Maryk la lớn – mọi người ai cũng nói là ngu xuẩn, giờ đây tất cả chúng tôi còn sống để nói lên điều đó. Nếu Queeg và tôi và toàn chiến hạm đã chìm trong lòng biển sâu…Tôi  đoán chỉ có một cách tôi có thể chứng minh là tôi đã làm đúng nếu tôi đã không thay thế Queeg và chiến hạm đã bị lật úp, như là nó đã gần bị như vậy. Ba  chiến hạm bị chìm trong trận bão đó, anh biết không?
-  Đúng vậy. bốn chục chiếc còn nổi, mặc dù vậy, không có hạm phó nào cướp quyền chỉ huy hạm trưởng.
Maryk nhìn quá đỗi ngạc nhiên. Anh lấy ra một điếu xì gà và ngắm nghía cẩn thận, trong lúc anh đang lột lớp giấy bóng nhàu nát bọc ngoài.
Anh thật sự ngạc nhiên. Greenwald đã ép buộc anh, để phải tiết lộ cái ý nghĩ bí mật tự bào chữa của mình, một sự an ủi anh đã tự hào, lặng lẽ áp đặt vào cảm nghĩ của anh trong suốt thời gian khốn khổ mà anh đang phải đương đầu. viên hạm phó chưa bao giờ ngờ đến cái quan điểm mỉa mai vặn vẹo mà chàng luật sư vừa đưa ra, vì anh quá bận tâm trong lối nhìn sai lầm về hành động oai hùng của mình, sự phản bội của Keefer, và định mệnh cay nghiệt đang tiến đến gần anh.
-  Anh quê ở đâu vậy? – Maryk hỏi.
Greenwald tỏ ra không ngạc nhiên về câu hỏi ngoài lề này, hời hợt  trả lời:
-  Albuquerque.
-  Ồ, tôi cứ tưởng có thể anh là người New York mặc dù anh không nói giống người New York, như vậy….
-  Ừ, tôi là một người Do Thái, nếu đó là ý anh muốn nói – viên phi công nhếch mép cười nói, nhìn xuống đôi giày.
Maryk cười lớn:
-  Tôi sẽ kể cho anh mọi chuyện mà anh muốn biết. Thôi ta đi đến Chrysanthemum đi.
Họ ngồi trên chiếc trường kỷ bọc da trong phòng khách của chiếc du thuyền và Maryk kể câu chuyện dài cả tiếng đồng hồ, làm cách nào anh đi đến kết luận là Queeg bị điên khùng. Anh cuối cùng không còn lời nào nữa, ngồi yên lặng, nhìn qua cửa sổ, hải xưởng ồn ào, loảng xoảng, với cần trục, ống khói tàu, cột buồm sừng sững, cao vời vợi. viên luật sư đốt điếu xì gà mà hạm phó cho hắn, thở phì phèo một cách vụng về và chớp chớp mắt. Một lúc sau hắn nói:
-  Có bao giờ anh đọc cuốn tiểu thuyết của ông bạn Keefer chưa?
Maryk bối rối nhìn hắn, đầu óc trống rỗng như người ngủ mới dậy.
-  Hắn chưa cho ai biết cái đó. Chắc là phải dài lắm, hắn luôn luôn giữ thứ đó trong chiếc cặp da đen.
-  Có lẽ là một kiệt tác phẩm.
-  Phải. Tom rất thông minh, điều này không ai chối cãi được.
-  Tôi cũng muốn được đọc truyện đó. Tôi chắc rằng cuốn truyện sẽ phơi bày mọi cái phù phiếm, phí phạm của chiến tranh cũng như moi ra những ngu xuẩn, những tư tưởng phát xít tàn ác của những người lãnh đạo quân đội. Tác giả sẽ mỉa mai tất cả những chiến dịch, bài bác tất cả những người dân quân suy nghĩ đơn giản, đầy hài hước, rất dễ thương cam chịu với địn mệnh an bài. Rồi một đống những pha dâm đãng, nơi phát sinh áng văn xuôi trở thành âm điệu tuyệt đẹp, khi nàng con gái trút bỏ hết lớp xiêm y – Greenwald nhìn thấy nụ cười bí ẩn, khả nghi của Maryk, nhún vai nói tiếp – Tôi có thể đoán ra như vậy, vì các truyện tiểu thuyết nói về chiến tranh đã được phát hành, nhưng cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn. tôi cũng đã đọc hết các cuốn tiểu thuyết loại này. Tôi mê các cốt truyện mà tác giả xác minh được rằng những chàng chiến binh hung ác biết mấy, và những người dân thường cảm nghĩ cao tột biết mấy. tôi biết họ có cuộc sống thực tại, vì chính tôi cũng là một người dân dễ xúc cảm.
Hắn phì phèo điếu xì gà, miệng không còn cảm nhận một chút hương vị gì, bèn quăng điếu thuốc vào cái gạt tàn bằng đồng vơi còn phân nửa cát.
-  Làm sao anh có thể hút được những thứ này nhỉ? Được, Maryk. Tôi nói cho anh nghe, người bạn văn sĩ của anh là kẻ đê tiện, bẩn thỉu, chẳng giúp chúng ta được gì cả đâu.
-  Tôi không muốn hắn dính vào vụ này – Maryk nhẫn nại nói.
-  Phải vậy mới được. Nếu tôi có thể can thiệp vào vụ này, thì hắn sẽ không bao giờ được kêu làm nhân chứng. Những gì mình đã muốn làm thì mình đã làm rồi. Thực vậy, thà anh cứ nhận hết các lỗi lầm nhưng rất cao quý của anh là do tự chính anh hành động hơn là anh nhắm mắt nghe theo lời của một tên tiểu thuyết gia bàn ngang tán dọc về   tâm lý. Thực tế là y đang tìm cách chạy tội đây này, này nhé, y chẳng đã cảnh cáo anh trên thiết giáp hạm New Jersey hay sao? Y đã có những cái nhìn sâu sắc của một nhà văn nhạy bén. Lột mặt nạ lão Dấu Vàng, một cái tên rất hay, sau lưng hạm trưởng là một chuyện, nhưng y biết rất rõ rằng khi phải đối đầu với nó, y biết rõ những hậu quả mà y phải gánh chịu.
-  Sau những điều tôi đã nói với anh – Maryk nói với lời lẽ cầu khẩn chân thật như một đứa trẻ ngây thơ – anh có còn nghĩ Queeg là một người điên nữa không?
-  Không.
-  Như vậy là tôi tiêu tùng rồi – Maryk nói, run run.
-  Chưa chắc như vậy đâu. Còn một chuyện nữa. Làm sao mà họ đã để cho anh tiếp tục dẫn tàu về vịnh Lingayen?
Maryk liếm môi và nhìn đi chỗ khác:
-  Vậy chứ điều đó quan trọng sao?
-  Anh nói cho tôi hay đã thì tôi mới biết được.
-  Ừ, việc đó cũng rất kỳ lạ - Viên hạm phó lấy ra từ túi áo ngực một điếu xì gà và nói – Để xem nào, sau trận bão khi chúng tôi trở lại Ulithi, được yên ổn và gần nguyên vẹn, tàu chỉ bị bẹp một tí, mấy con heo rà mìn bị mất và một số tấm bạt che đậy cũng bung ra, móp méo, bể vỡ. tuy vậy tàu vẫn khiển dụng. vẫn có thể tiếp tục rà mìn được – Greenwald đưa que diêm đang cháy cho viên hạm phó mồi điếu  xì gà cháy đỏ - cảm ơn anh. Khi chúng tôi tới nơi, tôi đã trình ngay với giới chức bờ sở tại, với vị Chỉ huy trường Hải đội, tôi nghĩ là hải đội Năm thì phải, và báo cáo hết các chuyện đã xảy ra. Ông ta rất kích động, và đem Queeg lên bờ sáng hôm đó và đã có bác sĩ trưởng đến khám nghiệm cho ông ta. Theo bản kết quả khám nghiệm của bác sĩ – một đại tá y sĩ, người mập mạp và cái mũi kỳ lạ - viên bác sĩ nói, ông nghĩ rằng Queeg chẳng mắc một tí bệnh tâm thần nào cả. Và còn nói ông được xem là sĩ quan minh mẫn bình thường, có lẽ chỉ bị hơi mệt mỏi thôi. Nhưng ông ta không dám chứng nhận cho Queeg trở lại nhậm chức. Vì ông không phải là chuyên viên về tâm thần và Queeg đã đi biển bốn năm, và điều tốt nhất là gửi ông ta về Hoa Kỳ để giảo nghiệm tâm lý. Ông chỉ huy trưởng Hải đội tỏ vẻ phiền với tôi lắm. Tôi có mặt tại văn phòng ông ta trong khi bác sĩ làm phúc trình. Ông ta than, ông Đô đốc nôn nóng đốc thúc tăng cường thêm tàu rà mìn cho Lingayen vì trận bão đã gây tổn thất cho nhiều chiến hạm, và ông ta sẽ rất khổ tâm nếu loại bỏ chiếc Caine khỏi hàng ngũ chiến đấu. vì thế sau khi bàn thảo tới lui, ông đã dẫn Queeg đến văn phòng, và cho Queeg biết tình trạng thiếu hụt tàu rà mìn tới mức nào, và ông hỏi Queeg nghĩ rằng tôi có thể dẫn chiếc Caine đến Lingayen được không. Ông ta bảo Queeg hãy nghĩ tới quyền lợi cho hải quân, mà đừng để ý đến tình cảm cá nhân, và ông ta còn nói ông ta chắc chắn là sau vụ Lingayen, tôi sẽ phải chịu đủ mọi hậu quả mà tôi đã làm. Ừ, Queeg cũng thật sự làm cho tôi ngạc nhiên. Ông ta bình tĩnh trầm lặng. Ông ta bảo tôi đã làm hạm phó được mười một tháng rồi và sau thời gian dài như vậy, ông ta tin rằng ông ta đã huấn luyện cho tôi có đủ khả năng chỉ huy con tàu, mặc dù tôi đã có hành vi phản bội, nổi loạn. Ông ta đề nghị để tôi đem tàu đến Lingayen. Câu chuyện là như vậy.
Greenwald đang xoắn cái kẹp giấy và uốn thành hình một dấu hỏi. Rồi hắn liệng ra cửa sổ, cái kẹp giấy xoay vòng vòng. Hắn hỏi:
-  Queeg bây giờ đang ở đâu?
-  Ông ta đang ở nhà, Phoenix. Bác sĩ ở đây đã cho ông ta xuất viện và nói ông ta đã đủ sức khỏe đi nhận đơn vị. Ông ta tạm thời được biệt phái cho hải đội 12, ngồi quanh quẩn để chờ ra tòa án quân sự.
-  Nếu muốn treo cổ anh thì ông ta đã làm một điều sai lầm, khi đề nghị cho anh dẫn tàu đi Lingayen.
-  Đó là điều tôi cũng nghĩ như vậy. anh đoán được tại sao ông ta lại làm vậy không hả?
Viên phi công đứng dậy vươn vai, xoa bóp bàn tay và cổ tay để lòi ra vết sẹo bóng láng chạy dài lên tới ống tay áo.
-  Có thể như Phó đê đốc chỉ huy trường hải đội đã nói với ông ta, ông ta đang nghĩ tới quyền lợi của hải quân…Tôi sẽ trở lại Com Twelve đập cho Jack Challee một trận phủ đầu.
-  Thế chúng ta sẽ nhận cãi thế nào bây giờ? – viên hạm phó ngẩng đầu nhìn luật sư, lo lắng hỏi.
-  Không có tội, dĩ nhiên rồi. anh quả là một anh hùng vĩ đại của hải quân. Tôi sẽ gặp lại anh sau.