Charlie nhìn lên hai khuôn mặt lo âu. “Ê, Charlie. Anh nghĩ là em xỉu,” Tancred nói. “Em á?” Charlie ráng đứng thẳng lên. "Chuyện gì xảy ra vậy?” Billy hỏi, nhíu mày lo sợ. “Con ngựa,” Charlie nói khàn khàn. “Nó ở ngay tại đây, thở khì vô mặt anh. Thiệt kinh khủng.” “Ừm, chạm trán thế mà em không sao cả nhỉ,” Tancred vừa nói vửa cười vang. “Em thét lên như thế, chắc cái con tôi nghiệp ấy phải sợ chết khiếp.” Charlie không nhớ là nó đã la hét. Quanh nó, khu rừng xào xạc và có một tiếng sấm mơ hồ nổ trên đầu. “Có một con bướm trên đầu anh,” Billy quan sát, nhìn chong chonh vào cái đầu rối bù của Charlie. “Nó có bạc dát trên hai cánh.” “Thiệt không?” Charlie đưa tay lên đầu, nhưng con bướm trắng đã bay vụt vào khoảng tối. “Nào, tụi mình đi thôi,” Tancred nói, vẻ sốt ruột. “Tụi mình sẽ men theo rừng cây, đề phòng cái mụ de Grey đó mò tới kiếm Billy.” “Hoặc nhà Bloor,” Billy thêm. “Em có thể ở nhà anh lâu lâu được không, anh Tancred?” “Em muốn lâu chừng nào cũng được,” Tancred nói, nổi gió hiu hiu. “Mẹ anh sẽ mừng lắm. Đi nào, mười phút nữa và tụi mình sẽ ở nhà.” Chúng bắt đầu đi xuyên qua rừng, theo lối mòn mà bầy cừu gặm cỏ trên sườn đồi hay qua lại. Tancred dẫn đầu, trong khi Charlie đi sau chót. Charlie bắt đầu nghĩ miên man, tiếp theo nữa Billy sẽ đi đâu. Câu hỏi không lời ấy treo lơ lửng trên không cho đến khi một giải pháp lạ lùng bật ra. “Lúc nào cũng còn Lâu đài Gương,” Charlie nói, gần như cho mình mình nghe. “Cái gì?” Billy đứng sựng lại. “Em thuộc về lâu đài đó. Lâu đài đó là của em, Billy à.” “Bà bếp trưởng nói với em Lâu đài Gương là của gia đình em,” Billy thủng thỉnh nói. “Anh nghĩ em có thể sống ở đó cho đến khi em lớn à?” “Tại sao không? Có thể em sẽ sống ở đó an toàn, mãi mãi,” Charlie nói. Tancred quát: “Đi lẹ lên, hai đứa!” Billy và Charlie chạy rượt theo Tancred. Khi chúng đến gần Ngôi Nhà Sấm, cơn gió nhẹ biến thành một luồng gió mạnh và sấm nổi dữ hơn. “Ba anh đang vui vẻ,” Tancred nói. Nụ cười của Charlie bỗng đông cứng lại. Một hình thù khổng lồ vô hình phi nước kiệu sượt qua nó. Nó có thể cảm nhận được trọng lượng và sức mạnh của con ngựa khi con ngựa nện thịch thịch xuống mặt đất. Hai đứa kia bao giờ cũng đã nhận ra. Cả bọn co cụm lại với nhau trong khi con ngựa ma bắt đầu lượn vòng quanh chúng, vừa hí và thở khò khè vừa xà quần xà quần quanh đám trẻ. Lá cây trút ào ào khỏi cành khi sinh vật đó đứng lên trên hai chân sau. Chúng thấy hai chân trước của sinh vật hươ hươ trên không, và Charlie nghĩ bụng: những móng guốc đó có thể bổ xuống đầu nó bất cứ lúc nào, và khi đó sẽ không còn thằng Charlie Bone nữa. Thế rồi, Billy Raven làm một việc hoàn toàn bất ngờ. Nó rời khỏi lối mòn và bước về phía con ngựa ma, miệng lầm rầm êm ái. “Nó điên rồi,” Tancred bắt chặt lấy vai Charlie. “Quá đúng,” Charlie thì thào. Đành rằng Billy biết cách giao tiếp với thú vật, nhưng làm sao mà nó có thể nói chuyện được với một quái vật như Borlath chứ? Một lần nữa tiếng sấm im bặt và cây cối im phăng phắc. Một tiếng hí êm, dài, rồi thinh lặng. Và trong quãng lặng im ấy, Billy quỳ thụp gối xuống, cúi đầu. “Cái gì…?” Giọng Tancred vỡ ra kinh hãi. “Suỵt!” Charlie túm lấy áo gió của Tancred. Con bướm trắng lại xuất hiện và giờ nó bay chập chờn cách Billy một chút; chóp đôi cánh bạc nhấp nháy của nó quạt lẹ đến nỗi dường như đang vẽ nên một hình thù trên không. Cái hình thù đó đậm nét dần và một vật to lớn bắt đầu hiện ra bên dưới đôi cánh bạc dập dờn một con ngựa trắng, cao, với cái đầu kiêu hãnh và cái bờm dài rủ xuống. Charlie há hốc miệng và quay lưng đi, kéo theo Tancred. “Trông nó đâu có hung dữ,” Tancred nói khẽ vào tai Charlie. “Đúng rồi,” Billy nói. “Sao em biết?” Charlie chất vấn. “Nó nói với em à?” “Phải.” Billy ngoái đầu lại và cười với hai thằng lớn. “Không sao đâu, thiệt đấy. Nó… bà ấy là Hoàng hậu.” “HOÀNG HẬU?” Cả Tancred và Charlie thốt lên. “Hoàng hậu Berenice,” Billy nói với chúng. “Bà là vợ của Vua Đỏ.” “Ý em là…” Tâm trí Charlie quay mòng mòng. Nó cố nhớ lại những gì Manfred đã nói về cuộc thí nghiệm: một bia mộ khắc chữ B. Những khúc xương ngựa chôn bên dưới ngôi mộ, và trái tim trong một cái tráp. “Không phải Borlath,” Charlie lập bập, “mà là Berenice.” Một nụ cười toét chạy ngang mặt, và nó dịch lại gần Billy hơn: “Cái lão gì ngớ ngẩn đó lại sai nữa rồi.” Tancred, thận trọng đi theo, hỏi: “Làm sao bà ấy tới đây được?” “lão Ezekiel đã làm cho bà sống lại. Đó không phải là trái tim của Borlath, mà là trái tim của Hoàng hậu. Hoàng hậu Berenice.” Giờ chúng đã đứng ngay sau lưng Billy, thằng bé đang thư thả đứng lên. “Bà đi theo tụi mình,” Billy nói. “Bà nói chúng ta là những đứa con của bà và bà muốn bảo vệ chúng ta. Có ai đó đã mang bà đến đây từ Thế Giới Khác, nhưng linh hồn bà cứ nhạt dần, lôi bà quay về, cho tới khi cây gậy phép của anh làm bà ổn định lại.” “Cây gậy phép của anh?” Charlie ngỡ ngàng. “Anh nghĩ Manfred hủy mất nó rồi chứ, nhưng mà…” Nó nhìn con bướm trắng, đôi cánh của con bướm trông chỉ như một đốm sáng nhỏ xíu ở giữa hai tai con ngựa. “Người ta nói gậy phép thường có thể mang nhiều hình dạng khác nhau khi cần,” Tancred nói. “Ồ,” Charlie chớp mắt. Hóa ra Tancred hiểu biết hơn Charlie tưởng. Con ngựa bắt đầu rừ rừ, lần này thiệt nẹh, nhưng tạo nên một chuỗi âm thanh gần giống như tiếng người. Billy chăm chú lắng nghe, và khi cuối cùng con ngựa im lặng, nó nói với bọn kia: “Bà nghe tụi mình nói chuyện về Lâu đài Gương và chuyện đó làm bà hoảng sợ. Bà đã trông thấy hòn đảo có tòa lâu đài xây trên đó, và bà biết chuyện gì đã xảy ra ở đó.” “Vậy là bà ấy biết nó ở đâu,” Charlie tư lự nói. “Em cũng nghĩ vậy,” rõ ràng là Billy không biết chút gì hết về lịch sử bi thảm của tòa lâu đài này. “Charlie, làm ơn nói với anh là em sẽ không làm điều mà anh nghĩ em sẽ làm đi,” Tancred van vỉ. Charlie cười toét: “Đó chỉ là một ý nghĩ thôi mà.” Nhưng ý nghĩ đó đang lớn dần lên. Ba thằng bé đứng ngây như tượng, rối bời, và ngó sinh vật uy nghi đang rứt cỏ. Thiệt khó mà tin rằng đó là Hoàng hậu, cách đây gần một ngàn năm. Lão Ezekiel đã phạm sai lầm, nhưng dẫu sao việc lão làm được cũng thiệt kỳ diệu. Lão vẫn là một phù thủy hùng mạnh và chẳng bao lâu nữa lão sẽ lần ra Billy và điệu cổ thằng bé về lại Học viện Bloor, trừ phi… Ý nghĩ trong đầu Charlie loang dần thành một kế hoạch. Và kế hoạch đó, không hiểu sao, lại trở thành một đáp án duy nhất. Tận đáy lòng, Charlie biết, trong tâm trí nó, tìm ra cha nó chính là việc ưu tiên, đứng thứ nhì mới là sự an toàn của Billy. “Hỏi xem bà có đưa tụi mình tới hòn đảo được không?” Charlie bảo Billy. “Charlie!” Tancred phản đối. “Em không đi được đâu!” “Em nghĩ chúng ta cần phải đi.” Billy hăm hở thực hiện. Nó quỳ gối xuống lần nữa và bắt đầu rì rầm dịu dàng với con ngựa. Con ngựa ngẩng đầu lên, đôi tai vểnh ngược ra sau và cặp mắt to trợn tròn, sợ hãi. “Bà không thích ý kiến đó,” Billy thì thào. “Nói cho ba biết về ba anh đi,” Charlie giục. “Nói cho bà biết em phải kiếm được một chỗ an toàn.” Billy lại bắt đầu, và lần này có pha thêm một tiếng hí ai oán vào trong ngôn ngữ của nó. Bất thình lình, con ngựa nhấc hai chân trước lên; bật ra một tiếng kêu hoảng hốt, và lao nhanh qua rừng cây. Bọn trẻ căng tai nghe tiếng vó ngựa nện rầm rập cho đến khi biến mất hẳn, và âm thanh duy nhất chúng nghe được là tiếng sấm và tiếng gió luồn qua những hàng cây. “Thế là xong,” Tancred nói. “Tụi mình đi tiếp về nhà anh đi.” “Không,” Charlie nói. “Bà ấy sẽ quay trở lại.” “Em giỡn hả? Con ngựa đó là một con vật sợ sệt, Charlie. Nó sẽ không bao giờ đưa em tới Lâu đài Gương đâu.” “Bà ấy sẽ đưa,” Charlie bướng bỉnh. “Bà ấy nghĩ chúng ta những đứa con của bà. Bà sẽ bảo vệ chúng ta.” Billy không thích tranh cãi với những anh chàng kiểu như Tancred, nhưng sau khi hết liếc cậu bé bão tố lại nhìn sang Charlie, nó rụt rè nói: “Em nghĩ anh Charlie nói đúng.” “Vậy thì cứ việc,” Tancred nói. “Nhưng tôi đi đây.” Khi đùng đùng bỏ đi, nó nói với lại: “Anh sẽ mang một ít đồ ăn cho mấy đứa, nếu tụi bay vẫn còn ở đó, mà anh nghĩ là sẽ còn ở đó.” “Anh có nghĩ là anh Tancred đúng không?” Billy hỏi Charlie. “Không,” Charlie ngồi xuống và duỗi thẳng người, dựa cho thoải mái vào một thân cây to. Một tiếng sấm nổ vang, theo sau là một cơn mưa rào bất chợt, và Billy nép sáp lại bên cạnh Charlie. “Anh Tancred nổi cáu,” Billy nói. “Anh ấy sẽ nguôi bây giờ ấy mà,” Charlie bảo thằng bé. Nhưng tuy vậy, bão càng lúc càng mạnh hơn. Gió réo ù ù qua những lùm cây, tuốt cho lá và cành khô rớt xao xác xuống những bụi cây thấp. Những cây tầm ma, những bụi mâm xôi và cỏ khô trốc rễ bay vèo vèo quanh Charlie và Billy khi chúng núp chùm nhum dưới cây sồi lớn, giơ cánh tay lên chống đỗ. Sau chừng nhiều giờ đồng hồ giã đập, thời tiết dịu xuống, hai thằng bé lăn ra ngủ thiếp đi, kiệt sức vì buổi sáng dị kỳ. Charlie tỉnh giấc, thấy Tancred đang sải bước về phía nó với một cái khay lớn: “Anh biết hai đứa vẫn còn ở đây mà,” Tancred nói, đặt cái khay xuống bên cạnh thân cây. Charlie dòm những dĩa thịt gà quay, rau và nước sốt, cùng ba chén bánh mứt mận và kem sữa trứng. Bữa điểm tâm của bà Silk dường như đã cách xa nhiều giờ rồi, và mùi thơm của bữa tiệc trước mặt đủ để cho một thằng bé đói meo reo lên sung sướng. Tiếng reo của Charlie đánh thức Billy dậy, thằng nhóc trượt nghiêng người vào đám cỏ. “Lúc nãy có bão,” Charlie nói khẽ lúc ngoạm cái đùi gà. “Xin lỗi. Ba anh với anh tranh luận với nhau,” Tancred nói. “Ông ấy bảo hai đứa em đáng lý ra phải ăn trên bàn hẳn hoi, chứ không phải chui nhủi trong rừng như những kẻ đào tẩu. Anh mới bảo là anh sẽ không cùng ăn với ba nếu ông ấy cứ như thế. Ba anh suýt nữa thì nổi điên, nhưng mẹ anh bảo bọn con trai lúc nào mà chẳng là bọn con trai, mẹ nhắc lại là ba và mẹ cũng từng ăn nhậu trong rừng vào hồi trẻ trung xa xưa. Nghe vậy ba anh mới bình tĩnh trở lại.” Khi tất cả những dĩa với tô đều đã được vét sạch sẽ, Tancred hỏi Charlie và Billy đã sẵn sàng về nhà với nó hay chưa. “Coi bộ rõ mười mươi là con ngựa sẽ không quay lại,” nó nói. “Bà ấy chắc chắn đã phi nước đại qua Thế Giới Khác rồi.” Charlie liếm mẩu đồ ăn cuối cùng còn dính trên mấy ngón tay, đáp: “Không. Bà ấy sẽ trở lại.” “Lạy trời, em thật ngang ngạnh, Charlie Bone,” Tancred nói rồi đứng lên. Nhưng lần này nó có vẻ kiềm chế được cơn tức giận hơn: “Anh phải làm gì với em đây?” “Gọi điện cho Ông cậu Paton của em,” Charlie bảo nó. “Gọi và giải thích chuyện gì đã xảy ra. Tất cả mọi chuyện. Và nói đêm nay em sẽ ở nhà anh, để cho mẹ em khỏi lo lắng.” “Anh sẽ cố hết sức. Nhưng sẩm tối anh sẽ trở lại, và nếu hai đứa vẫn còn ở đây, thì anh sẽ lôi cả hai về Ngôi Nhà Sấm, bất kể em có nói gì đi chăng nữa. Hai đứa không thể ở trong rừng suốt đêm được.” “Đúng vậy,” Billy lạc cả giọng. “Bởi vì Asa Pike sẽ xuất hiện.” Charlie đã quên béng Asa. “Tụi em sẽ không ở đây đâu,” nó nói chắc chắn. “Hoàng hậu sẽ quay lại mà.” "Thôi được. Cứ để coi.” Đặt thăng bằng cái khay lên chỏm tóc vàng tua tủa, Tancred nhảy tưng tưng qua những hàng cây, và Billy phì cười thực sự, lần đầu tiên trong ngày hôm ấy. Trong một vài giờ tiếp theo đó, hai thằng bé chơi trò trốn tìm, đuổi theo lá, leo cây và ngủ gà ngủ gật. Nhưng khi những bóng râm cứ kèo dài ra, thì trái tim Charlie bắt đầu thắt lại. Nó nhận ra mình đã hy vọng quá nhiều. Nó đã mong chờ cái gì? Một mối quan hệ gia đình mơ hồ truyền hời hợt qua những thế hệ suốt một ngàn năm chăng? Chúng ta vẫn là Hậu Duệ của Vua Đỏ, Charlie nghĩ một cách tuyệt vọng, vì vậy chúng ta cũng vẫn là con cháu của Hoàng hậu. Với Billy, nỗi thất vọng cuối cùng đâm ra quá sức chịu đựng. Nó gục xuống lối mòn, khóc lóc: “Bà ấy sẽ không đến, đúng không?” Charlie chỉ còn biết nhún vai: “Nhưng bà ấy có cây gậy phép của anh,” nó nói, cố làm cho tình hình sáng sủa lên. “Nếu cây gậy đúng là con bướm trắng đó.” Lúc này màn đêm buông xuống rất nhanh. Khu rừng trở nên ướt át, lạnh buốt, và Charlie biết nó sẽ cần phải ra một quyết định. Khi nhìn thấy cái đầu sáng nhạt của Tancred thấp thoáng đàng xa, nó nói: “Thôi được, anh Tancred. Tụi em sẽ đi theo anh.” Billy nhổm bật dậy, vui mừng vì cuối cùng nó cũng được rời khỏi khu rừng tối. Nhưng Tancred đột nhiên ngừng lại và nói bằng giọng thì thào: “Charlie… sau lưng em kìa!” Charlie quay lại, rất chậm rãi, trong bụng nghĩ sẽ nhìn thấy một hình thù giống như chó sói mà Asa thường biến thành khi đêm đến. Nhưng không phải Asa. Mà là Hoàng hậu. “Bà ấy trở lại,” Billy nín thở. Bộ lông của con ngựa trắng sáng óng ánh trong màn đêm. Bà đứng đối diện với bọn chúng, chân bà tấn chắc xuống đất, cái đầu kiêu hãnh của bà nghiêng nhẹ để nhìn chúng bằng một con mắt đen, to. Charlie vui mừng thấy trên mái bờm dài của bà, lấp lánh đậu một con bướm trắng. “Nói chuyện với bà ấy nữa đi, Billy,” Charlie lẳng lặng bảo. “Nói với bà là chúng ta cần bà như thế nào đi.” Billy tiến đến chỗ con ngựa, và quỳ một gối xuống, nó kể lại hai câu chuyện của chúng bằng chuỗi âm thanh ậm ừ, ngâm nga mê ly. Câu chuyện về ba mẹ đã chết của nó và cuội đời cô đơn của nó, câu chuyện về người cha bị mất tích của Charlie. Và, khi thằng bé bạch tạng nói, Charlie ngắm gương mặt của con ngựa. Nó chắc chắn đã trông thấy một giọt nước mắt rỏ xuống từ con mắt nâu sáng của con ngựa. Khi Billy đưa ra lời khẩn nài yếu ớt cuối cùng, con ngựa hạ thấp đầu xuống và hí lên khe khẽ. Billy quay sang Charlie: “Bà đồng ý rồi. Bà nói nỗi sợ của bà sẽ là vô lý khi đem so với niềm hạnh phúc của tụi mình.” Charlie bật ngửa ra sau: “Bà nói vậy à?” Và nó nhìn con ngựa, tự hỏi làm thế nào mà nó với Billy có thể leo lên lưng ngựa, và một điều nữa, làm thế nào mà chúng ngồi vững được. Thật đáng ngạc nhiên, Tancred đã nghĩ ra từ trước. Khi Tancred đi tới trảng trống, Charlie thấy cậu ta đang cầm một bộ yên cương lớn và vài sợi dây da. “Của ba anh đó,” Tancred bảo. “Ông đã từng cưỡi những cơn bão. Cưỡi bằng cách nào thì anh chịu.” “Rốt cuộc thì chính anh cũng tin là bà sẽ quay lại, đúng không?” Charlie nói. “Anh nghĩ nếu bà quay lại thì hai đứa không thể phi nước đại mà không có những thứ này,” Tancred nói, cười tươi rói. Con ngựa trắng để cho chúng lắp yên cương lên mình, trợ giúp chúng bằng mọi cách, và khi việc đã xong, Tancred đỡ Charlie leo lên lưng ngựa, và rồi đến Billy, ngồi ép sát phía sau Charlie, ôm chặt cứng quanh eo nó. “Xong rồi hả?” Charlie nói, gần như không tin nổi chuyện sắp xảy ra. “Tạm biệt, Tancred. Và cảm ơn anh.” “Chúc may mắn,” Tancred nói, giọng cộc lốc của nó không thể che giấu được nỗi bất an. Con ngựa bắt đầu thong thả qua rừng cây, nhưng khi nó tăng tốc, Charlie hét lên: “Tancred, anh nói chuyện với Ông cậu em chưa?” "Ông ấy không có ở đó. Anh đã nói với mẹ em là em ở nhà anh đêm nay.” “Anh phải nói với Ông cậu em. Thề với em là anh sẽ nói đi, Tancred.” “Anh thề!” Tancred hét vang. Nó chờ cho con ngựa trắng khuất khỏi tầm mắt, và rồi nó chạy về nhà. Màn đêm ập xuống thật nhanh. Và Tancred trông thấy một con thú xám núp thò lõ trong bụi rậm, ngóng nhìn và dỏng nghe. Trong một giây, Charlie tự hỏi, phải chăng mình nên suy nghĩ kỹ hơn một chút trước khi nhảy vào màn đêm – hoặc trước khi nhảy lên lưng ngựa như thế này. Nhưng bản tính của nó vốn không phải là đứa nhây nhưa gặm nhấm những lỗi lầm của quá khứ, vì vậy nó nắm chặt dây cương và chuẩn bị thưởng thức chuyến rong ruổi của đời mình. Khi đã ra khỏi khu rừng, con ngựa đi cặp mé một lối đi hẹp dẫn lên đỉnh Khu Đồi Cao. Từ đây, thành phố trải ra trước mắt bà như một chòm sao xa xăm. Vua Đỏ và Hoàng hậu xưa vẫn hay cưỡi ngựa lên ngọn đồi này, và bà biết chính xác lâu đài của họ nằm đâu. Thậm chí trong Thế Giới Mới rực ánh đèn và tiếng ồn này, với những tòa nhà cao nhấp nháy này, bà vẫn thấy những đường nét của những bức tường lâu đìa, đằng sau tòa nhà xám, đồ sộ đang trông giữ những hậu duệ khổ đau của bà. Thành phố bị vùi dập vì quá khư đau thương. Hoàng hậu cảm nhận được điều đó khi bước đi trên đồi. Điều đó khiến bà ưu phiền, bởi vì bà đã từng sống rất nhiều năm hạnh phúc trong Lâu Đài Đỏ ấy. Vài tháng trước khi người con thứ mười của bà ra đời, một dịch bệnh chết chóc đã quét qua đất nước. Hoàng hậu bị nhiễm bệnh, và mặc dù đã hết sức chống chỏi, nhưng bà yếu đến độ, khi đứa con gái là Amoret được sinh ra, Hoàng hậu đã biết bà sẽ không còn sống được nữa để bảo vệ đứa bé, cũng như một đứa khác, vốn là đứa dễ bị hai hơn trong đám con của bà. Nhưng giờ đây bà đã có lại được hai đứa trong bầy con, và bà sẽ sử dụng cuội đời mới lạ kỳ của mình để giúp đỡ những cậu bé dũng cảm này. Gần một ngàn năm qua, Hoàng hậu Berenice sống trong mảnh đất chết – là Thế Giới Khác – và bước vào cuội đời mới này, bà mang theo mình những sức mạnh mà cả bà lẫn con ngựa yêu của bà không hề có suốt ngần ấy năm tháng. Những sức mạnh đó có thể giúp bà leo lên những vách đá dốc đứng, vượt qua những vực thẳm rộng nhất, và dễ dàng bay qua những đợt sóng sôi trào. Họ bước đi dưới một mặt trăng tròn vành vạnh, và cứ thế, suốt quãng đường, họ bám men theo bờ biển, một lộ trình mà Hoàng hậu biết rất rành. Charlie nhận thấy nó và Billy đã có một cuộc sống huyền diệu vào đếm ấy. Chúng bước vào một thế giới thậm chí còn lạ lùng hơn cả những nơi mà Charlie từng thấy khi nó đi vào những bức tranh. Không có đường xá hay nhà cửa, không có đèn điện hay tiếng ồn: mảnh đất này cổ xưa, hoang dã và vắng vẻ. Có vài lần Charlie ngủ gật, nhưng khi tỉnh giấc, nó thấy mình vẫn còn cưỡi trên mình ngựa, với cái đầu ngủ say của Billy tựa vào lưng, và con bướm trắng nhấp nháy phía trước. Nó nhận thấy con ngựa không hề ngừng nghỉ, không một lần, cho đến khi bà đi nước kiệu vào một cái vịnh rộng thênh thang, nơi bãi biển lấp lánh vỏ sò và cát bạc. Con ngựa cất một tiếng hí êm, và Billy nói: “Chúng ta đến rồi,” “Ở đây à?” Charlie nhìn ra xung quanh. Tất cả những gì nó có thể thấy chỉ là mặt biển loang loáng và bãi biển; sau lưng chúng là một vách đá cao vợi đâm thẳng vào màn đêm. “Đằng kia kìa!” Billy tuột khỏi lưng ngựa và chạy về phía mép nước. “Đó!” Nó chỉ. “Anh không thấy gì cả.” Charlie rút chân ra khỏi bàn đạp và nhảy xuống bãi biển. “Đâu?” Nó dõi tìm đường chân trời tối đen và thấy, xa thật xa, một đốm sáng leo lét bí ẩn,tựa như ánh phản chiếu của những ngôi sao dưới nước. “Anh nghĩ giờ anh thấy nó rồi,” Charlie nói. Và nó tự hỏi, có phải ai đó trong lâu đài đằng xa ấy đang thắp nến hay không. Ba của nó, có lẽ thế. Con ngựa hí lên một tiếng lớn, khẩn nài. Billy nói: “Bà bảo chúng ta bây giờ không được tới đó. Phải đợi đến khi trời sáng đã.” Và chúng ta sẽ đến đó bằng cách nào? Charlie tự hỏi. Nhưng nó đã quá mệt, chẳng thể suy nghĩ thêm được nữa. Cơn buồn ngủ đè nặng trĩu hai mí mắt và chân cẳng nó sắp xuội đến nơi. Chúng ngủ trong một cái hốc ấm cúng ở chân vách đá, và con ngựa đứng ngay bên cạnh, che chở cho chúng khỏi cơn gió đêm. Chúng thức giấc, thấy bầu trời xanh thẳm và mặt biển trong vắt, tĩnh lặng. Nhưng hòn đảo đâu rồi? Đường chân trời đã chìm khuất trong làn sương mù. Bọn trẻ cởi vớ và tháo giày ra, xắn quần lên và lội xuống biển, không rời mắt khỏi màn sương đầy cám dỗ. Nước liếm tới đầu gối chúng và bao tử Charlie lộn lạo cả lên. Nó không thể không hy vọng là nếu nó tới được lâu đài ẩn hiện kia, thì ba nó thể nào cũng sẽ thết bọn nó một bữa sáng nóng hổi. Mà thôi, một bữa sáng nguội cũng được. Nhưng đúng lúc đó, một việc không còn vẻ hứa hẹn nữa. Đốm lập lòe hồi đêm qua có thể là bất cứ cái gì: một con tàu đi ngang, một vì sao băng, một ảo giác? Bàn chân Charlie bắt đầu tê cứng. Nó lội trở lại bờ với Billy ì oạp đằng sau. Chúng ngồi trên bãi biển vương đầy vỏ sò, lấy vớ lau những bàn chân ướt mem. Charlie sửng sốt khi thấy gương mặt Billy rạng ngời niềm vui sướng. Nó nghĩ nó nên cảnh báo thằng bé rằng tình thế này không hoàn toàn lạc quan đâu. “Nếu lỡ tụi mình không bao giờ tìm được lâu đài ấy thì sao?” Charlie nói. Billy vẫn không tắt nụ cười: “Lâu lắm rồi em chưa được nhìn thấy biển. Thiệt tình là em cũng không nhớ nổi nữa.” Charlie chẳng thấy hân hoan như vậy. Dù gì nó cũng cần phải kéo Billy trở lại với thực tại. “Có lẽ tụi mình đến sai chỗ rồi.” Nó liếc nhìn con ngựa trắng đang rứt những cọng cỏ trên vách đá và hạ thấp giọng: “Ý anh là, lúc bà… bà còn sống, thì cũng đã cách đây gần một ngàn năm rồi. Rất có thể là bà đã lầm đường.” “Em không nghĩ là bà lầm đường,” Billy xoa xoa mắt kiếng của nó và nheo mắt về phía biển. Charlie ngước nhìn lên. Màn sương mù bắt đầu loãng đi, và kìa, trên mặt biển, một hòn đảo hiện ra. Một hòn đảo tuyệt đẹp, màu xanh da trời ở đằng xa, với một viền chóp sáng lóa. Một lâu đai thủy tinh sáng chói. Trông thấy hòn đảo, tiếng kêu của con ngựa trắng bỗng nghe rất giống tiếng người. Bà phi trên mặt biển, những móng guốc hất tung những vỏ sò bay vụt lên không, lướt vù qua những tảng đá trồi lên và biến mất khỏi tầm mắt. Nhưng bọn trẻ vẫn nghe thấy bà gọi, khi bà phi nước đại rời bãi biển. “Bà nói sẽ không rời tụi mình đâu,” Billy nói. “Nhưng trái tim bà không cho phép bà nhìn hòn đảo nơi con cháu của bà đã chết. Ý bà là sao hả anh?” Charlie quyết định đã đến lúc kể cho Billy nghe lịch sử thật của Lâu đài Gương. Nhưng liệu Billy có còn muốn tới đó không, một khi nó biết chuyện gì đã xảy ra với Hoàng tử Amadis?